
40
TÂM LÝ BỆNH NHÂN
MỤC TIÊU
1. Trình bày được tâm lý người bệnh và bệnh tật.
2. Trình bày được tâm lý người bệnh và môi trường.
3. Trình bày được những tác động tâm lý từ cán bộ y tế đến người bệnh.
4. Vận dụng tâm lý người bệnh trong hoạt động nghề nghiệp.
NỘI DUNG
1. Tâm lý người bệnh và bệnh tật
- Những biến đổi tâm lý dưới tác động của bệnh tật và ngược lại, bệnh tật chịu ảnh
hưởng nhất định của tâm lý người bệnh là hiện tượng thường gặp trong lâm sàng.
- Bệnh tật làm thay đổi tâm lý người bệnh, có khi chỉ làm thay đổi nhẹ về cảm xúc,
song cũng có khi làm biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc toàn bộ nhân cách người bệnh.
+ Bệnh càng nặng càng kéo dài thì sự biến đổi tâm lý càng trầm trọng.
+ Bệnh tật có thể làm người bệnh thay đổi từ điềm tĩnh, tự chủ, khiêm tốn
thành cáu kỉnh, khó tính, nóng nảy; từ người chu đáo, thích quan tâm đến người khác
thành người ích kỷ; từ người vui tính, hoạt bát thành người đăm chiêu, nghi bệnh; từ
người lạc quan thành người bi quan, tàn nhẫn; từ người lịch sự, nhã nhặn thành người
khắt khe; từ người có bản lĩnh, độc lập thành người bị động.
+ Tuy nhiên, cũng có khi bệnh tật lại làm thay đổi tâm lý người bệnh theo
hướng làm cho họ thương yêu, quan tâm tới nhau hơn, làm cho người bệnh có ý chí và
quyết tâm cao hơn.
- Tâm lý người bệnh ảnh hưởng trở lại bệnh tật đến đâu lại tuỳ thuộc vào đời
sống tâm lý vốn có của người bệnh. Mỗi người bệnh có những thái độ khác nhau đối với
bệnh tật:
+ Có người cho bệnh tật là điều bất hạnh, không thể tránh được, đành cam
chịu. Có người kiên quyết đấu tranh, khắc phục bệnh tật.
+ Có người không sợ bệnh tật, không quan tâm đến bệnh tật.
+ Có người sợ hãi, lo lắng vì bệnh tật.
+ Thái độ đối với bệnh tật nói riêng và đời sống tâm lý của người bệnh
nói chung ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động sinh lực bản thân trong phòng và
chữa bệnh cũng như khắc phục hậu quả bệnh tật của người bệnh.
- Những diễn biến bệnh tật và biến đổi tâm lý của người bệnh tác động lẫn nhau
theo vòng xoắn luân hồi. Khi một trong hai thành tố này mất đi (trường hợp tốt nhất là
bệnh tật không còn nữa và trường hợp xấu nhất là đời sống tâm lý của người bệnh ngưng
trệ), thì vòng luân hồi cũng ngừng hoạt động.

41
- Đối tượng nghiên cứu cảu tâm lý học bệnh sinh (tâm lý học bệnh tật) là quy
luật vận hành của vòng xoắn luân hồi này, nghĩa là nghiên cứu quy luật tác động tương
hỗ giữa tâm lý người bệnh và bệnh tật.
- Nhiệm vụ của tâm lý học bệnh sinh là nghiên cứu thế giới nội tâm người bệnh
trong mối quan hệ với bệnh tật.
Nội dung của tâm lý học bệnh sinh bao gồm các vấn đề cơ bản sau:
1.1. Trạng thái tâm lý người bệnh
Trạng thái tâm lý người bệnh và trạng thái bệnh lý thực thể có mối quan hệ khăng
khít với nhau. Trong lâm sàng, chúng ta có thể gặp 3 loại trạng thái tâm lý sau:
- Trạng thái biến đổi tâm lý: Là trạng thái nhẹ nhất và có thể gặp ở bất kỳ người
bệnh nào, những biến đổi tâm lý ở đây còn trong giới hạn bình thường. Người bệnh có
biểu hiện hơi khó chịu, lo lắng hoặc thiếu nhiệt tình trong công việc.
- Trạng thái loạn thần kinh chức năng: Trạng thái này có sự gián đoạn và rối loạn
các quá trình hoạt động thần kinh cấp cao, được biểu hiện thành các hội chứng như suy
nhược, nghi bệnh, ám ảnh, lo âu. Người bệnh trong trạng thái này chưa bị rối loạn ý
thức, họ vẫn còn thái độ phê phán đối với bệnh tật và sức khoẻ của mình.
- Trạng thái loạn tâm thần (kể cả ở những người mắc bệnh thực thể): Những
người bệnh này không còn khả năng phản ánh thế giới xung quanh, hành vi bị rối loạn
và mất cả khả năng phê phán đối với bệnh tật. Biểu hiện đặc trưng của trạng thái này là
các hội chứng hoang tưởng và rối loạn ý thức.
1.2. Tâm lý người bệnh và một số yếu tố bệnh tật
1.2.1. Yếu tố đau
- Đau là yếu tố thường gặp nhất, đôi khi là yếu tố mang tính bao trùm nhất trong một
số bệnh.
+ Cảm giác đau mang ý nghĩa thích nghi và bảo vệ, giữ gìn sức khoẻ.
+ Đau có vị trí khư trú hoặc lan toả, có cường độ khác nhau tuỳ theo bệnh tật
và mức độ biến đổi tâm lý của người bệnh.
- Đau làm thay đổi trạng thái tâm lý và khả năng lao động của người bệnh, nó
làm giảm chất lượng các hoạt động chú ý, tư duy, trí nhớ. Những người phải chịu đựng
đau đớn kéo dài thường trở nên nóng nảy, lạnh nhạt, thế giới nội tâm và ý thức bị thu
hẹp.
- Người điều dưỡng cần phải giúp người bệnh thoát khỏi sự đau đớn bằng thuốc
và bằng tâm lý.
1.2.2. Yếu tố nhiễm trùng, nhiễm độc
- Tâm lý người bệnh chịu ảnh hưởng rất lớn của yếu tố nhiễm trùng.
+ Có khi những nhiễm trùng nhẹ cũng gây ra biến đổi tâm lý rõ rệt.
+ Những nhiễm trùng nặng thường sinh ra rối loạn tâm thần.
- Các biến đổi tâm lý do nhiễm độc rất đa dạng, phụ thuộc nhiều vào đặc điểm,
liều lượng, cường độ tác dụng của chất độc.

42
1.3. Tâm lý người bệnh và các giai đoạn phát triển bệnh
1.3.1. Giai đoạn đầu của bệnh
- Nếu bệnh khởi phát đột ngột trên người bệnh, sẽ kéo theo những biến đổi dữ
dội các hoạt động tâm lý, làm thay đổi các chức năng điều tiết, phá vỡ định hình cũ, thiết
lập định hình mới.
- Đây là giai đoạn hình thành ổ hứng phấn ưu thế bệnh lý kèm theo những thay
đổi tâm lý. Các nhân tố xúc cảm Stress rất dễ gây tác động mạnh trên người bệnh.
1.3.2. Giai đoạn toàn phát
- Giai đoạn này được đặc trưng bởi sự hình thành căn nguyên tâm lý của bệnh,
sự xuất hiện khả năng thích nghi (do cân bằng xúc cảm được lặp đi lặp lại) sự đấu tranh
gay gắt giữa niềm hy vọng, nỗi thất vọng và tình trạng ám thị ở người bệnh tăng lên.
1.3.3. Giai đoạn cuối
- Nếu bệnh tiến triển tốt, thì xúc cảm dương tính của người bệnh tăng cao, khí
sắc tươi vui, phấn chấn, tri giác nhạy bén. Họ nhìn về tương lai với niềm lạc quan, cảm
thấy khoẻ mạnh, sức sống dồi dào, mở rộng phạm vi hứng thú, tính tích cực tăng và hay
đánh giá quá mức khả năng của mình.
- Nếu bệnh tiến triển xấu, thì sự biến đổi tâm lý trầm trọng sẽ xảy ra đồng thời
với những biến đổi thực thể.
- Cường độ cảm xúc âm tính tăng, thế giới nội tâm khô cạn, tính tích cực bi suy
sụp và có thể xuất hiện trạng thái bất mãn, thất vọng trên người bệnh.
- Khi bệnh chuyển sang giai đoạn mãn tính hoặc người bệnh bị tàn phế, mang
khuyết tật về thẩm mỹ, mất chức năng của cơ quan phân tích, mất khả năng lao động
nghề nghiệp thì cơ chế thích nghi, vai trò bù trừ của các căn nguyên tâm lý, nhân cách
có một ý nghĩa to lớn.
2. Tâm lý chung của người bệnh khi mắc bệnh
2.1. Bệnh nặng hay nhẹ
- Khi người bệnh mắc những bệnh nhẹ, một thời gian ngắn các triệu chứng sẽ
mất dần, người bệnh sẽ dễ chịu, tin tưởng, lạc quan và mọi suy nghĩ biến mất.
- Khi người bệnh mắc những bệnh nặng, nhất là các bệnh ác tính tỷ lệ tử vong
cao thì người bệnh lo lắng nhiều, thậm chí dẫn đến tư tưởng tuyệt vọng rất nguy hiểm.
2.2. Bệnh phải chữa lâu hay mau
- Đang khoẻ mạnh lao động, sinh hoạt bình thường, bị ốm đau ai cũng muốn bệnh
mau khỏi.
+ Gặp những bệnh mau khỏi, tâm lý người bệnh ít ảnh hưởng.
+ Đối với những bệnh lâu khỏi hay bệnh mạn tính thì ảnh hưởng lớn đến
tâm lý người bệnh.
Chính vì vậy, những người bệnh mắc bệnh mãn tính phải là đối tượng chú ý về
mặt tâm lý.
- Công tác tư tưởng đối với họ không thể là một việc giản đơn mà đòi hỏi phải
rất tế nhị, có mối quan tâm sâu sắc đến họ, đến hoàn cảnh của họ và cũng phải có một
nghệ thuật nhất định khi tiếp xúc với họ.

43
2.3. Ai là người chữa bệnh cho mình:
- Khi bị bệnh tâm lý chung của tất cả người bệnh là muốn có một người thầy
thuốc giỏi, điều dưỡng viên giỏi để điều trị và chăm sóc mình. Người bệnh ít khi nhầm
khi đánh giá về trình độ chuyên môn và tư cách đạo đức của người chịu trách nhiệm
chăm sóc mình.
- Vì vậy, công tác tâm lý tốt nhất với người bệnh là giải quyết được nguyện vọng
sâu xa nhất của họ là được chữa khỏi bệnh nhanh nhất, tốt nhất và được đối xử chân
thành nhất.
3. Tâm lý người bệnh và yếu tố môi trường tự nhiên
- Tâm lý người bệnh và môi trường xung quanh có mối quan hệ mật thiết với
nhau.
- Bộ phận tâm lý học y học nghiên cứu mối quan hệ giữa tâm lý người bệnh và
hoàn cảnh sống trong môi trường tự nhiên và môi trường xã hội được gọi là tâm lý học
môi trường người bệnh.
3.1. Tâm lý người bệnh và yếu tố môi trường tự nhiên
- Môi trường tự nhiên xung quanh con người bao gồm những yếu tố như: nhiệt
độ, màu sắc, âm thanh, mùi vị, thời tiết và các yếu tố địa lý khác.
Những yếu tố này tác động mạnh, làm thay đổi trạng thái tâm lý, khí sắc, sức
khoẻ, trương lực sống và tình trạng bệnh tật của người bệnh.
3.2. Tâm lý người bệnh và các yếu tố môi trường xã hội
- Con người là một thực thể xã hội, vì vậy môi trường xã hội xung quanh là những
yếu tố có ý nghĩa rất đặc biệt.
+ Người bệnh nằm trên giường bệnh, ngoài quan hệ chặt chẽ với nhân viên
y tế và người bệnh khác, họ còn gắn bó chặt chẽ với cuộc sống gia đình, bạn bè, công
tác bằng muôn vàn sợi dây vô hình. Những mỗi quan hệ này trực tiếp, hoặc gián tiếp tác
động tới người bệnh, bằng phương tiện ngôn ngữ, hoặc phi ngôn ngữ.
+ Mối quan hệ xã hội của người bệnh rất đa dạng và kết quả tác động của
nó lên tâm lý cũng như bệnh tật rất khác nhau.
3.2.1. Tác động tâm lý của môi trường xã hội ngoài bệnh viện
- Những tác động này thường gián tiếp qua nghe đài, xem ti vi, đọc sách báo và
qua lời kể của người đến thăm, của nhân viên y tế. Những thông tin, tư liệu ở đây thường
tự phát, chưa được chọn lọc cho phù hợp với từng người bệnh.
Vì vậy, người điều dưỡng phải biết cách hướng những thông tin này vào mục đích
điều trị và chăm sóc, gây ảnh hưởng tốt nhất cho sự hồi phục sức khoẻ người bệnh.
3.2.2. Tác động tâm lý của môi trường xã hội trong bệnh viện
Mối quan hệ xã hội bên trong bệnh viện được tập trung vào quan hệ giữa những
người bệnh với nhau và giữa những người bệnh với nhân viên y tế, mà đặc biệt là giữa
người bệnh với người điều dưỡng.
- Quan hệ giữa người bệnh với người bệnh: Những người mắc cùng một loại
bệnh, nhất là cùng bị khuyết tật như nhau, hoặc cùng bị loại bệnh mãn tính, thường có

44
thiện cảm với nhau, họ có cùng mối quan tâm và rất thích trao đổi với nhau về diễn biến
bệnh tật cũng như về phương pháp điều trị.
+ Những người bệnh ở cùng một phòng cần có sự tương đồng về tâm lý.
Người điều dưỡng phải biết bố trí hợp lý, đỗi xử bình đẳng với những người bệnh trong
cùng phòng, phải biết đề phòng những tác động xấu do người bệnh gây ra cho nhau.
+ Không khí tâm lý hài hoà trong buồng bệnh là rất cần thiết cho quá trình
điều trị và chăm sóc người bệnh. Người điều dưỡng phải tạo nên sự thông cảm, quan
tâm, giúp đỡ lẫn nhau giữa những người bệnh; động viên học chấp hành nghiêm túc
mệnh lệnh điều trị và chăm sóc cũng như các nội quy, quy định của bệnh viện đề ra.
- Quan hệ giữa người bệnh với người điều dưỡng: Mục đích tác động tâm lý của
người điều dưỡng lên người bệnh là loại trừ hoặc làm giảm tối đa những tác hại của
bệnh tật và tạo nên yếu tố có lợi cho quá trình chăm sóc người bệnh. Những điểm đặc
trưng trong mối quan hệ hữu ích giữa người điều dưỡng và người bệnh là lòng trung
thực, sự hiểu biết và lòng tin.
+ Lòng trung thực: Mối quan hệ giữa người điều dưỡng và người bệnh là
mối quan hệ trung thực, người điều dưỡng phải quan tâm một cách thực sự đến người
bệnh và chăm sóc chu đáo đến họ.
+ Sự hiểu biết: Mối quan hệ giữa người điều dưỡng với người bệnh là mối
quan hệ hiểu biết, người điều dưỡng phải biết rõ và hiểu được người bệnh đang cần gì
và muốn gì để chăm sóc họ được tốt hơn.
+ Lòng tin: Người điều dưỡng phải có lòng tin ở khả năng của mình giúp
được người bệnh và tin ở khả năng người bệnh đáp ứng lại, lòng tin này sẽ giúp người
điều dưỡng chăm sóc tốt người bệnh.
- Mối quan hệ giữa người điều dưỡng với người bệnh là mối quan hệ giữa con
người với con người, giữa nhân cách với nhân cách. Chăm sóc người bệnh một cách
toàn diện, nghĩa là người điều dưỡng đồng thời với quá trình tích cực cứu chữa bệnh tật,
phải hết lòng chăm lo, nâng đỡ tâm lý, tinh thần cho người bệnh.
4. Tác động tâm lý từ cán bộ y tế đến người bệnh
4.1. Tác động tích cực:
Hành vi thích hợp của cán bộ y tế sẽ làm tăng lòng tin, giảm sự băn khoăn lo lắng
cho người bệnh.
Các tác động tâm lý tích cực có thể là:
- Giải thích cho người bệnh đúng lúc, đúng chỗ những điều cần thiết về bệnh tật
của họ.
- Tìm hiểu thái độ người bệnh đối với bệnh tật của họ để khắc phục thái độ chưa
phù hợp với bệnh.
- Tìm hiểu tâm lý của người bệnh để có liệu pháp tâm lý phù hợp.
- Chuyển sự chú ý của người bệnh từ bệnh tật sang sự chú ý vào sự hồi phục của
bệnh, chỉ cho họ biết những diễn biến tốt của bệnh.
- Động viên người bệnh tự giác, chủ động tích cực thực hiện các quy định điều
trị, hướng dẫn cách tự chăm sóc, luyện tập.