intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tài liệu giảng dạy về Sở hữu trí tuệ - Bài 2

Chia sẻ: Little Duck | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:40

243
lượt xem
92
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luật bản quyền liên quan đến việc bảo hộ và khai thác sự thể hiện các ý tưởng ở dạng hữu hình. Luật này được xây dựng nhằm đáp lại các sáng chế về máy in thời đó đã khiến cho việc sản xuất hàng loạt tác phẩm in trở thành hiện thực.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tài liệu giảng dạy về Sở hữu trí tuệ - Bài 2

  1. CURRICULUM ON INTELLECTUAL PROPERTY Professor Michael Blakeney Queen Mary Intellectual Property Research Institute University of London TÀI LIỆU GIẢNG DẠY VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ Giáo sư Michael Blakeney Viện nghiên cứu Sở hữu trí tuệ Queen Mary Đại học London Provided and translated by the EC-ASEAN Intellectual Property Rights Co-operation Programme (ECAP II) Tài liệu này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) dịch và cung cấp
  2. Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ cung cấp Bài 2 Quyền tác giả 1. Giới thiệu Luật bản quyền liên quan đến việc bảo hộ và khai thác sự thể hiện các ý tưởng ở dạng hữu hình. Luật này được xây dựng nhằm đáp lại các sáng chế về máy in thời đó đã khiến cho việc sản xuất hàng loạt tác phẩm in trở thành hiện thực. Bối cảnh công nghệ khi luật được triển khai lý giải cách thức mà các khái niệm về quyền tác giả được hình thành. Ví dụ, luật chú trọng tới các quyền của tác giả và những người yêu cầu thông qua tác giả; nó bảo hộ các “tác phẩm gốc” và chỉ khi các tác phẩm này được định hình dưới dạng vật chất. Quyền cơ bản mà luật quy định chính là ngăn chặn việc sao chép tác phẩm của những người không được tác giả cho phép. Để được bảo hộ quyền tác giả, các ý tưởng phải được thể hiện dưới dạng gốc - nghĩa là chúng phải bắt nguồn từ chính lao động của người sáng tạo. Các tác phẩm được bảo hộ không phụ thuộc vào chất lượng của chúng. Lúc sơ khởi, đối tượng bảo hộ của quyền tác giả là các tác phẩm in văn học, nghệ thuật. Do công nghệ tạo hình ngày càng được cải thiện nên việc bảo hộ được mở rộng tới các bản vẽ kỹ thuật, bản đồ, họa đồ, các tác phẩm ba chiều như điêu khắc, kiến trúc và các tác phẩm nhiếp ảnh, điện ảnh. Gần đây, việc bảo hộ quyền tác giả được mở rộng tới các chương trình máy tính, được đối xử như là các tác phẩm văn học hoặc bộ sưu tập các tác phẩm văn học. Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, việc bảo hộ quyền tác giả được áp dụng không chỉ đối với các cuốn sách và bài báo học thuật, mà còn đối với các sổ sách ghi chép của phòng thí nghiệm và các báo cáo nghiên cứu, bản mô tả các trình tự gen, ảnh và bản mô tả đồ hoạ hoặc đồ thị của các kết quả nghiên cứu. Chủ sở hữu của một tác phẩm được bảo hộ có quyền không cho người khác sử dụng tác phẩm khi chưa được phép. Các hành vi cần được sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả thường là: sao chép hoặc nhân bản; trình diễn tác phẩm trước công chúng; ghi âm tác phẩm; làm phim từ tác phẩm; phát sóng tác phẩm qua quang phổ điện từ hoặc truyền cáp; biên dịch hoặc mô phỏng tác phẩm. Các vấn đề đặc biệt sẽ phát sinh khi các tác phẩm được tạo ra thông qua việc nghiên cứu hợp tác hoặc giao việc. 2 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  3. Bên cạnh các quyền này, các “quyền tinh thần” nhất định cũng được thừa nhận bởi Công ước Berne 1886 về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, được thực thi theo luật quốc gia ở các nước ký kết. Các quyền này bao gồm quyền yêu cầu về sở hữu tác phẩm, quyền phản đối bất kỳ sự làm sai lệch, cắt xén, sửa chữa hoặc hành vi xuyên tạc khác liên quan tới tác phẩm gây phương hại tới danh dự hoặc uy tín của tác giả. Các vấn đề đặc biệt có thể phát sinh khi các quyền về tinh thần này được yêu cầu bởi một thành viên của nhóm nghiên cứu đối với cách thức mà các kết quả nghiên cứu được truyền bá. Thoả ước TRIPS đưa ra sự linh hoạt trong định nghĩa về việc sử dụng hợp lý các bản sao tác phẩm khi chưa được phép nhằm đạt được các mục tiêu xã hội và kinh tế. Các quốc gia có thể cho phép sao chép một cách có giới hạn tác phẩm nhằm mục đích giảng dạy, nghiên cứu, cho các thư viện, viện bảo tàng và các tổ chức từ thiện. Công nghệ phân tích ngược các chương trình máy tính nhằm mục đích phát triển phần mềm cạnh tranh cũng được TRIPS cho phép. Việc giải mã như vậy là cơ sở cho việc phát triển các ngành công nghiệp phần mềm ở nhiều nước đang phát triển. Công ước Berne đưa ra một danh mục dài nhưng không đầy đủ những đối tượng được coi là “các tác phẩm văn học và nghệ thuật”. Tuy nhiên, bất kỳ sự sáng tạo nào của trí óc cũng có thể được bảo hộ quyền tác giả một khi nó thoả mãn các yêu cầu của Công ước Berne theo cách thức mà các yêu cầu này được thực thi bởi các quốc gia khác nhau. Ví dụ, các tác phẩm công nghệ mới hoặc dựa trên công nghệ cũng được bảo hộ, như các chương trình máy tính, cơ sở dữ liệu và các tác phẩm đa phương tiện. Quyền tác giả bảo hộ “các tác phẩm” là sự thể hiện của các suy nghĩ và ý tưởng. Bản thân các ý tưởng và suy nghĩ thì không được bảo hộ. Lịch sử quyền tác giả gắn bó chặt chẽ với sự phát triển công nghệ. Các hình thức bảo hộ quyền tác giả đầu tiên xuất hiện vào thế kỷ 15 khi công nghệ in xuất hiện và sự nhân bản chữ viết của con người đã trở thành hiện thực. Luật Bản quyền hoàn chỉnh đầu tiên xuất hiện ở Anh vào năm 1710. Tiếp đó là Phổ và Pháp cũng nằm trong số các quốc gia đầu tiên này. 2. Sử dụng quyền tác giả 3 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  4. Sự phát triển của một quốc gia phụ thuộc rất lớn vào khả năng sáng tạo của người dân ở quốc gia đó, và việc khuyến khích khả năng sáng tạo cá nhân và truyền bá nó là điều kiện thiết yếu cho sự tiến bộ. Quyền tác giả là yếu tố cấu thành quan trọng của quá trình phát triển. Kinh nghiệm cho thấy, sự giàu có của di sản văn hoá quốc gia phụ thuộc trực tiếp vào trình độ bảo hộ đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật. Số lượng các sáng tạo trí tuệ của quốc gia càng nhiều thì danh tiếng của quốc gia ấy càng cao; số lượng các sản phẩm trong văn học và nghệ thuật càng nhiều thì càng có nhiều cộng sự trong các ngành công nghiệp giải trí, sách báo, ghi âm; và thực vậy, suy cho cùng thì việc thúc đẩy sáng tạo trí tuệ là một trong những cơ sở tiên quyết cho mọi sự phát triển xã hội, kinh tế và văn hoá. Bảo hộ quyền tác giả, từ góc độ của người tạo ra tác phẩm, chỉ có ý nghĩa nếu người tạo ra tác phẩm thực sự được hưởng lợi từ các tác phẩm đó, và điều này không thể có được nếu không có sự công bố và truyền bá tác phẩm của người đó cũng như việc tạo điều kiện thuận lợi cho sự công bố, truyền bá đó. Đây chính là vai trò thiết yếu của quyền tác giả trong các nước đang phát triển. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới khả năng sáng tạo trí tuệ ở các nước đang phát triển bên cạnh điều kiện tài chính của bản thân phần lớn các tác giả và người sáng tạo trí tuệ, những người thường cần được khuyến khích và trợ cấp. Thiếu giấy để sản xuất sách giáo khoa cho quá trình giáo dục liên tục (cả chính thức lẫn không chính thức), để sản xuất các sách mô tả, khuyến nghị cũng như các sách đại cương, mà lẽ ra các sách đó phải được đặt trong tầm tiếp cận của cộng đồng chung ở các quốc gia này. Vai trò của các chính phủ trong hoạt động này có thể bao gồm sự trợ giúp tài chính cho hoạt động sáng tạo và xuất bản sách giáo khoa và tư liệu giáo dục khác, trợ giúp đầu vào cho đào tạo, mở rộng hệ thống thư viện, tạo lập các thư viện di động để phục vụ các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, v.v... 3. Đối tượng bảo hộ của quyền tác giả Đối tượng bảo hộ của quyền tác giả bao gồm tất cả các sản phẩm trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật dù được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào. Tuy nhiên, để được bảo hộ quyền tác giả, tác phẩm phải là sáng tạo nguyên gốc. Các ý tưởng trong tác phẩm không nhất thiết phải mới nhưng hình thức thể hiện, cho dù là văn học hay nghệ thuật, đều phải là sáng tạo mang tính nguyên gốc của tác giả. Và cuối cùng, sự bảo hộ là độc lập đối với chất lượng hoặc giá trị đi kèm theo tác phẩm - nó sẽ được bảo hộ cho dù được 4 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  5. đánh giá thế nào, theo thị hiếu, là tác phẩm văn học hay âm nhạc tốt hay dở - và thậm chí độc lập đối với mục đích mà tác phẩm dự định theo đuổi, vì mục đích sử dụng mà tác phẩm hướng tới không có gì liên quan tới việc bảo hộ. Các tác phẩm có khả năng được bảo hộ, theo nguyên tắc, là tất cả các sáng tạo nguyên gốc. Danh mục liệt kê không đầy đủ minh hoạ cho các tác phẩm này được quy định trong các luật quốc gia. Để được bảo hộ theo luật quyền tác giả, các tác phẩm của một tác giả phải xuất phát từ chính người đó; chúng phải có nguồn gốc từ lao động của tác giả. Tác phẩm được bảo hộ không phụ thuộc vào chất lượng của nó và cả khi nó có một chút ít nét chung với văn học, nghệ thuật và khoa học, như các chỉ dẫn kỹ thuật thuần tuý hoặc bản vẽ kỹ thuật, thậm chí là các bản đồ. Các ngoại lệ so với nguyên tắc chung được quy định trong các luật bản quyền theo các danh mục liệt kê đặc biệt; theo đó, các văn bản pháp luật, các quyết định chính thức hoặc tin tức thuần tuý trong ngày nói chung sẽ không được bảo hộ quyền tác giả. Trên thực tế, tất cả các luật quốc gia về quyền tác giả đều quy định việc bảo hộ đối với các tác phẩm sau: – Các tác phẩm văn học: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, kịch và tác phẩm viết bất kỳ không phụ thuộc vào nội dung của chúng (hư cấu hay không hư cấu), độ dài, mục đích (giải trí, giáo dục, thông tin, quảng cáo, tuyên truyền, v.v...), hình thức (viết tay, đánh máy, in; sách, cuốn sổ nhỏ, các tờ rời, báo, tạp chí); được công bố hay chưa được công bố; ở phần lớn các nước, “các tác phẩm truyền miệng”, nghĩa là các tác phẩm không được viết ra, cũng được bảo hộ bởi luật bản quyền; – Các tác phẩm âm nhạc: dù nghiêm trang hay nhẹ nhàng; các bài hát, bản hợp ca, opera, âm nhạc, ca kịch ngắn; nếu được trình diễn, thì dù đó là bằng một nhạc cụ (solo), một vài nhạc cụ (sonatas, bản nhạc, v.v…) hoặc nhiều nhạc cụ (dàn nhạc, dàn hợp xướng); – Các tác phẩm nghệ thuật: dù là hai chiều (các bản vẽ, hoạ đồ, tranh, khắc, ốp sét, v.v…) hay ba chiều (tác phẩm điêu khắc, kiến trúc), không phụ thuộc vào nội dung (biểu hiện hay trừu tượng) và mục đích (nghệ thuật “thuần tuý”, quảng cáo, v.v…); – Bản đồ và các bản vẽ kỹ thuật; 5 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  6. – Các tác phẩm nhiếp ảnh: không phụ thuộc vào đối tượng (chân dung, phong cảnh, các sự kiện đương đại, v.v…) và mục đích tạo ra; – Các tác phẩm ảnh động (“các tác phẩm điện ảnh”): dù là tác phẩm câm hay có âm thanh, không phụ thuộc vào mục đích (triển lãm sân khấu, vô tuyến truyền hình, v.v…), thể loại (phim bi kịch, tài liệu, v.v…), độ dài, phương pháp thể hiện (quay phim “trực tiếp”, hoạt hình, v.v…), hay quy trình công nghệ được sử dụng (tranh trên phim đèn chiếu, trên băng video điện tử, v.v…). – Các chương trình máy tính (như một tác phẩm văn học hoặc độc lập). Nhiều luật bản quyền còn bảo hộ “các tác phẩm của nghệ thuật ứng dụng” (đồ trang sức nghệ thuật, đèn, giấy dán tường, nội thất, v.v…) và các tác phẩm múa. Một số luật cũng coi các bản ghi âm, băng, phát thanh truyền hình là tác phẩm. 4. Các quyền năng trong quyền tác giả Chủ sở hữu quyền tác giả đối với một tác phẩm được bảo hộ có thể sử dụng tác phẩm như mong muốn - nhưng không được làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của người khác - và có thể không cho người khác sử dụng tác phẩm nếu không được sự đồng ý của mình. Như vậy, các quyền mà luật pháp ban cho chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm được bảo hộ thường được mô tả như “các quyền tuyệt đối” trong việc cho phép người khác sử dụng tác phẩm đã được bảo hộ. Phần lớn các luật bản quyền đều xác định các hành vi liên quan tới tác phẩm, theo đó, ngoài chủ sở hữu quyền tác giả, những người khác không thể thực hiện nếu không được phép của chủ sở hữu quyền. Các hành vi đòi hỏi phải được sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả thường bao gồm: sao chép hoặc nhân bản; trình diễn tác phẩm trước công chúng; ghi âm tác phẩm; làm phim từ tác phẩm; phát sóng tác phẩm; dịch tác phẩm; sửa chữa tác phẩm. (i) Quyền nhân bản và các quyền liên quan Quyền của chủ sở hữu quyền tác giả ngăn cấm người khác sao chép tác phẩm của mình là quyền năng cơ bản nhất của quyền tác giả. Ví dụ, việc nhân bản một tác phẩm đã được bảo hộ là hành vi được tiến hành bởi người công bố mong muốn phát tán các bản sao của 6 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  7. tác phẩm nguyên bản tới công chúng dưới hình thức bản sao in hoặc bằng phương tiện kỹ thuật số như các CD-ROMs. Tương tự, quyền của người sản xuất bản ghi âm trong việc sản xuất và phân phối đĩa CD chứa đựng các buổi trình diễn tác phẩm âm nhạc dựa trên cơ sở một phần là sự đồng ý của người sáng tác tác phẩm cho phép nhân bản tác phẩm của mình trong bản ghi âm. Như vậy, quyền kiểm soát hành vi nhân bản là cơ sở pháp lý cho nhiều hình thức khai thác tác phẩm đã được bảo hộ. Các quyền khác được thừa nhận trong các luật quốc gia nhằm đảm bảo rằng quyền cơ bản về nhân bản được tôn trọng. Ví dụ, một số luật quy định về quyền cho phép phân phối các bản sao tác phẩm. Quyền phân phối thường là đối tượng bị khai thác một cách triệt để trong lần bán đầu tiên hoặc lần chuyển giao quyền sở hữu một bản sao đặc biệt, nghĩa là, sau khi chủ sở hữu quyền tác giả đã bán hoặc chuyển giao quyền sở hữu bản sao đặc biệt của tác phẩm, thì người sở hữu bản sao đó có thể tuỳ ý sử dụng nó mà không cần phải xin phép chủ sở hữu quyền tác giả, ví dụ, cho hoặc thậm chí bán lại nó. Một quyền khác càng ngày càng nhận được sự thừa nhận rộng rãi, kể cả trong Hiệp định TRIPS, là quyền cho thuê các bản sao của một số loại hình tác phẩm nhất định, ví dụ, các tác phẩm âm nhạc gồm tác phẩm ghi âm, tác phẩm nghe nhìn và các chương trình máy tính. Quyền cho thuê được hợp pháp hoá bởi các tiến bộ công nghệ đã khiến cho việc sao chép các dạng tác phẩm này trở nên hết sức dễ dàng; kinh nghiệm ở một số nước cho thấy, các bản sao được làm bởi các khách hàng của các cửa hàng cho thuê, và như vậy, quyền kiểm soát thực tế cho thuê là cần thiết nhằm ngăn ngừa sự lạm dụng quyền được nhân bản của chủ sở hữu quyền tác giả. Cuối cùng, một số luật bản quyền quy định cả quyền kiểm soát việc nhập khẩu các bản sao như một phương tiện ngăn ngừa sự xói mòn nguyên tắc lãnh thổ của quyền tác giả; nghĩa là, các lợi ích kinh tế hợp pháp của chủ sở hữu quyền tác giả có thể bị đe doạ nếu anh ta không thể thực hiện các quyền nhân bản và phân phối trên một căn cứ lãnh thổ. (ii) Các quyền trình diễn Một hành vi khác cần được cho phép là hành vi trình diễn trước công chúng - ví dụ, độc tấu trước công chúng, trình diễn kịch hoặc âm nhạc trước khán giả. Quyền kiểm soát hành vi trình diễn trước công chúng này là mối quan tâm không chỉ của các chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm được thiết kế ban đầu cho công diễn, mà còn đối với các chủ sở hữu quyền tác giả và những người đã được uỷ quyền, khi có người khác muốn soạn lại để trình diễn trước công chúng các tác phẩm ban đầu dự định được sử dụng bằng cách nhân bản hoặc xuất bản. Ví dụ, một tác phẩm được viết ban đầu bằng một cách thức 7 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  8. đặc biệt nhằm đọc tại nhà hoặc ở thư viện có thể được chuyển đổi (“điều chỉnh”) thành một vở kịch dự kiến được trình diễn trước công chúng trên sân khấu của nhà hát. (iii) Các quyền ghi âm Chừng nào mà âm nhạc còn được quan tâm thì việc ghi âm còn là một phương tiện được ưa thích nhất để đưa tác phẩm đến với công chúng rộng rãi. Điều này đáp ứng mục đích dành cho các tác phẩm âm nhạc tương tự như sách đối với các tác phẩm văn học. Các bản ghi âm có thể được kết hợp riêng với nhạc, với lời hoặc cả nhạc và lời. Quyền cho phép thực hiện ghi âm thuộc về chủ sở hữu quyền tác giả phần nhạc và cả chủ sở hữu quyền tác giả phần lời. Nếu đây là hai người khác nhau, thì trong trường hợp bản ghi âm kết hợp cả nhạc và lời, nhà sản xuất bản ghi âm phải được phép của hai chủ sở hữu này. Theo luật của một số quốc gia, nhà sản xuất bản ghi âm còn phải được phép của những người biểu diễn (người chơi nhạc và người hát hoặc tấu lời). Đây là một ví dụ khác về việc chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm không thể sử dụng hoặc cho phép sử dụng tác phẩm theo cách thức đi ngược lại với các quyền hợp pháp của người khác. (iv) Các quyền làm phim ảnh động “Phim ảnh động” ("motion picture") là bản ghi hình, đem đến cho người xem một chuỗi hình ảnh tiếp diễn. Trong luật bản quyền nó thường được gọi là “tác phẩm điện ảnh” hoặc “tác phẩm nghe nhìn”. Một vở kịch ban đầu được viết để những người biểu diễn trình diễn trực tiếp trước khán giả ("trình diễn trực tiếp") có thể được ghi hình và chiếu cho khán giả với số lượng lớn hơn nhiều so với số lượng người có thể có mặt trong buổi biểu diễn trực tiếp; các khán giả này có thể xem được ảnh động ở nơi cách xa địa điểm trình diễn trực tiếp và vào những thời điểm muộn hơn nhiều so với buổi trình diễn trực tiếp. (v) Các quyền phát sóng Loại hành vi chủ yếu bị hạn chế bởi quyền tác giả bao gồm các hành vi phát sóng tác phẩm và truyền đạt tác phẩm đến với công chúng bằng phương tiện dây hoặc cáp. Khi một tác phẩm được phát sóng, ký hiệu không dây được phát lên không trung mà trong phạm vi của nó bất kỳ người nào cũng có thể tiếp nhận, miễn là người đó có công cụ (bộ tiếp nhận đài hoặc vô tuyến) cần thiết để chuyển hóa ký hiệu này thành các âm thanh hoặc âm thanh và hình ảnh. 8 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  9. Khi một tác phẩm được truyền đạt tới công chúng bằng đường cáp, ký hiệu được khuếch tán mà chỉ những người có công cụ kết nối với đường cáp dùng để khuếch tán ký hiệu mới có thể tiếp nhận được. Theo Công ước Berne, chủ sở hữu quyền tác giả có quyền tuyệt đối trong việc cho phép cả hai việc: phát sóng không dây và khuếch tán bằng đường cáp các tác phẩm của mình. (vi) Các quyền dịch và sửa đổi Hành vi dịch thuật hoặc sửa đổi tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả đòi hỏi phải được phép của chủ sở hữu quyền tác giả. “Dịch thuật” nghĩa là thể hiện tác phẩm bằng một ngôn ngữ khác với phiên bản gốc. “Sửa đổi” nói chung được hiểu là làm thay đổi tác phẩm từ dạng này sang dạng khác (ví dụ, chuyển thể một tiểu thuyết thành phim) hoặc sửa đổi tác phẩm cho phù hợp với các điều kiện khai thác khác nhau (ví dụ, chỉnh lý sách hướng dẫn ban đầu dành cho giáo dục đại học thành sách hướng dẫn dành cho học sinh cấp thấp hơn). Bản thân tác phẩm dịch và sửa đổi cũng được bảo hộ theo quyền tác giả. Vì vậy, ví dụ, để nhân bản và xuất bản bản dịch và sửa chữa, nhà xuất bản phải được sự cho phép của cả hai người: chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm gốc và chủ sở hữu quyền tác giả đối với bản dịch hoặc bản sửa đổi. (vii) Các quyền tinh thần Công ước Berne yêu cầu các nước thành viên trao quyền cho các tác giả: – Quyền yêu cầu về sở hữu đối với tác phẩm. – Quyền phản đối bất kỳ sự làm sai lệch, cắt xén, sửa chữa hoặc hành vi xuyên tạc khác liên quan tới tác phẩm làm phương hại đến danh dự hoặc uy tín của tác giả. Các quyền này, thường được biết đến như các quyền tinh thần của tác giả, đòi hỏi phải được độc lập với các quyền kinh tế thông thường khác và còn lại với tác giả kể cả sau khi tác giả đã chuyển giao các quyền kinh tế. 9 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  10. 5. Sở hữu quyền tác giả Chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm nói chung, ít nhất ở giai đoạn đầu, là người tạo ra tác phẩm - nghĩa là tác giả của tác phẩm. Có thể có các ngoại lệ đối với nguyên tắc này. Các ngoại lệ đó được quy định bởi luật quốc gia. Ví dụ, luật quốc gia có thể quy định rằng, khi một tác phẩm được tạo ra bởi tác giả là người được thuê với mục đích tạo ra tác phẩm đó, thì người thuê, chứ không phải là tác giả, sẽ là chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, các “quyền tinh thần” luôn luôn thuộc về tác giả của tác phẩm, cho dù chủ sở hữu quyền tác giả là ai. Ở nhiều quốc gia, quyền tác giả (trừ các quyền tinh thần) có thể được chuyển nhượng. Điều này có nghĩa là chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao quyền cho một cá nhân hoặc tổ chức, đối tượng này khi đó sẽ trở thành chủ sở hữu quyền tác giả. Ở một số nước, việc chuyển nhượng quyền tác giả không được pháp luật cho phép. Tuy nhiên, thông qua li xăng, có thể đạt được hiệu quả thực tế gần như tương tự với chuyển nhượng. Chuyển giao li xăng là khi chủ sở hữu quyền tác giả vẫn là chủ sở hữu nhưng cho phép một người nào đó khác thực hiện tất cả hoặc một số quyền năng của người đó trong các giới hạn có thể. Khi việc cho phép hoặc li xăng đó được mở rộng tới hết giai đoạn của quyền tác giả và tới tất cả các quyền được bảo hộ (tất nhiên, trừ các quyền tinh thần) thì người được chuyển giao li xăng, đối với các bên thứ ba và đối với mọi mục đích thực tế, được xem như có vị trí tương tự như chủ sở hữu quyền tác giả. 6. Giới hạn bảo hộ quyền tác giả (i) Thời hạn Pháp luật quy định thời hạn, đó là khoảng thời gian mà các quyền của chủ sở hữu quyền tác giả tồn tại. Thời hạn của quyền tác giả bắt đầu từ khi tạo ra tác phẩm và tiếp tục cho đến một khoảng thời gian sau khi tác giả chết. Mục đích của quy định này trong luật là nhằm giúp cho những người thừa kế của tác giả có được các lợi ích kinh tế sau khi tác giả chết. Ở các nước thành viên Công ước Berne và nhiều nước khác, thời hạn quyền tác giả được quy định theo luật quốc gia là suốt cuộc đời tác giả và không quá 50 năm sau khi tác giả qua đời. Trong những năm gần đây, xuất hiện chiều hướng kéo dài thời hạn bảo hộ quyền tác giả. (ii) Địa lý 10 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  11. Chủ sở hữu quyền tác giả được pháp luật quốc gia bảo vệ chống lại các hành vi bị hạn chế bởi quyền tác giả được thực hiện tại quốc gia này. Để được bảo vệ chống lại các hành vi tương tự được thực hiện ở quốc gia khác, anh ta phải dựa vào pháp luật của quốc gia đó. Nếu cả hai quốc gia đều là thành viên của một trong các công ước quốc tế về quyền tác giả, thì các vấn đề thực tiễn phát sinh từ giới hạn địa lý này rất dễ giải quyết. (iii) Sử dụng được phép Trong các trường hợp cụ thể quy định theo luật, một số hành vi nhất định thường bị hạn chế bởi quyền tác giả có thể được thực hiện mà không phải xin phép chủ sở hữu quyền tác giả. Ví dụ về các ngoại lệ này được mô tả như là “sử dụng hợp lý”. Các ví dụ này gồm nhân bản tác phẩm chỉ nhằm mục đích sử dụng cá nhân hoặc riêng tư của người nhân bản; một ví dụ khác là trích dẫn tác phẩm đã được bảo hộ với điều kiện nguồn trích dẫn, tên tác giả được nêu rõ và phạm vi trích dẫn tương thích với việc thực hành hợp lý. (iv) Các tác phẩm phi vật chất Ở một số nước, các tác phẩm không được bảo hộ nếu chúng không được định hình ở một số dạng vật chất. Ở một số nước, văn bản quy phạm pháp luật, các quyết định của tòa án và cơ quan hành chính không được bảo hộ quyền tác giả. Ở đây cũng cần lưu ý rằng, ở một số nước khác, các văn bản chính thức như vậy không bị loại trừ việc bảo hộ quyền tác giả; Chính phủ là chủ sở hữu quyền tác giả đối với các tác phẩm này và thực thi các quyền năng này phù hợp với lợi ích công. (v) Các trường hợp khác Bên cạnh các ngoại lệ dựa trên nguyên tắc “sử dụng hợp lý”, còn có các ngoại lệ khác được tìm thấy trong các luật quốc gia và Công ước Berne. Ví dụ, khi được phép phát sóng tác phẩm, nhiều luật quốc gia cho phép tổ chức phát sóng tiến hành ghi lại tạm thời tác phẩm nhằm mục đích phát sóng, ngay cả khi không được sự đồng ý cụ thể cho hành vi này. Pháp luật của một số nước cho phép phát sóng các tác phẩm đã được bảo hộ mà không phải xin phép, với điều kiện trả một khoản tiền thù lao hợp lý cho chủ sở hữu quyền tác giả. Hệ thống, theo đó quyền được hưởng thù lao có thể được thay thế cho quyền tuyệt đối cho phép thực hiện một hành vi nhất định, thường được gọi là hệ thống của “các li xăng cưỡng bức”. Các li xăng này được gọi là “cưỡng bức” vì chúng là kết quả của việc vận hành pháp luật chứ không phải là của việc thực thi quyền tuyệt đối của chủ sở hữu quyền trong việc cho phép thực hiện các hành vi cụ thể. 11 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  12. 7. Sao chép lậu và xâm phạm quyền Các quyền của chủ sở hữu quyền tác giả bị xâm phạm khi một trong số các hành vi cần phải xin phép chủ sở hữu quyền được thực hiện bởi một người nào đó mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu quyền. Việc sao chép trái phép các tài liệu quyền tác giả nhằm mục đích thương mại và thực hiện hành vi thương mại trái phép đối với các tài liệu được sao chép sẽ bị xem như “sao chép lậu”. (i) Phạm vi tác động của sao chép lậu Phần lớn hành vi sao chép lậu là hành động trái phép được tiến hành vì lợi ích thương mại. Yếu tố lợi ích thương mại này ngụ ý rằng, việc sao chép lậu sẽ thường được thực hiện trên cơ sở có tổ chức, bởi vì không chỉ có hành vi nhân bản trái phép tác phẩm, mà tiếp đó còn có việc bán hoặc phân phối tác phẩm bị nhân bản trái phép, mà điều này đòi hỏi một hình thức mạng lưới nào đó phân phối hoặc liên hệ có tổ chức với các khách hàng tiềm năng. Với người tiêu dùng, thường chỉ thấy rõ khâu cuối của chuỗi mạng lưới phân phối kiểu đó dưới dạng một đại lý bán lẻ sản phẩm xâm phạm bản quyền. Tuy nhiên, điều quan trọng cần ghi nhớ, đặc biệt khi trả lời câu hỏi về cách thức giải quyết có hiệu quả đối với vấn đề sao chép lậu, là đằng sau một đại lý bán hàng kiểu đó sẽ thường ẩn chứa một doanh nghiệp hoạt động trái phép được tổ chức có hệ thống, tiến hành nhân bản trái phép sản phẩm đã được bảo hộ bản quyền và phân phối nó cho công chúng thông qua nhiều đại lý bán lẻ tương tự. Trong khi sao chép lậu không phải là một hiện tượng mới xảy ra, thì có hai vấn đề phát sinh khiến cho nó mang một tầm vóc đáng báo động và đe dọa nền tảng của hệ thống quyền tác giả. Thứ nhất là các tiến bộ của phương tiện truyền bá sản phẩm trí tuệ. Phương tiện của tác phẩm in được thay thế dần bằng phương tiện truyền bá các bản ghi nghe nhìn dưới dạng ghi âm, băng âm nhạc, phim và chương trình video. Tương tự, việc thương mại hóa rộng rãi máy vi tính cũng bổ sung thêm một phương tiện ghi và truyền bá thông tin nữa. Gần đây nhất, sự xuất hiện của công nghệ kỹ thuật số đã tác động to lớn tới việc sáng tạo, truyền bá và sử dụng tác phẩm. Hệ thống quyền tác giả đã đáp lại các vấn đề này bằng việc tiếp tục mở rộng đối tượng mà người sáng tạo ra sản phẩm trí tuệ được trao quyền. Các tiến bộ này, tuy nhiên, cũng 12 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  13. làm gia tăng phạm vi cho những kẻ xâm phạm bản quyền cản trở việc kiểm soát của tác giả trong truyền bá và sử dụng tác phẩm của mình tới công chúng. Đồng thời với các tiến bộ về phương tiện truyền bá các tác phẩm trí tuệ còn có các tiến bộ đáng kể về phương tiện nhân bản các bản ghi hữu hình các tác phẩm này. Trong số các tiến bộ gần đây thì trước tiên phải kể đến: – Sự phát triển của công nghệ in ốp xét, sao chụp và các máy photocopy; – Việc sáng chế ra băng từ, sự ra đời của đĩa compact và sự phát triển của máy ghi âm cát xét chất lượng cao, giá rẻ có thể không chỉ chạy các băng cát xét đã ghi mà còn ghi lại được âm nhạc từ các buổi trình diễn trực tiếp, ghi đài hoặc máy hát; và – Việc sáng chế ra máy ghi video làm phát triển rộng khắp loại phương tiện mà phim và các tác phẩm khác, chủ yếu là ghi hình, có thể tiếp nhận được. Một hệ quả của các tiến bộ này là sự khác biệt về chi phí giữa một bên là việc tạo ra bản ghi gốc bởi tác giả và các đối tác kinh doanh của tác giả, và bên kia là việc nhân bản các bản ghi đó bởi những người khác. Trường hợp đối với một bộ phim, thông qua sự đầu tư của chính mình và các đối tác, nhà sản xuất phải tài trợ cho người viết kịch bản và bất kỳ tác giả văn học nào tham gia, người soạn nhạc, diễn viên, chi cho việc phân vai, địa điểm và phương tiện trường quay cũng như việc sử dụng thiết bị ghi âm, ghi hình phức tạp. Một khi bản ghi hữu hình được làm thành phim, tuy nhiên, đặc biệt là nếu bản ghi nằm trong một chương trình ghi video, thì các bản ghi tiếp theo của tác phẩm có thể được nhân bản rất dễ dàng và với chi phí thấp. Như vậy, các tiến bộ trong công nghệ ghi đã tạo ra các phương tiện mà những kẻ sao chép lậu có thể dễ dàng sản xuất ra các phiên bản bất hợp pháp của tác phẩm gốc. Vì kẻ sao chép lậu không làm ra, và vì thế cũng không cần phải trả chi phí cũng như bất kỳ sự đầu tư nào cho việc tạo ra tác phẩm gốc, nên các bản sao chép lậu thường được bán với giá thấp, vì thế, làm tổn hại tới khả năng có được các bù đắp về tinh thần và kinh tế của tác giả, người trình diễn, nhà đầu tư và nhà phân phối đối với tác phẩm và sự đầu tư của họ. 8. Bồi thường (i) Giới thiệu 13 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  14. Bồi thường do xâm phạm quyền tác giả hoặc xâm phạm các quyền liên quan bao gồm bồi thường dân sự, khi những kẻ xâm phạm bị toà án buộc phải chấm dứt hành vi xâm phạm và thực hiện bồi thường bằng bất kỳ biện pháp nào thích hợp, ví dụ, cải chính trên báo chí hoặc thực hiện trách nhiệm đối với thiệt hại. Một số luật còn quy định các bồi thường hình sự dưới hình thức phạt tiền hoặc/và phạt tù. Các bản sao trái phép, lợi tức có được từ hành xâm phạm và phương tiện sử dụng với mục đích tương tự thường là đối tượng bị tịch thu. Các bồi thường chủ yếu mà chủ sở hữu quyền tác giả có được liên quan tới việc xâm phạm quyền là mệnh lệnh bắt buộc của toà án nhằm ngăn cản hành vi xâm phạm tiếp diễn và tiền bồi thường cho chủ sở hữu quyền tác giả đối với các tổn thất do hành vi xâm phạm gây ra tương đương với giá trị quyền tác giả của người đó. Trong trường hợp sao chép lậu, vì nó thường được tiến hành như một hành vi có tổ chức, nên hiệu quả của các biện pháp bồi thường này có thể bị triệt tiêu vì nhiều lý do. Trước hết, người tổ chức việc sản xuất và phân phối các bản sao trái phép có thể sử dụng một số lượng lớn các đại lý bán lẻ tạm thời. Chủ sở hữu quyền tác giả có thể đối mặt với tình huống chỉ có thể xác định được một phần nhỏ các đại lý này mà không thể chứng minh được mối liên hệ giữa các đại lý hoặc nguồn cung ứng chung cho các đại lý. Hơn nữa, việc kiện ra toà như một hành động khởi đầu đối với hành vi xâm phạm, thông qua việc gây sự chú ý đối với kẻ sao chép lậu hoặc những kẻ phân phối tác phẩm mà kẻ đó sao chép lậu, có thể làm huỷ hoại các chứng cứ quan trọng cần thiết để xác định nguồn cung ứng và quy mô lượng hàng bán ra. Ngoài ra, vì việc sao chép lậu thường kéo theo các đường dây quốc tế, nên có nguy cơ là các nguồn lực tài chính và các tài sản khác của kẻ sao chép lậu có thể bị xoá bỏ khỏi phạm vi vụ xét xử, và vì vậy, làm mất đi khả năng được bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu quyền tác giả. Các khó khăn này càng nhấn mạnh sự cần thiết phải có các bồi thường sơ bộ ban đầu được tiến hành một cách khẩn trương, nó sẽ hỗ trợ cho việc tập hợp chứng cứ chống lại kẻ sao chép lậu, ngăn chặn việc tiêu huỷ chứng cứ và việc xoá bỏ các nguồn lực tài chính đang bị kiện bồi thường. Trong nhiều nền tài phán theo hệ thống luật chung, nhiều diễn tiến mới đã xuất hiện những năm gần đây nhằm đáp ứng yêu cầu này. (ii) Lệnh tịch thu Đi đầu trong những diễn tiến mới xuất hiện trong bồi thường sơ bộ ban đầu chính là lệnh tịch thu. Lệnh này (được phát triển bởi Tòa Thượng thẩm Anh trong vụ Anton Piller 14 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  15. K.G. kiện Manufacturing Processes Ltd. [1976] RPC 719), là một quyết định của Tòa án cho phép điều tra các tài sản được cho là dựa vào đó để tiến hành hành vi xâm phạm quyền tác giả của nguyên đơn. Lệnh này có một số đặc điểm khiến cho nó trở thành một biện pháp bồi thường đặc biệt thích hợp đối với việc sao chép lậu: – Thứ nhất, lệnh này được ban bố từ một phía, nghĩa là trên cơ sở đơn và sự có mặt của một mình chủ sở hữu quyền tác giả, không cần phải cảnh báo trước cho bên bị đơn. Bản chất của lệnh này là mang đến sự bất ngờ cho bên bị đơn và ngăn chặn bị đơn tiêu hủy hoặc di dời các chứng cứ quan trọng. – Thứ hai, lệnh này đưa ra các điều khoản cho phép chủ sở hữu quyền tác giả kiểm tra các tài sản của bị đơn và tất cả các tài liệu (kể cả các thông tin kinh doanh, như hóa đơn, vận đơn, các nguồn cung ứng và danh sách khách hàng) liên quan tới hành vi được cho là xâm phạm. Nhờ các điều khoản này, chủ sở hữu quyền tác giả có được phương tiện để xác định nguồn cung ứng của các tác phẩm sao chép lậu, phạm vi bán lẻ và điều này sẽ hỗ trợ cho việc xác định khối lượng thiệt hại mà anh ta có thể được trao quyền. – Thứ ba, lệnh kiểm tra sẽ thường đi kèm với lệnh cấm của tòa án ngăn chặn bị đơn sửa đổi hoặc tiêu hủy bằng bất kỳ hình thức nào các điều khoản hoặc tư liệu liên quan tới lệnh kiểm tra. Bởi lẽ lệnh được ban bố trên cơ sở một phía, tuy nhiên, cũng cần quan tâm bảo đảm rằng các quyền của những người mà lệnh này nhằm tới và các hành vi của những người đó còn chưa bị xét xử thì đều được bảo vệ một cách thích đáng. Đặc biệt, cần lưu ý có hai biện pháp bảo vệ mà các tòa án thường yêu cầu khi có thể. Thứ nhất, nó sẽ chỉ được đưa ra khi thực sự nguyên đơn cần kiểm tra để có được sự công bằng giữa các bên. Nhằm thỏa mãn tiêu chí này, thông thường chủ sở hữu quyền tác giả sẽ phải chứng minh rằng có chứng cứ rõ ràng là bên bị đơn có các tài liệu hoặc tư liệu đang bị buộc tội; rằng hoàn cảnh cho thấy có khả năng thực sự hoặc có nguy cơ nghiêm trọng là các tư liệu bị buộc tội sẽ bị tiêu hủy hoặc che giấu nếu bên bị đơn được cảnh báo trước; và rằng các thiệt hại tiềm năng hoặc thực tế đối với nguyên đơn như một hậu quả của các hành vi sai trái bị buộc tội của bên bị đơn là vô cùng nghiêm trọng. Biện pháp bảo vệ thứ hai thường đòi hỏi sự tôn trọng thích đáng đối với các quyền của bên bị đơn khi thi hành lệnh của tòa. Trong trường hợp này, có thể có yêu cầu rằng, khi thi hành lệnh, chủ sở hữu quyền tác giả phải có mặt kèm theo luật sư của mình, tạo cho 15 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  16. bên bị đơn có cơ hội đầy đủ để xem xét lệnh của tòa, và không cưỡng đoạt các tài sản của bị đơn đi ngược lại với ý muốn của anh ta. (iii) Các lệnh cấm tạm thời Nhằm giảm thiểu các thiệt hại gây ra bởi hành vi sao chép lậu, điều quan trọng là chủ sở hữu quyền phải hành động nhanh chóng để ngăn chặn hành vi này tiếp diễn. Càng để hành vi sao chép lậu kéo dài, chủ sở hữu quyền sẽ càng bị mất đi thị phần tiềm năng của mình, và như vậy càng mất đi khả năng bù đắp các lợi ích kinh tế đối với sự sáng tạo hoặc đầu tư của mình. Mục đích của lệnh cấm tạm thời là đáp ứng yêu cầu này bằng việc đưa ra giải pháp nhanh chóng và tạm thời trong giai đoạn trước khi diễn ra phiên tòa xét xử đầy đủ hành vi xâm phạm, nhờ vậy, ngăn chặn được việc phát sinh các thiệt hại không thể bù đắp được đối với các quyền của nguyên đơn. (iv) Các bồi thường cuối cùng Hai biện pháp bồi thường thông thường đối với chủ sở hữu quyền tác giả trong các nền tài phán theo hệ thống luật chung tiếp sau phiên xét xử cuối cùng đối với hành vi xâm phạm là một lệnh cấm vĩnh viễn và tiền bồi thường. Lệnh cấm vĩnh viễn này được đưa ra nhằm ngăn chặn bất kỳ sự lặp lại nào của hành vi xâm phạm. Để làm cho lệnh cấm này có hiệu quả, nó thường được ban hành kèm theo lệnh buộc bên xâm phạm cung cấp toàn bộ các bản sao xâm phạm để sau đó tiêu hủy sao cho chúng sẽ không thể tái sử dụng hoặc bán lại được nữa. Mục đích quyết định của tòa án về tiền bồi thường thiệt hại là nhằm khôi phục lại cho chủ sở hữu quyền tác giả vị trí lẽ ra có được nếu như quyền tác giả của anh ta không bị xâm hại. Khó khăn thường gặp phải để có được một phán quyết hợp lý về tiền bồi thường thiệt hại là việc tạo ra chứng cứ đúng với phạm vi bán lẻ và quy mô của các thiệt hại gây ra đối với quyền tác giả của nguyên đơn. Chính vì lý do này mà các diễn tiến gần đây trong bồi thường sơ bộ ban đầu, như trường hợp lệnh Anton Piller, với mục đích cho phép nguyên đơn có được các chứng cứ xâm phạm, là vô cùng quan trọng. 9. Các quyền liên quan (a) Định nghĩa 16 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  17. Thực tế có các quyền liên quan hoặc “quyền kề cận” với quyền tác giả và các quyền này nhìn chung được gọi là “các quyền kề cận” trong các mục giải thích từ ngữ. Có ba loại quyền kề cận: các quyền của nghệ sỹ biểu diễn đối với các trình diễn của họ; các quyền của người sản xuất bản ghi âm đối với các bản ghi âm của họ; và các quyền của tổ chức phát sóng đối với các chương trình phát thanh hoặc truyền hình của họ. Việc bảo hộ đối với những người trợ giúp cho các nhà sáng tạo trí tuệ truyền bá thông điệp và đưa các tác phẩm của mình tới công chúng rộng rãi, được tiến hành thông qua công cụ của các quyền kề cận. Tất cả những người sử dụng các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học nhằm đưa chúng tiếp cận được với công chúng đều đòi hỏi sự bảo hộ cho riêng mình chống lại việc sử dụng bất hợp pháp các sản phẩm của mình trong quá trình truyền bá tác phẩm tới công chúng. (b) Ngành in ấn Máy quay đĩa, đài, phim, vô tuyến truyền hình, chương trình video và vệ tinh khiến cho có thể định hình các trình diễn trên nhiều loại vật liệu, như các bản ghi âm, băng cát xét, băng ghi âm, phim, v.v… Điều mà trước đây là một đoạn trình diễn biệt lập, ngắn, trực tiếp trên tường trước một nhóm khán giả giới hạn nay đã trở thành màn trình diễn vĩnh viễn có khả năng sử dụng và nhân bản ảo một cách không giới hạn và lặp đi lặp lại trước một số lượng khán giả không giới hạn, vượt qua các biên giới quốc gia. Sự phát triển của các chương trình phát sóng và gần đây hơn, của truyền hình, cũng có các ảnh hưởng tương tự. Các đổi mới công nghệ này, vì có thể cho phép nhân bản các màn trình diễn cá nhân của các nghệ sỹ biểu diễn và sử dụng chúng mà không cần sự có mặt của họ cũng như không cần người sử dụng phải có nghĩa vụ đạt được thỏa thuận với họ, đã dẫn tới việc giảm bớt các buổi trình diễn trực tiếp. Tương tự, sự phát triển ngày càng nhanh của công nghệ ghi âm, cát xét và gần đây là đĩa CD, và sự gia tăng nhanh chóng của chúng, dẫn đến sự cần thiết phải bảo hộ các nhà sản xuất bản ghi âm. Sức lôi cuốn của bản ghi âm, cũng như việc dễ dàng có được trên thị trường nhiều chủng loại mặt hàng ghi âm phức tạp, đã gây nên một vấn nạn sao chép lậu ngày càng gia tăng mà hiện nay trở thành một tai họa toàn cầu. Ngoài ra, có một thực tế là việc tăng cường sử dụng các bản ghi hoặc đĩa bởi các tổ chức phát sóng, trong khi việc sử dụng này mang đến cho công chúng các bản ghi âm và các nhà sản xuất bản ghi âm, thì đến lượt mình, chúng cũng trở thành một thành phần không thể thiếu được của các chương trình hàng ngày của các tổ chức phát sóng. Kết quả là, không chỉ có người biểu diễn tìm kiếm sự bảo hộ cho chính mình, mà người sản xuất 17 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  18. bản ghi âm cũng bắt đầu theo đuổi việc bảo vệ bản thân chống lại sự nhân bản trái phép các bản ghi, và cũng vì tiền thù lao cho việc sử dụng các bản ghi âm nhằm mục đích phát sóng hoặc các hình thức truyền bá khác tới công chúng. Cuối cùng, các tổ chức phát sóng cũng đòi hỏi được bảo hộ chống lại sự phát lại các chương trình của họ bởi các tổ chức tương tự. Như vậy, nhu cầu bảo hộ đặc biệt đối với những người biểu diễn, người sản xuất bản ghi âm và các tổ chức phát sóng được hình thành. Những người biểu diễn thông qua các tổ chức của mình ở cấp quốc tế tìm kiếm văn phòng luật sư để bảo vệ cho mình. Trong khi một người biểu diễn có thể được chi trả một lần cho việc ghi âm một màn trình diễn, và bản ghi màn trình diễn có thể được diễn lặp đi lặp lại vì lợi ích của một bên thứ ba, thì những người trình diễn thấy rằng, họ sẽ không những không thu được lợi ích từ việc sử dụng lần thứ hai như vậy, mà còn bị đặt vào tình thế khó xử là phải hoàn thành các bản ghi của chính họ đối với các buổi trình diễn trực tiếp tại nhà hát, nhà hàng, quán cà phê, v.v… Cuối cùng, cần ghi nhận rằng, vì trong đời sống văn hóa của các quốc gia, kể cả các nước đang phát triển, di sản nghệ thuật có tầm quan trọng thực sự, nên việc bảo hộ các quyền kề cận tạo ra các quyền năng cho người tham gia giải thích và truyền bá di sản này. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển, nơi truyền thống được truyền miệng rộng rãi và nơi tác giả thường cũng chính là người trình diễn. Trong trường hợp này, địa điểm chiếm lĩnh của các tác phẩm dân gian cần được ghi nhớ trong tâm trí, và quyền lợi của các nghệ sỹ biểu diễn và duy trì tác phẩm dân gian phải được bảo vệ khi tiến hành sử dụng các trình diễn của họ. Bằng việc bảo vệ các nhà sản xuất bản ghi âm, đặc biệt ở các nước đang phát triển, thì cơ sở để hình thành nền công nghiệp ở khu vực thứ ba của nền kinh tế cũng được bảo đảm. Nền công nghiệp đó, trong khi bảo đảm truyền bá văn hóa dân tộc cả ở trong nước và trên thế giới, còn có thể bổ sung thêm một nguồn lợi tức quan trọng nữa cho nền kinh tế đất nước, và khi các hoạt động của nó vượt ra khỏi biên giới quốc gia, thì đây còn có thể là hiện thân của luồng thu hút ngoại tệ. Cũng không nên quên phần được trình diễn bởi các tổ chức phát sóng ở các nước đang phát triển cũng như việc các tổ chức này có quyền lợi tự nhiên trong việc bảo vệ các chương trình của họ chống lại việc phát sóng lại, nhân bản và truyền bá cho công chúng. (c) Công ước Rome 18 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  19. Công ước Rome 1967 quy định việc bảo hộ quyền lợi của người biểu diễn, người sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng trong các hoạt động của họ liên quan tới việc sử dụng công cộng các tác phẩm của các tác giả, mọi hình thức biểu diễn của các nghệ sỹ hay việc truyền bá tới công chúng các sự kiện, thông tin, âm thanh, hình ảnh. Các loại quyền quan trọng nhất là: quyền của người biểu diễn ngăn chặn việc định hình, phát sóng trực tiếp hoặc truyền bá tới công chúng buổi trình diễn mà chưa được sự đồng ý của mình; quyền của người sản xuất bản ghi âm cho phép hoặc cấm nhân bản các bản ghi âm cũng như nhập khẩu, phân phối các bản sao trái phép bản ghi âm của mình; quyền của tổ chức phát sóng cho phép hoặc cấm phát sóng lại, định hình hoặc nhân bản các chương trình phát sóng của mình. Việc bảo hộ người biểu diễn được quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của các diễn viên, ca sỹ, nhạc sỹ, vũ công, hoặc những người có diễn xuất, hát, đọc, ngâm thơ, đóng kịch hoặc có hình thức trình diễn khác đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật, kể cả các tác phẩm dân gian, chống lại các hành vi sử dụng bất hợp pháp các trình diễn của họ. Khái niệm “người sản xuất bản ghi âm” được hiểu là cá nhân hoặc pháp nhân đầu tiên định hình âm thanh của một buổi trình diễn hoặc các âm thanh khác. Bản ghi âm là bất kỳ sự định vị âm thanh của một buổi trình diễn hoặc các âm thanh khác để nghe. Bản sao của bản ghi âm là bất kỳ vật có chứa âm thanh thu trực tiếp hoặc gián tiếp từ bản ghi âm và phản ánh tất cả hoặc một phần cơ bản các âm thanh được định vị trong bản ghi âm đó. Đĩa ghi, băng cát xét từ tính và đĩa CD là các bản sao của một bản ghi âm. Phát sóng thường được hiểu là phương tiện truyền thông của âm thanh hoặc/và hình ảnh qua phương tiện sóng đài để công chúng được tiếp nhận rộng rãi. Chương trình phát sóng là bất kỳ chương trình nào được truyền bằng cách phát sóng, nói một cách khác, được truyền bằng phương tiện không dây bất kỳ (kể cả tia laze, gama, v.v…) để công chúng tiếp nhận được âm thanh hoặc cả hình ảnh và âm thanh. 10. Bảo hộ các hình thức thể hiện văn hóa truyền thống (các hình thức thể hiện dân gian) (i) Giới thiệu Dân gian được định nghĩa trong Quy định mẫu của WIPO/UNESCO cho luật quốc gia về bảo hộ tác phẩm dân gian chống lại việc khai thác bất hợp pháp và các hành vi gây tổn hại khác như sau: 19 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
  20. Dân gian (theo nghĩa rộng là văn hoá truyền thống và dân gian thông thường) là một sáng tạo mang tính định hướng cộng đồng và dựa trên truyền thống của các nhóm người hoặc các cá nhân phản ánh ước vọng của cộng đồng như một hình thức thể hiện đầy đủ đặc điểm văn hoá và xã hội của nó; các chuẩn mực của nó được truyền miệng, thông qua sự bắt chước hoặc các hình thức khác. Các thể loại tác phẩm dân gian bao gồm ngôn ngữ, văn học, âm nhạc, điệu múa, trò chơi, thần thoại, nghi lễ, tập quán, thủ công, kiến trúc và các nghệ thuật khác. Khái niệm “Các hình thức thể hiện văn hoá truyền thống” - “Traditional Cultural Expressions” (TCE) chứa đựng các quan ngại của các quan sát viên, những người chỉ trích nghĩa hẹp của khái niệm “dân gian”. (ii) Tại sao phải bảo hộ các hình thức thể hiện văn hoá truyền thống Bốn quan ngại “mở đầu” dẫn tới các đề xuất quốc tế về bảo hộ các tác phẩm dân gian (Jabbour, 'Folklore protection and national patrimony: developments and dilemmas in the legal protection of folklore' (1982) XVII, No.1 Copyright Bulletin 10 at 11-12 - Jabbour, 'Bảo hộ tác phẩm dân gian và di sản dân tộc: các diễn tiến mới và vấn đề trong bảo hộ pháp lý đối với tác phẩm dân gian' (1982) XVII, No.1 Copyright Bulletin 10, trang 11-12) gồm: Thứ nhất, mối quan ngại về sự chấp nhận chính thức tác phẩm dân gian trước mối đe dọa về kinh tế, tâm lý và văn hoá từ các nguồn ngoại tộc. Thứ hai, sự trưng dụng tài sản vì mục đích chung, không chỉ vì các mục đích vật chất, mà còn là sự ghi nhận về tư liệu và tranh ảnh của các xã hội truyền thống. Thứ ba, vấn đề bồi thường cho sự chiếm đoạt và xâm hại văn hoá. Thứ tư, vấn đề nuôi dưỡng hay là sức khoẻ văn hoá. Sự phát triển ngày càng gia tăng của công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực ghi âm, nghe nhìn, phát sóng, truyền hình cáp, điện ảnh có thể dẫn đến việc khai thác bất hợp lý di sản văn hoá này cũng như việc thương mại hoá trên quy mô toàn cầu thông qua các phương tiện đó, thiếu sự tôn trọng cần thiết đối với các lợi ích văn hoá hay kinh tế của các cộng đồng nơi chúng được sinh ra. Cùng với việc thương mại hoá, các loại hình dân gian thường bị làm sai lệch đi cho phù hợp với suy nghĩ là điều này sẽ giúp tiếp thị chúng tốt hơn. Và nói chung, không chia sẻ bất cứ cái gì được xem là lợi nhuận thu được từ việc khai thác các loại hình dân gian cho những người phát triển và duy trì chúng. Ở các nước công nghiệp hoá, các hình thức dân gian nhìn chung được xem như thuộc sở hữu công. Cách tiếp cận này giải thích vì sao, ít nhất là cho đến nay, các nước công 20 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2