
Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2024. ISBN: 978-604-82-8175-5
446
NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA CÁC YẾU TỐ TÂM LÝ ĐẾN
VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH CỦA CÁC NHÀ ĐẦU TƯ CÁ NHÂN
TẠI SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN HÀ NỘI
Triệu Đình Phương
Trường Đại học Thuỷ lợi, email: phuongtd@tlu.edu.vn
1. GIỚI THIỆU CHUNG
Trong rất nhiều năm, lý thuyết về tài chính
truyền thống đã luôn cho rằng các nhà đầu tư
hành động một cách hợp lý trong việc đánh
đổi giữa rủi ro và lợi nhuận trên thị trường
chứng khoán. Tuy nhiên, các nghiên cứu về
tài chính hành vi cho thấy điều ngược lại, các
nhà đầu tư do chịu ảnh hưởng của các yếu tố
tâm lý nên đã không hành xử hợp lý như
trong lý thuyết tài chính truyền thống. Các
nghiên cứu từ các nước trên thế giới đều đã
xác định rằng yếu tố tâm lý có tác động đến
việc ra quyết định của các nhà đầu tư. Vì lý
do đó, nghiên cứu này cố gắng thu hẹp
khoảng cách về sự khác biệt về vị trí địa lý và
đặc điểm nhân khẩu học giữa Việt Nam và
các quốc gia khác bằng cách kiểm tra tác
động của các yếu tố tâm lý đến việc ra quyết
định của các nhà đầu tư cá nhân tại sở giao
dịch chứng khoán Hà Nội trên thị trường
chứng khoán Việt Nam.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tập trung phân tích mối quan
hệ giữa 4 yếu tố tâm lý: Quá tự tin
(Overconfidence), bảo thủ (Conservatism),
bầy đàn (Herding), thiên vị sẵn có
(Availability Bias) đến mức độ chấp nhận rủi
ro của các nhà đầu tư cá nhân (Decision
Making) sử dụng hồi quy đa biến cho các dữ
liệu thu thập được từ 200 nhà đầu tư trong
khoảng thời gian tháng 05/2024 - 06/2024.
2.2. Khung phân tích
Tâm lý quá tự tin có thể được hiểu là nhà
đầu tư có xu hướng cho rằng thành công của
bản thân là dựa vào tài năng của chính mình
đồng thời đổ lỗi cho sự thất bại của bản thân
là do “không may mắn”, dẫn đến việc đánh
giá quá cao năng lực của bản thân. Nghiên
cứu của Lim (2012) cho thấy tâm lý quá tự
tin có tác động dương đến việc ra quyết định
của nhà đầu tư, tuy nhiên Atif (2014) và
Kengatharan (2014) lại cho thấy tâm lý quá
tự tin lại có tác động âm đến việc ra quyết
định của các nhà đầu tư.
Tâm lý bảo thủ được hiểu là nhà đầu tư
thường có xư hướng ủng hộ những bằng
chứng trước đây hơn bằng thông tin và dữ liệu
mới xuất hiện cũng như họ sẽ ủng hộ thông tin
càng dễ hiểu hơn là một thông tin có tính phức
tạp, điều này dẫn đến độ trễ trong biến động
giá khi xuất hiện thông tin mới trên thị trường.
Nghiên cứu của Kengatharan (2014) tại sàn
giao dịch chứng khoán Colombo của Srilanka
cho thấy tâm lý bảo thủ có ảnh hưởng âm đến
việc ra quyết định của nhà đầu tư.
Tâm lý bầy đàn thể hiện xu hướng nhà đầu
tư cá nhân luôn hành động theo đám đông vì
người đó cho rằng các quyết định của đám
đông luôn luôn chính xác. Cá nhân có tâm lý
bầy đàn thường đầu tư dựa trên hành vi mua
và bán của đám đông dẫn đến hiện tượng
bong bóng trên thị trường chứng khoán. Theo
nghiên cứu của Wamae (2013) tâm lý đám
đông có ảnh hưởng dương đến việc ra quyết
định của nhà đầu tư, tuy nhiên nghiên cứu
của Lim (2012) lại cho thấy yếu tố này không
có tác động gì.

Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2024. ISBN: 978-604-82-8175-5
447
Tâm lý thiên vị sẵn có là khi nhà đầu tư
chọn lựa các khoản đầu tư dựa trên thông tin
sẵn có, như quảng cáo, đề xuất từ cố vấn, hoặc
gợi ý từ bạn bè. Điều này thường dẫn đến việc
bỏ qua quá trình nghiên cứu và xác minh, một
bước quan trọng trong quá trình đầu tư.
Nghiên cứu của Nofsingera và Varmab (2013)
cho thấy yếu tố này có ảnh hưởng dương đến
việc ra quyết định của nhà đầu tư.
Nghiên cứu này sử dụng hồi quy đa biến
để đánh giá xem yếu tố tâm lý nào trong 4
yếu tố nêu trên có ảnh hưởng nhiều nhất đến
việc ra quyết định của các nhà đầu tư, tác giả
đề xuất mô hình như sau:
DM = β0 + β1Over + β2Cons + β3Herd
+ β4Avai + ε (1)
trong đó:
DM: Decision Making;
Over: Overconfidence;
Cons: Conservatism;
Herd: Herding;
Avai: Availability Bias.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Kết quả khảo sát cho thấy có khoảng 60%
người tham gia phỏng vấn là nam, 40% là nữ,
đa phần trong số đó có độ tuổi từ 31-40 (chiếm
40.5%), còn lại các độ tuổi từ 21-30 chiếm
20.5%, từ 41-50 chiếm 33%, từ 50 trở lên và
dưới 21 tuổi chiếm lần lượt 4.5% và 1.5%.
Trong số 200 người tham gia phỏng vấn, đa
phần đều đang làm việc tại các cơ quan nhà
nước, các công ty tư nhân (chiếm 62%), còn
lại là chủ các doanh nghiệp tư nhân (chiếm
26%), những người đã nghỉ hưu (10%) và sinh
viên (2%). Có thể thấy do độ tuổi tham gia đầu
tư chủ yếu từ 21-50 tuổi, nên kinh nghiệm đầu
tư cũng phong phú hơn với số năm kinh
nghiệm chiếm chủ yếu từ 6-8 năm với tỉ lệ
46%, từ 3-5 năm chiếm 25.5%, từ 9-11 năm
chiếm 17.5% và trên 11 năm với dưới 3 năm
chiếm tỉ lệ lần lượt 4.5% và 6.5%. Kết quả
khảo sát cũng cho thấy đa phần các nhà đầu tư
đều sẵn sàng chấp nhận mức rủi ro cao để đổi
lại mức lợi nhuận cao hơn (chiếm 72.5%), còn
lại 27.5% nhà đầu tư lựa chọn cho bản thân
những cổ phiếu có độ an toàn cao.
Bảng 1. Kết quả khảo sát
Tỉ lệ giới tính tham gia khảo sát (%)
Nam 60
Nữ 40
Cơ cấu độ tuổi tham gia khảo sát (%)
Dưới 21 tuổi 1.5
Từ 21-30 20.5
Từ 31-40 40.5
Từ 41-50 33
Từ 50 trở lên 4.5
Tình trạng việc làm (%)
Đang làm việc tại các cơ quan, công ty 62
Sinh viên 2
Tự tạo việc làm 26
Đã nghỉ hưu 10
Kinh nghiệm đầu tư (%)
Dưới 3 năm 6.5
Từ 3-5 năm 25.5
Từ 6-8 năm 46
Từ 9-11 năm 17.5
Trên 11 năm 4.5
Mức độ chấp nhận rủi ro (%)
Thích rủi ro 72.5
Không thích rủi ro 27.5
Dựa trên kết quả khảo sát, tác giả tiến hành
ước lượng mô hình (1), kết quả như sau:
Bảng 2: Kết quả ước lượng
Biến độc lập Hệ số ước lượng
Over (Overconfidence) 0.457***
Cons (Conservatism) -0.352**
Herd (Herding) -0.054
Avai (Availability bias) 0.453**
Hệ số xác định (R2) 0.704
***,**: Có ý nghĩa ở mức 1%, 5%.
Hệ số xác định là 0.704 cho thấy mô hình
hồi quy giải thích được 70.4% sự thay đổi
trong quyết định đầu tư của nhà đầu tư, đây là
tỉ lệ chấp nhận được khi so sánh với kết quả
của các nghiên cứu trước như Lim (2012) có
R2 = 0.657, Wamae (2013) có R2 = 0.665, các
hệ số ước lượng đều có ý nghĩa ở mức 1% và

Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2024. ISBN: 978-604-82-8175-5
448
5%. Từ kết quả ước lượng ở bảng 2, chỉ có 2
trong 4 yếu tố tâm lý có ảnh hưởng dương đến
mức độ chấp nhận rủi ro của nhà đầu tư, trong
đó tác động lớn nhất đến quyết định đầu tư của
nhà đầu tư là yếu tố tâm lý quá tự tin
(Overconfidence) với hệ số ước lượng là
0.457, điều này cho thấy đa phần các nhà đầu
tư đều quá tự tin về khả năng của bản thân và
đều cho rằng các quyết định đầu tư của mình
là đúng, họ cho rằng lợi nhuận đạt được trong
quá trình đầu tư là nhờ vào năng lực của họ.
Điều này cũng giống với kết quả nghiên cứu
của Lim (2012) nhưng lại đi ngược lại với kết
quả nghiên cứu của Atif (2014) và Kengatha-
ran (2014) khi hai tác giả này chỉ ra tâm lý quá
tự tin có tác động ngược chiều đến quyết định
đầu tư. Tiếp đến là thiên vị sẵn có (Availability
Bias) với hệ số ước lượng là 0.453, kết quả
này phù hợp với Nofsingera -& Varmab
(2013) cho thấy nhà đầu tư có xu hướng phụ
thuộc nhiều vào các thông tin sẵn có và thường
dự đoán giá cổ phiếu dựa trên mức giá cổ
phiếu ở hiện tại. Trái ngược với hai yếu tố
trên, yếu tố bảo thủ (Conservatism) lại cho
thấy tác động âm đến quyết định của nhà đầu
tư với hệ số ước lượng là -0.352, kết quả này
phù hợp với nghiên cứu của Kengatharan
(2014), cho thấy rằng đa số các nhà đầu tư đều
có xu hướng đầu tư vào những cổ phiếu quen
thuộc của các công ty nổi tiếng có những sản
phẩm uy tín kèm theo niềm tin rằng lợi nhuận
sẽ cao hơn khi họ đầu tư vào những cố phiếu
quen thuộc. Với yếu tố tâm lý bầy đàn
(Herding) có hệ số ước lượng là -0.054 nhưng
hệ số này không có ý nghĩa thống kê cho thấy
không có tác động đến quyết định của nhà đầu
tư, hàm ý các nhà đầu tư thường chỉ tham khảo
ý kiến của những nhà đầu tư khác chứ không
dễ bị ảnh hưởng bởi những ý kiến đó, kết quả
này phù hợp với nghiên cứu của Lim (2012)
nhưng lại không đồng nhất với kết quả nghiên
cứu của Wamae (2013) khi tác giả này cho
rằng các nhà đầu tư thường tập hợp thành
nhóm để hỗ trợ lẫn nhau và mua cổ phiếu sau
khi thảo luận, do đó quyết định đầu tư vào cổ
phiếu nào của các cá nhân sẽ bị ảnh hưởng bởi
quyết định của tập thể.
4. KẾT LUẬN
Mặc dù kết quả nghiên cứu đã chỉ ra ảnh
hưởng của bốn yếu tố tâm lí đến quyết định
đầu tư của các nhà đầu tư cá nhân, nhưng
nghiên cứu này cũng vẫn còn những hạn chế
nhất định, một trong số đó là do giới hạn về
nguồn lực và tài chính nên chỉ bao gồm cỡ
mẫu 200 nhà đầu tư cá nhân, mặc dù vẫn đạt
được yêu cầu cơ bản của phương pháp nghiên
cứu, nhưng tác giả mới chỉ tập trung vào các
nhà đầu tư tại Sở giao dịch chứng khoán Hà
Nội nên có thể chưa phản ánh được chính xác
nhất tâm lý của các nhà đầu tư ở Việt Nam. Do
đó trong tương lai, tác giả sẽ mở rộng mẫu
nghiên cứu thêm các nhà đầu tư ở Sở giao dịch
chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài
ra, dữ liệu thu thập được cho nghiên cứu này
mang tính chủ quan và phụ thuộc ở một mức
độ nhất định vào tâm trạng, động cơ, sự sẵn
lòng trả lời khảo sát của mỗi cá nhân, do đó dữ
liệu này có thể không phản ánh hết được cảm
xúc và suy nghĩ của các cá nhân tham gia khảo
sát, tuy nhiên kết quả nghiên cứu vẫn phù hợp
với đa phần kết quả của các nghiên cứu trước
đó. Cuối cùng, nghiên cứu này sẽ giúp các nhà
đầu tư nhận thức được tác động của các yếu tố
tâm lý của chính họ đến việc ra quyết định đầu
tư trên thị trường chứng khoán, từ đó nâng cao
mức lợi nhuận kiếm được.
5. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Atif Kafayat., 2014. Interrelationship of
Biases: Effect Investment Decisions
Ultimately. Theoretical and Applied
Economics XXI 6(595), 85-110.
[2] Kengatharan, L., Kengatharan, N., 2014. The
Influence of Behavioral Factors in Making
Investment Decisions and Performance:
Study on Investors of Colombo Stock
Exchange, Sri Lanka. Asian Journal of
Finance & Accounting 6(1), 1-23.
[3] Lim, L.C., 2012. The Relationship between
Psychological Biases and the Decision
Making of Investor in Malaysian Share
Market. Unpublished Paper International
Conference on Management, Economics &
Finance (ICMEF 2012) Proceeding.