Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Mặt khác, với tư cách là một đơn vị kinh doanh, ngân hàng còn tiến hành trích lập
các quỹ từ lợi nhuận thu được:
- Quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng.
- Quỹ phúc lợi, khen thưởng.
Các quỹ này tỷ lệ trích lập theo quyết định của đại hội cổ đông hoặc theo chỉ đạo
của nhà nước.
Vốn riêng của ngân hàng được dùng để mua sắm tài sản cố định, các phương tiện
cần thiết cho hoạt động kinh doanh ngân hàng, nhưng không quá 50% vốn tự có, để
tài trợ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng và được sử dụng để hùn vốn liên
doanh, mua cổ phần...
Vốn tự có và các quỹ so với tổng số vốn hoạt động của ngân hàng chỉ chiếm một
phần nhỏ.
1.2.2. Vốn huy động:
Các khoản tiền gửi loại này không thuộc sở hữu của ngân hàng nhưng ngân hàng
được quyền sử dụng đối với những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi này. Đây là khoản
vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn. Các hoạt động sử dụng vốn tồn
tại và phát triển được là nhờ nguồn vốn huy động này.
1.2.2.1. Vốn tiền gửi của khách hàng:
Đây là khoản vốn hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng, chiếm tỷ trọng cao
nhất trong nguồn vốn. Tuy nhiên, một bộ phận đáng kể trong vốn tiền gửi này luôn
luôn biến động, do vậy khi sử dụng ngân hàng luôn phải dự trữ để đảm bảo khả
năng thanh toán, chi trả. Dựa vào yếu tố thời gian và tính chất của những khoản tiền
gửi, tiền gửi của khách hàng có hai loại: Tiền gửi kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
- Tiền gửi không kỳ hạn.
Là loại tiền gửi có thể rút ra theo yêu cầu của người gửi tiền mà không tôn trọng
một kỳ hạn ký thác nào. Đây là khoản tiền gửi thường xuyên biến động ngân hàng
không thể định ra kế hoạch sử dụng trước được mà chỉ dựa vào kinh nghiệm quản
lý, ngân hàng có thể tận dụng ở một mức độ cho phép. Mục đích của người gửi tiền
là sử dụng những dịch vụ trung gian thanh toán của ngân hàng thương mại như giữ
hộ, thu chi hộ,... Ngân hàng không phải trả lãi hoặc có trả lãi nhưng với một mức lãi
suất rất thấp chỉ mang tính chất tượng trưng. Kinh nghiệm trong quản lý ngân hàng
cho thấy mặc dù tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của từng khách hàng có biến động
do khách hàng thường xuyên có những khoản thu và những khoản chi, nhưng trên
tài khoản tổng hợp luôn có số “dư có” bình quân tương đối ổn định. Vì vậy ngân
hàng có thể động viên những khoản vốn tạm thời nhàn rỗi trên các tài khoản không
kỳ hạn làm nguồn vốn kinh doanh.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi tiền chỉ
được rút ra khi đến thời hạn quy định. Đây là bộ phận tiền huy động mang tính chất
ổn định và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tiền huy động từ khách hàng. Ngân hàng
sử dụng chủ yếu để cho vay có kỳ hạn. Chính điểm thuận lợi này mà ngân hàng
phải trả lãi cao vì mục đích của người gửi tiền là lợi nhuận.
1.2.2.2. Vốn vay.
Ngoài việc huy động tiền gửi theo các hình thức truyền thống, ngân hàng thương
mại có thể bổ sung vốn hoạt động của mình bằng cách đi vay từ các tổ chức và các
tầng lớp dân cư thông qua phát hành trái phiếu hoặc kỳ phiếu ngân hàng, nhưng
phải được ngân hàng Nhà nước chấp nhận, Kỳ phiếu ngân hàng được phát hành
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
rộng rãi. Những người mua kỳ phiếu ngân hàng sẽ trực tiếp cho ngân hàng vay với
lãi suất cố định thông báo trước. Các tờ giấy nhận nợ này sẽ được ngân hàng thanh
toán khi tới hạn ghi trên mặt kỳ phiếu. Ngoài ra ngân hàng thương mại còn có thể
vay ở ngân hàng nhà nước dưới hình thức tái chiết khấu hoặc tái cầm cố các thương
phiếu chứng từ có giá. Vay của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng
khác thông qua thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Ngân hàng thương mại cũng có thể
vay ở ngân hàng nước ngoài hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Vậy các ngân
hàng thương mại đi vay khi nào?
- Ngân hàng vay để đáp ứng nhu cầu khả năng thanh khoản của ngân hàng.
Vì hoạt động chủ yếu và thường xuyên của ngân hàng là nhận tiền gửi và với
trách nhiệm hoàn trả cho khách hàng khi khách hàng có nhu cầu rút tiền để sử dụng.
Do vậy có những trường hợp số tiền dự trữ và số tiền mà ngân hàng nhận được
trước đó trong ngày ít hơn số tiền mà khách hàng rút ra thì ngân hàng sẽ gặp khó
khăn trong việc thanh toán tiền cho khách hàng, nghĩa là ngân hàng thiếu tiền trả
cho khách hàng.Vậy ngân hàng phải đi vay.
- Ngân hàng vay hộ cho khách hàng.
Vì hoạt động cơ bản của ngân hàng là tài trợ cho nền kinh tế nên khi có khách
hàng có nhu cầu vay vốn ngân hàng và đảm bảo các yêu cầu mà ngân hàng đề ra thì
ngân hàng sẽ cho vay. Tuy nhiên, với những khoản vay với số lượng lớn, thời gian
dài mà ngân hàng lại không muốn dùng toàn bộ số tiền mình có để đầu tư cho dự án
này (vì rủi ro cao) vì như thế sẽ mất đi toàn bộ những cơ hội đầu tư khác. Vì vậy
ngân hàng sẽ thay mặt khách hàng phát hành trái phiếu nhằm thu gom tiền trong
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
nền kinh tế để phục vụ cho dự án. Người ta chỉ phát hành trái phiếu vừa đủ số tiền
mà dự án cần dùng và trong một thời hạn bằng thời gian tồn tại của dự án.
- Ngân hàng vay để cho vay.
Hầu như toàn bộ số tiền trong lưu thông đã trở thành tiền gửi tại các ngân hàng,
nghĩa là các ngân hàng chia nhau nắm giữ lượng tiền trong lưu thông. Để tăng
lượng tiền gửi của mình, các ngân hàng thường tăng lãi suất để thu hút các khoản
tiền gửi ở các ngân hàng khác chảy về. Nhưng thực tế khi một ngân hàng tăng lãi
suất tiền gửi, để tránh sự chảy vốn các ngân hàng khác cũng sẽ đồng loạt tăng lãi
suất lên làm chi phí ngân hàng tăng lên mà lượng tiền gửi lại thay đổi không đáng
kể. Do vậy khi thiếu vốn để tài trợ cho các dự án mà ngân hàng cho là có hiệu quả
thì ngân hàng sẽ thực hiện chính sách đi vay. Do tính chất hoạt động không đồng
đều giữa các ngân hàng về huy động vốn và sử dụng vốn nên những ngân hàng
thiếu vốn có thể vay vốn ở những ngân hàng thừa vốn chưa sử dụng hết. Mặt khác
khi ngân hàng dự đoán được sự gia tăng về nhu cầu tín dụng trong tương lai mà
nguồn vốn thì có xu hướng tăng không đáp ứng đủ nhu cầu vốn sử dụng trong thời
kỳ tới thì ngân hàng cũng sẽ đi vay.
- Ngân hàng vay để giảm chi phí nguồn tiền cho giai đoạn sau.
Vào cuối kỳ hạch toán, nếu các chủ ngân hàng dự tính được thu nhập của kỳ đó
lớn nghĩa là kỳ đó họ phải chịu thuế nhiều. Nếu họ cũng dự tính được kỳ sau họ sẽ
có những khoản chi phí lớn thì họ có thể phát hành kỳ phiếu nhắn hạn trả lãi trước
nhằm tăng chi phí cho kỳ này và giảm chi phí cho kỳ sau.
1.2.2.3. Vốn tiếp nhận.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Ngày nay, hệ thống ngân hàng thương mại được tổ chức theo mô hình của tổng
công ty và các công ty con gồm ngân hàng mẹ và hệ thống các chi nhánh ngân hàng
trực thuộc. Có một phương thức huy động vốn được sử dụng rất hiệu quả hiện nay
là chu chuyển nguồn vốn điều hoà. Do tình hình kinh tế xã hội của các vùng hoạt
động của ngân hàng chi nhánh là khác nhau. Những chi nhánh ngân hàng mà hoạt
động sử dụng vốn vượt quá khả năng huy động vốn thì đầu kỳ lập kế hoạch lên
ngân hàng mẹ và xin được nhận một lượng vốn điều hào cần thiết cho hoạt động sử
dụng vốn của mình. Những ngân hàng mà khả năng huy động vốn vượt quá khả
năng sử dụng vốn thì đầu kỳ cũng lập kế hoạch sẽ điều chuyển một lượng vốn về
ngân hàng mẹ để được hưởng một lãi suất điều hoà. Như vậy ngân hàng mẹ chịu
trách nhiệm điều chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu của các chi nhánh ngân
hàng trong nền kinh tế. Chi phí nhận nguồn vốn điều hoà thấp hơn chi phí nguồn
vốn huy động nhưng tại sao các ngân hàng đều nhận nguồn vốn điều hoà sau khi đã
lập kế hoạch về lượng vốn huy động được trong kỳ sau, bởi vì tính độc lập của nó
với ngân hàng mẹ. Đây là một phương thức huy động vốn rất hiệu quả được áp
dụng nhiều trên thế giới hiện nay.
1.2.2.4. Vốn uỷ thác đầu tư.
Một số ngân hàng con thực hiện nghiệp vụ ngân hàng đại lý. Khi đó trong cơ cấu
vốn của ngân hàng con còn có thêm khoản mục vốn uỷ thác đầu tư. Khoản vốn này
hình thành chủ yếu hình thành là do các tổ chức tài chính nước ngoài, trong nước uỷ
thác cho ngân hàng một khoản tiền để ngân hàng thực hiện cho vay các dự án của
mình. Có thể là các khoản vay của Chính Phủ được uỷ thác.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Trên đây là cơ cấu vốn chính của các ngân hàng thương mại. Vốn huy động là
nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, quyết định
đến sự tồn tại và phát triển của hoạt động sử dụng vốn. Tuy nhiên, các ngân hàng
thương mại phải tuân thủ theo luật định về mức vốn huy động tối đa không vượt
quá hai mươi lần vốn thuộc sở hữu của ngân hàng và phải chấp hành tốt các quy
định về tỷ lệ dự trữ...
2. Vai trò của vốn đối với Ngân hàng thương mại.
Như mọi đơn vị kinh doanh khác, muốn hoạt động kinh doanh được tiến hành
cần phải có tư liệu sản xuất. Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền
tệ nên phải có tiền mới có thể hoạt động kinh doanh được. Hoạt động tìm kiếm tư
liệu sản xuất của ngân hàng thương mại là hoạt động huy động vốn. Như vậy, huy
động vốn đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của các ngân hàng thương
mại.
Thứ nhất, vốn là cơ sở để ngân hàng tiến hành hoạt động kinh doanh. Đối với bất
kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì phải có vốn, vì vốn phản
ánh năng lực kinh doanh. Điều này thể hiện ở vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay
của ngân hàng. Nếu vốn tự có giữ vai trò quan trọng trong việc thành lập thì sau khi
đi vào hoạt động, vốn huy động quyết định tới quy mô đầu tư, cho vay nên sẽ ảnh
hưởng tới thu nhập của ngân hàng.
Vậy, nếu ngân hàng không có vốn thì không thể tiến hành hoạt động kinh doanh.
Bởi vì, với đặc trưng của hoạt động ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện kinh
doanh mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Trên thực tế, ngân hàng nào có
khối lượng vốn lớn hơn thì ngân hàng đó có thế mạnh cạnh tranh trong kinh doanh.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Thứ hai: Vốn ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô các hoạt động của ngân hàng
thương mại.
Vốn của ngân hàng có ảnh hưởng lớn đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng, hoạt
động bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ hay trong hoạt động thanh toán của các ngân
hàng thương mại. Thông thường so với các ngân hàng nhỏ, các ngân hàng lớn có
những khoản mục về đầu tư cho vay đa dạng hơn, phạm vi và khối lượng cho vay
của các ngân hàng này cũng lớn hơn. Trong khi các ngân hàng lớn hoạt động trên
phạm vi toàn thế giới thì các ngân hàng nhỏ lại giới hạn phạm vi hoạt động chủ yếu
trong một khu vực nhỏ, trong nước. Nếu khả năng về vốn của ngân hàng đó dồi dào
thì ngân hàng có thể mở rộng được các hoạt động của mình và đáp ứng được nhu
cầu về vốn của khách hàng về cho vay, bảo lãnh, đầu tư...
Ví dụ như :
- Đầu tư cổ phần hoặc liên doanh không quá 50% vốn tự có.
- Cho vay đối tượng ưu đãi không quá 5% vốn tự có.
- Cho vay tối đa một khách hàng không quá 15% vốn tự có.
- Kinh doanh ngoại hối không quá 30 lần vốn tự có.
Bên cạnhvốn lớn hay nhỏ thì chúng ta không thể coi nhẹ vai trò của tính ổn định
của vốn. Một ngân hàng có lượng vốn ổn định thì sẽ dễ dàng trong việc hoạch định
việc cung ứng đầu tư cho vay. Ngân hàng đó có thể dự kiến tương đối chính xác
lượng vốn cung ứng, cho nên sẽ dự kiến được lợi nhuận trong tương lai khá chính
xác.
Thứ ba: Vốn giúp ngân hàng chủ động trong kinh doanh.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Ngân hàng không thể hoạt động kinh doanh tốt nếu các hoạt động nghiệp vụ hoàn
toàn phụ thuộc vào vốn đi vay: vay để cho vay, vay để đầu tư, vay để thanh toán...
Bởi vì khi đi vay vốn để thực hiện các hoạt động của mình, ngân hàng sẽ phụ thuộc
hoàn toàn vào đối tượng cho vay về thời hạn vay, số lượng vay và chi phí vay cao.
Do đó có thể ngân hàng sẽ bỏ lỡ cơ hội trong kinh doanh. Ngược lại, ngân hàng có
lượng vốn huy động dồi dào sẽ hoàn toàn chủ động trong hoạt động kinh doanh của
mình, không phụ thuộc vào ai, không bị bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Nguồn vốn huy
động lớn cũng làm tăng khả năng hoạt động của ngân hàng như chủ động đa dạng
hoá các hoạt động kinh doanh nhằm phân tán rủi ro và tăng thu nhập, đạt mục tiêu
cuối cùng của ngân hàng là an toàn và sinh lợi.
Thứ tư: Vốn giúp ngân hàng quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín
của mình trên thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động
đòi hỏi các ngân hàng phải coi uy tín của mình trên thị thường là điều quan trọng.
Uy tín đó trước hết được thể hiện ở khả năng sẵn sàng thanh toán cho khách hàng.
Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng càng lớn. Mặt khác,
uy tín của ngân hàng còn thể hiện ở khả năng cho vay và đầu tư của ngân hàng
(ngân hàng chỉ có thể cho vay những dự án lớn, thời hạn dài nếu như ngân hàng có
nguồn vốn lớn). Điều này phụ thuộc vào hoạt động huy động vốn của ngân hàng.
Với tiềm năng vốn và khả năng huy động vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động kinh
doanh với quy mô ngày càng tăng, tiến hành cạnh tranh có hiệu quả; vừa giữ chữ tín
vừa nâng cao thanh thế của ngân hàng trên thị trường.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Bên cạnh đó, một trong những công cụ lớn nhất của vốn tự có là tạo sự uy tín
trong công chúng. Một ngân hàng có trụ sở là tài sản riêng càng đồ sộ chừng nào thì
càng dễ gây tín nhiệm của dân chúng từng nấy. Vốn tự có của ngân hàng càng lớn
thì sức chịu đựng của ngân hàng càng mạnh khi mà tình hình kinh tế - xã hội và
tình hình hoạt động của ngân hàng trải qua giai đoạn khó khăn.
Thứ năm: Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Quy mô, trình độ cán bộ, công nhân viên, phương tiện kỹ thuật hiện đại của ngân
hàng là tiền đề thu hút vốn. Khả năng vốn lớn là điều kiện thuận lợi đối với ngân
hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng đối với các thành phần kinh tế cả về quy
mô tín dụng, lẫn việc chủ động về thời hạn cho vay và thậm chí trong khi quyết
định lãi suất phù hợp với khách hàng. Điều này sẽ thu hút ngày càng nhiều khách
hàng đến với mình, nghĩa là doanh số hoạt động của ngân hàng sẽ tăng lên trong
tương lai và ngân hàng có nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh. Hơn nữa, vốn của
ngân hàng lớn sẽ giúp cho ngân hàng có đủ năng lực tài chính kinh doanh đa năng
trên thị trường không chỉ cho vay mà còn đầu tư trên thị trường tiền tệ, liên doanh,
liên kết, thực hiện dịch vụ thuê mua... Và chính sự đa dạng hoá hoạt động sẽ góp
phần phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh và tạo lợi nhuận cho ngân hàng,
đặc biệt là tăng sức mạnh cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
Để ngân hàng tồn tại và phát triển, ngoài vốn chủ sở hữu (Thường chiếm tỷ trọng
rất nhỏ trong tổng nguồn vốn) các ngân hàng phải chú trọng tới việc tăng trưởng
nguồn vốn nghĩa là phải làm tốt công tác huy động vốn.
III. Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Huy động các nguồn vốn khác nhau trong xã hội để hoạt động là lẽ sống quan
trọng nhất của các Ngân hàng thương mại. Đặc biệt là các ngân hàng có quy mô
lớn. Trong vòng ba thập niên từ sau cuộc đại suy thoái 1930, hầu hết các Ngân hàng
thương mại trên thế giới đều quan tâm nhiều nhất tới việc quản lý tài sản có, hay nói
khác đi là kế hoạch và phương hướng đầu tư các nguồn đã có. Tuy nhiên, từ thập
niên 60 đến nay, khi chế độ lãi suất trả cho tiền gửi được thả nổi linh hoạt, tài sản
nợ trở nên đa dạng và sự cạnh tranh khốc liệt giữa các Ngân hàng thương mại với
nhau trong việc tìm kiếm vốn hoạt động đã dần dần hướng các ngân hàng chú ý đến
sự giao động của tài sản nợ. Vả lại từ thập niên 60 trở đi thì với sự phát triển nhanh
của các thị trường tài chính liên quốc gia, đã có rất nhiều loại tài sản có lợi tức ổn
định và thanh khoản cao được mở ra trước mắt các ngân hàng ở các nước phát triển.
Cho nên, vấn đề khó khăn không còn là đầu tư vào đâu mà là làm thế nào có đủ
vốn cho đầu tư giữa môi trường cạnh tranh đầy kịch tính trong hệ thống ngân hàng
thế giới.
1. Các hình thức huy động tiền gửi của Ngân hàng Thương mại.
Đây là hình thức huy động vốn mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh
tế, các nhân,...trong xã hội thông qua hoạt động nhận tiền gửi tiết kiệm, thanh toán
hộ, các khoản cho vay tạo tiền gửi và các nghiệp vụ kinh doanh khác.
Các hình thức nhận tiền gửi của các Ngân hàng Thương mại tuỳ thuộc vào các
tiêu thức khác nhau mà được chia thành từng loại khác nhau:
1.1. Phân loại theo tiêu thức kỳ hạn.