TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH (cid:35)(cid:9)(cid:34) PHÍ VĂN THỨC – NGUYỄN TRUNG TÍNH
TAÄP BAØI GIAÛNG XAÂY DÖÏNG ÑAÛNG
TP. HỒ CHÍ MINH - 2002
1
MỤC LỤC
Trang
Mục lục ........................................................................................................................ 2
Lời nói đầu .................................................................................................................. 3
Bài 1: Vị trí, đối tượng và phương pháp của môn xây dựng Đảng............................. 5
Bài 2: Học thuyết Mác-Lênin về chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân..... 8
Bài 3: Đặc điểm, vị trí, vai trò, chức năng của Đảng Cộng sản cầm quyền ............ 22
Bài 4: Xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng .................................... 29
Bài 5: Công tác tư tưởng của Đảng........................................................................... 40
Bài 6: Công tác lý luận của Đảng.............................................................................. 37
Bài 7: Đảng viên và công tác đảng viên.................................................................... 42
Bài 8: Nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng......................................................... 52
Bài 9: Tự phê bình và phê bình của Đảng................................................................. 59
Bài 10 : Công tác cán bộ của Đảng ........................................................................... 67
Bài 11: Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước xã hội chủ nghĩa.......................... 78
BÀI 12: Kỷ luật của Đảng và việc thi hành kỷ luật trong Đảng............................... 84
Tài liệu tham khảo chính.......................................................................................... 92
2
LỜI NÓI ĐẦU
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhân dân ta đã giành được những thắng
lợi to lớn trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đã, đang giành được những thắng lợi
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nội
dung chủ yếu trong hoạt động lãnh đạo của Đảng là đề ra đường lối chính trị đúng đắn, tổ
chức dân tộc Việt Nam thực hiện một cách thắng lợi đường lối đó. Toàn bộ sự nghiệp cách
mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay đã chứng minh rằng: Đảng là đội tiền phong của giai
cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân; là người đại biểu cho quyền lợi chân
chính của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam; Đảng được xây dựng theo nguyên
tắc tập trung dân chủ, có sự giác ngộ cao và kỷ luật thống nhất đối với mọi đảng viên; Đảng
tuân theo chủ nghĩa quốc tế vô sản. Để tiếp tục làm tròn sứ mệnh của mình, đóng vai trò hạt
nhân trong hệ thống chính trị, Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của mình. Ngày nay, để có thể “ngang tầm”
nhiệm vụ mới, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ “then
chốt”.
Xây dựng Đảng là khoa học về những quy luật của sự lãnh đạo, tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với xã hội; về những quy luật xây dựng nội bộ Đảng, nâng cao năng lực và sức
chiến đấu của Đảng. Nó nghiên cứu những quy luật và cơ chế xây dựng, hoạt động của
Đảng, làm cho Đảng ngày càng vững mạnh về phẩm chất, năng lực, trí tuệ... làm tròn vai trò
đội tiền phong chính trị của giai cấp công nhân, lãnh đạo xã hội phát triển toàn diện.
Trước kia “Xây dựng Đảng” chủ yếu được nghiên cứu, giảng dạy ở các trường Đảng,
nhằm nâng cao trình độ lãnh đạo cho cán bộ của Đảng và Nhà nước. Gần đây “Xây dựng
Đảng” được đưa vào giảng dạy ở nhiều trường thuộc hệ thống các trường đại học và cao
đẳng quốc gia, trong đó có khoa Giáo dục chính trị trường Đại học sư phạm thành phố Hồ
Chí Minh.
Để phục vụ yêu cầu giảng dạy, học tập những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quá trình vận dụng của Đảng ta về xây dựng Đảng, chúng tôi biên
soạn “Tập bài giảng xây dựng Đảng”. (Thạc sĩ Nguyễn Trung Tính biên soạn bài: “Vị trí,
đối tượng và phương pháp của bộ môn xây dựng Đảng”, Thạc sĩ Phí Văn Thức biên soạn
những bài còn lại). Tài liệu được biên soạn theo tinh thần: hệ thống, cơ bản, thiết thực, hiện
đại, với dung lượng kiến thức phù hợp, nhằm trang bị kiến thức về xây dựng Đảng, góp phần
3
nâng cao năng lực lãnh đạo, công tác, học tập cho cán bộ, sinh viên trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, do khả năng và điều kiện còn hạn chế nên tập bài giảng này có thể còn có
những hạn chế nhất định, nhất là nội dung sao cho phù hợp đối tượng tác động theo yêu cầu
của khoa Giáo dục chính trị. Rất mong được sự góp ý, xây dựng của các bạn đồng nghiệp,
các bạn sinh viên và bạn đọc quan tâm để chúng tôi tiếp tục bổ sung, hoàn thiện ở lần in sau.
Tác giả
4
Bài 1
VỊ TRÍ, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
CỦA BỘ MÔN XÂY DỰNG ĐẢNG
I. VỊ TRÍ, ĐỐI TƯỢNG CỦA MÔN XÂY DỰNG ĐẢNG.
1/ Vị trí:
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đại diện cho quyền
lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
Trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, Đảng là hạt nhân lãnh đạo chính trị, là tổ chức
cao nhất. Các tổ chức: Nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể và các tổ chức xã hội đều đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Đảng không chỉ là người định hướng chính trị mà còn là người tổ chức
hướng dẫn phối hợp sức mạnh của mọi tổ chức trong hệ thống chính trị nhằm thực hiện
nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn cụ thể.
Cách mạng là sự nghiệp quần chúng, nhưng sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng tiên phong
vẫn là nhân tố đầu tiên quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam từ trước đến nay
và từ nay về sau.
Thực tiễn và lý luận xây dựng Đảng trong hơn bảy thập kỷ qua rất phong phú, đó là một
“pho lịch sử bằng vàng”. Vì vậy việc trang bị cho cán bộ, đảng viên những tri thức về Đảng
đặc biệt về Đảng cầm quyền hiện nay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc nâng cao
chất lượng và hiệu quả lãnh đạo chính trị của Đảng.
Trong tình hình quốc tế hiện nay, khi mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
các nước Đông Âu sụp đổ, khi các thế lực thù địch đang tìm mọi thủ đoạn tấn công vào sự
lãnh đạo của Đảng ta, hòng thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” thì việc nghiên cứu môn
Xây dựng Đảng đối với cán bộ, đảng viên cần được coi trọng hơn bao giờ hết vì sự tồn tại
phát triển của Đảng liên quan đến sự mất còn của chế độ.
2/ Đối tượng:
5
Xây dựng Đảng- một bộ môn của khoa học xã hội, là một bộ phận cấu thành không thể
tách rời của học thuyết Mác-Lênin về Đảng cách mạng của giai cấp công nhân. Là một khoa
học, Xây dựng Đảng có đối tượng nghiên cứu riêng.
Xây dựng Đảng là khoa học về sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, là khoa học về
những nguyên tắc và phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và các tổ chức trong
hệ thống chính trị. Đối với việc xây dựng nội bộ Đảng thì đó là những nguyên lý về tư tưởng
và tổ chức, những nguyên tắc tiêu chuẩn sinh hoạt Đảng trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính
quyền.
Nói cách khác khoa học xây dựng Đảng nghiên cứu những quy luật, cơ chế xây dựng và
hoạt động của Đảng làm cho Đảng ngày càng vững mạnh đủ sức lãnh đạo xã hội phát triển
toàn diện.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU BỘ MÔN XÂY DỰNG ĐẢNG.
1/ Vận dụng phương pháp biện chứng duy vật:
Phương pháp biện chứng duy vật là phương pháp cơ bản của bộ môn xây dựng Đảng.
Nó cho phép:
- Nghiên cứu sâu sắc nội dung khoa học Xây dựng Đảng, tránh được chủ nghĩa chủ quan
duy ý chí, chủ nghĩa giáo điều rập khuôn máy móc, chủ nghĩa kinh nghiệm trong công tác
xây dựng Đảng.
- Nhận thức được những quy luật lịch sử về sự ra đời của Đảng và vai trò lãnh đạo của
Đảng ngày càng tăng lên trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Xác định đúng vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng với tư cách là đội tiên phong chính trị
lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị.
- Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng tăng lên với
những đòi hỏi ngày càng cao của sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Phép biện chứng mác-xít cho phép xem xét thực tiễn hoạt động của Đảng như một quá
trình không ngừng phát triển cùng với quá trình phát triển của đời sống xã hội chủ nghĩa.
2/ Phương pháp tổng kết điển hình tiên tiến:
6
Các Đảng Cộng sản chân chính đều lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động, đều dựa trên những nguyên tắc, tiêu chuẩn Lênin-nít về sinh
hoạt Đảng để xây dựng nội bộ Đảng. Nhưng sự vận dụng đòi hỏi phải sáng tạo phù hợp với
điều kiện hoàn cảnh mỗi nước.
Đảng ta lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một nước mà nền kinh tế chủ yếu là sản
xuất nhỏ, lại bị chiến tranh tàn phá lâu dài nên việc sáng tạo mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam đòi hỏi một quá trình tìm tòi thử nghiệm công phu. Tình hình đó đòi hỏi Đảng phải đặc
biệt coi trọng việc tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, coi trọng những sáng kiến từ cơ sở, coi
trọng việc tổng kết những điển hình tiên tiến để bổ sung và phát triển lý luận về xây dựng
Đảng.
Câu hỏi ôn tập:
1/ Xác định vị trí, đối tượng nghiên cứu của môn xây dựng Đảng.
2/ Trình bày những phương pháp chính trong nghiên cứu xây dựng Đảng.
7
Bài 2
HỌC THUYẾT MÁC – LÊNIN VỀ CHÍNH ĐẢNG
CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
Học thuyết Mác-Lênin về chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân là một bộ phận
cấu thành của chủ nghĩa Mác-Lênin. Học thuyết này chỉ ra quy luật về sự ra đời, những
nguyên tắc về xây dựng tư tưởng, tổ chức và họat động lãnh đạo chính trị của đảng nhằm cải
tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa, tiến lên chủ nghĩa
cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.
I. C-MÁC, PH-ĂNGGHEN VÀ V-I-LÊNIN BÀN VỀ CHÍNH ĐẢNG CỦA GIAI CẤP
CÔNG NHÂN.
C.Mác và Ph-Ăghen là những người đầu tiên nêu lên những tư tưởng cơ bản về đảng cộng
sản. Những tư tưởng đó có cơ sở từ luận điểm khoa học về vai trò lịch sử của giai cấp công
nhân - người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi
toàn thế giới. Đồng thời những tư tưởng đó được rút ra từ sự phân tích một cách biện chứng
quá trình phát triển xã hội nói chung và giai cấp công nhân nói riêng.
Hai ông chỉ ra rằng, sự đối kháng lợi ích giữa các giai cấp là nguồn gốc cơ bản tạo nên
mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp lúc đầu là đấu tranh kinh tế, sau
đó chuyển thành cuộc đấu tranh chính trị.
Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển đến một trình độ nào đó sẽ ra đời chính
đảng của mình. Chính đảng của giai cấp công nhân ra đời là một tất yếu lịch sử, là sản phẩm
tự nhiên của cuộc đấu tranh giai cấp đạt tới trình độ đòi hỏi phải có sự lãnh đạo để thống nhất
mọi hoạt động của giai cấp nhằm hướng các nỗ lực chung vào mục tiêu chống lại giai cấp tư
sản cùng với nhà nước thống trị của giai cấp đó.
Giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng nhất, tiên tiến nhất của xã hội, nhưng giai cấp
công nhân chỉ có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử thế giới của mình khi nó tự tổ chức ra
được chính đảng độc lập và nhận thức rõ mình là đảng của giai cấp tiên phong.
8
Mác và Ăngghen cho rằng: về bản chất, Đảng là của giai cấp công nhân, nhưng Đảng đại
biểu cho toàn thể nhân dân lao động, bởi vì giai cấp công nhân chỉ có thể tự giải phóng được
mình khi nó đồng thời giải phóng tất cả các tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội.
Hai ông đòi hỏi phải phân biệt Đảng – người lãnh đạo chính trị, đội tiên phong cách mạng
của giai cấp với toàn bộ giai cấp và cho rằng, Đảng phải là một đội ngũ có tổ chức chặt chẽ
theo nguyên tắc: số ít phục tùng số nhiều, cấp dưới phục tùng cấp trên. Đảng phải là một khối
thống nhất về các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Hai ông cũng chủ trương thành lập Đảng trên cơ sở của sự kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa
học với phong trào công nhân. C.Mác và Ph-Ăngghen coi việc trang bị lý luận chủ nghĩa xã
hội khoa học cho giai cấp công nhân là một yếu tố cực kỳ quan trọng nhằm nâng cao trình độ
giác ngộ giai cấp cho họ và việc giáo dục chủ nghĩa xã hội khoa học cho đội ngũ đảng viên là
nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng về tư tưởng.
Khi luận chứng về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, hai ông còn chỉ ra rằng: chủ
nghĩa quốc tế vô sản là một nguyên tắc quan trọng trong công tác xây dựng Đảng.
C.Mác và Ph-Ăngghen đã tổ chức và lãnh đạo Quốc tế I (1864 -1872) - Quốc tế đầu tiên
của giai cấp công nhân. Sau khi C.Mác qua đời, Ph-Ăngghen đã tiếp tục sự nghiệp của
C.Mác, sáng lập ra Quốc tế thứ hai (1889 -1914). Quốc tế I và Quốc tế II (trong thời kỳ Ph-
Ăngghen còn sống) đã góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh của giai cấp công nhân và
việc thành lập các chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân trên thế giới.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là thời kỳ đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của
phong trào công nhân quốc tế. Lúc này chủ nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa. Giai cấp tư sản đã trở thành lực lượng cản trở sự phát triển của xã hội. Tính chất phản
động của nó thể hiện trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời, trong quá trình phát
triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân đã lớn mạnh không ngừng cả về số lượng cũng
như về chất lượng, ý thức giác ngộ không ngừng được nâng cao. Cách mạng vô sản đã trở
thành nhiệm vụ trước mắt. Điều kiện lịch sử mới đòi hỏi giai cấp công nhân phải có đường
lối chiến lược và sách lược mới; đòi hỏi đảng của nó phải là một đội tiên phong chính trị có
khả năng lãnh đạo cuộc đấu tranh trong giai đoạn mới. Trong khi đó, các lãnh tụ của Quốc tế
II (từ sau khi Ph-Ăngghen mất), đã xét lại chủ nghĩa Mác, biến các đảng dân chủ - xã hội
thành các đảng cải lương, thực hiện chính sách đầu hàng giai cấp tư sản. Trong điều kiện đó,
V.I.Lênin đấu tranh không khoan nhượng đối với các quan điểm xét lại của Quốc tế II và
9
phát triển sáng tạo những luận điểm của C.Mác và Ph-Ăngghen về đảng, xây dựng nên học
thuyết tương đối hoàn chỉnh về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Dựa trên những quan
điểm, nguyên tắc này, Quốc tế III-Quốc tế cộng sản - đã ra đời năm 1919. Quốc tế III đã có
vai trò to lớn đối với sự thành lập của các đảng cộng sản trên thế giới.
II. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN VỀ ĐẢNG KIỂU MỚI CỦA GIAI CẤP CÔNG
NHÂN.
1/ Đảng là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp
công nhân:
Theo V.I.Lênin, đảng là đội tiên phong chính trị và là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ, có giác
ngộ nhất của giai cấp. Đảng là người đưa yếu tố tự giác vào phong trào công nhân. định
hướng chính trị, giáo dục động viên, tổ chức cho quần chúng hoạt động cách mạng. Vai trò
tiên phong của Đảng trước hết thể hiện trên lĩnh vực lý luận. V.I. Lênin chỉ rõ: “Chỉ đảng nào
được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò người chiến sĩ
tiền phong”. Đòi hỏi đầu tiên đối với đảng viên là phải giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa,
có trình độ nhất định về chủ nghĩa Mác – Lênin, nắm được đường lối, chính sách của Đảng.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng phải là trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại.
Về mặt tổ chức, vai trò tiên phong của Đảng thể hiện ở sự hoạt động gương mẫu của đảng
viên trong thực tiễn, Đảng phải được tổ chức chặt chẽ để bảo đảm là một đội ngũ thống nhất
ý chí và hành động, có kỷ luật nghiêm minh.
Vai trò tiên phong về lý luận đòi hỏi Đảng phải trung thành, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện nước ta, đề ra đường lối đúng đắn và tổ chức thực hiện thắng lợi
đường lối đó.
2/ Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động
của đảng:
10
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận khoa học về cuộc đấu tranh giai cấp của
giai cấp công nhân về cách mạng vô sản, về quy luật của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa Mác - Lênin là kết quả của sự kế thừa, phát triển những
tư tưởng tiên tiến của nhân loại, thể hiện đúng đắn lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, chỉ
cho họ phương hướng, nguyên tắc trong cuộc đấu tranh để thực hiện sứ mệnh lịch sử của
mình.
Chủ nghĩa xã hội khoa học là vũ khí tư tưởng sắc bén của giai cấp công nhân trong cuộc
đấu tranh tự giải phóng mình và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Điều lệ Đảng cộng
sản Việt Nam khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tưởng và kim chỉ nam cho hành động” của mình.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là ngọn cờ để tập hợp tất cả những người cộng sản và là cơ sở
khoa học để Đảng đề ra cương lĩnh hoạt động, chiến lược và sách lược trong tất cả các giai
đoạn cách mạng.
Là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, Đảng đã vận dụng một cách sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Đó chính là cội nguồn tạo nên mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Tuy vậy, trong giai đoạn mới Đảng cũng nhận thấy còn có
những hạn chế cả trong lĩnh vực nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan. Đại hội VI
đã nhận rõ những sai lầm, khuyết điểm đó và chủ trương đổi mới tư duy nhằm xây dựng
Đảng ngang tầm nhiệm vụ mới.
3/ Khi có chính quyền, Đảng là người lãnh đạo, đồng thời Đảng cũng là một bộ phận
của hệ thống chính trị:
Đảng là đội tiền phong giác ngộ, có tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp, do đó trong hệ
thống chính trị, chỉ có Đảng mới đủ phẩm chất chính trị và năng lực lãnh đạo xã hội.
Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định trước tiên bảo đảm cho thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thông qua Nhà nước và các đoàn thể xã hội. Đảng thực
hiện sự lãnh đạo toàn diện của mình. Coi nhẹ sự lãnh đạo của Đảng là phạm sai lầm, là làm
yếu vai trò của Nhà nước và của cả hệ thống chính trị.
11
Vai trò lãnh đạo chính trị của Đảng thể hiện ở chỗ: Đảng được vũ trang bằng lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin xuất phát từ điều kiện của mỗi nước mà đề ra đường lối chiến lược và
sách lược đúng đắn nhằm phát triển đất nước phù hợp với quy luật khách quan.
Đảng lãnh đạo mọi hoạt động của Nhà nước và các tổ chức quần chúng bằng đường lối,
chính sách của mình. Thông qua tổ chức đảng và cán bộ đảng viên hoạt động trong các cơ
quan Nhà nước, các tổ chức quần chúng, mọi định hướng chính trị, đường lối chủ trương của
Đảng được cụ thể hóa bằng các chính sách, những quy định pháp lý và tổ chức thực hiện
trong thực tiễn.
4/ Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng:
Tập trung dân chủ là nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ công tác xây dựng tổ chức và hoạt động
của đảng. Đảng là một liên minh tự nguyện của những người cùng mục tiêu lý tưởng, của
những đại biểu ưu tú nhất của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động. Nguyên tắc tập
trung dân chủ nhằm tạo nên sự thống nhất cao trong Đảng.
Tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách là một nội dung quan trọng của nguyên tắc tập trung
dân chủ. Coi nhẹ nguyên tắc này sẽ dẫn đến tình trạng tập trung quan liêu, chuyên quyền độc
đoán. Buông lỏng nguyên tắc này sẽ rơi vào tình trạng vô chính phủ, phá hoại sự thống nhất
và làm yếu sức chiến đấu của Đảng.
Nguyên tắc tập trung dân chủ được thực hiện phù hợp với điều kiện lịch sử-cụ thể trong
hoạt động của Đảng ở mỗi thời kỳ cách mạng. Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường,
Đảng ta rất coi trọng nguyên tắc này, đồng thời kiên quyết phê phán những xu hướng phủ
nhận, xa rời hoặc thực hiện không nghiêm túc nguyên tắc này.
5/ Đảng là một khối thống nhất ý chí và hành động; tự phê bình và phê bình là quy
luật phát triển của đảng:
Theo V.I.Lênin, sự thống nhất ý chí và hành động là nguồn gốc sức mạnh của Đảng, là
điều kiện đoàn kết dân tộc, đoàn kết giai cấp.
Trong điều kiện có chính quyền càng cần phải quan tâm đến sự thống nhất của Đảng. Lúc
này, nếu xảy ra chia rẽ nội bộ là điều rất nguy hiểm nhất là đối với một nước mà giai cấp
công nhân còn chiếm một tỷ lệ nhỏ bé trong dân cư và trong Đảng.
12
Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng được củng cố và phát triển trên cơ sở quan điểm,
đường lối đúng, tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và thực hiện tốt việc tự
phê bình và phê bình trong Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Đoàn kết là sức mạnh, là
then chốt của thành công.
Để bảo đảm sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng luôn được củng cố và phát triển. Đảng
cần thường xuyên nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình. Nó phải được coi là biện
pháp quan trọng để nâng cao trí tuệ và năng lực lãnh đạo, phát hiện, giải quyết kịp thời
những mâu thuẫn trong Đảng. Tự phê bình đòi hỏi phải có tính đảng, tính nguyên tắc cao;
phải bảo đảm tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, nâng cao mối quan hệ chặt chẽ
giữa Đảng với quần chúng. Tự phê bìnhø và phê bình không chỉ tiến hành theo từng đợt mà
phải được tiến hành một cách thường xuyên và là một nội dung trong sinh hoạt Đảng.
Trong điều kiện có chính quyền, Đảng phải kiên quyết ngăn chặn những hiện tượng trù
dập người phê bình, nể nang, thành tích chủ nghĩa, che dấu khuyết điểm, thậm chí đả kích lẫn
nhau dẫn đến chia rẽ, bè phái trong Đảng. Tự phê bình và phê bình chỉ có hiệu quả trên cơ sở
dân chủ, công khai, có nguyên tắc, trên tình đồng chí giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
6/ Đảng gắn bó chặt chẽ với nhân dân, kiên quyết ngăn ngừa và đấu tranh chống
bệnh quan liêu, xa rời quần chúng:
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Đảng là tổ chức tự nguyện đấu tranh vì sự
nghiệp giải phóng quần chúng, quần chúng cần Đảng với tư cách người lãnh đạo họ trong
cuộc đấu tranh đó. Nếu không có sự ủng hộ của quần chúng thì mọi đường lối không thể trở
thành hiện thực.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp hoàn toàn mới mẻ. Sự nghiệp đó chỉ có thể thành
công nếu Đảng biết tổ chức và phát huy được tính sáng tạo của quần chúng. Chủ nghĩa xã hội
là sự nghiệp sáng tạo của nhân dân.
Khi có chính quyền, Đảng có nhiều điều kiện để thực hiện mối liên hệ giữa Đảng với
quần chúng. Đồng thời, trong điều kiện mới, Đảng cũng dễ nảy sinh bệnh quan liêu, mệnh
lệnh, làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên không thường xuyên rèn luyện bị thoái hóa biến
chất.
13
7/ Đảng kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
vào Đảng, đồng thời phải kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách
và những kẻ cơ hội:
Đảng là đội tiền phong của giai cấp. Đảng chỉ làm tròn được vai trò ấy nếu Đảng bao gồm
những phần tử tiên phong. Kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động vào Đảng là biện pháp hàng đầu để tăng cường sức mạnh, cải thiện thành phần chất
lượng của Đảng, để nâng cao uy tín và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng.
Trong mỗi giai đoạn của cách mạng, do những nguyên nhân khác nhau đều không tránh
khỏi có một số người không giữ được vai trò tiên phong. Có người do nhận thức, năng lực
hoạt động thực tiễn yếu mà mất tín nhiệm. Có người do không kiên định về chính trị, thiếu ý
thức tổ chức kỷ luật, thoái hóa biến chất… trở thành kẻ quan liêu, tham nhũng. Nếu đội ngũ
của Đảng luôn trong sạch, bao gồm những chiến sĩ tiên phong, được quần chúng tin yêu thì
các nghị quyết mới có thể trở thành hiện thực. Cho nên kết nạp những người ưu tú vào Đảng,
kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những phần tử cơ hội là quy luật phát triển Đảng và nâng cao
năng lực lãnh đạo của Đảng.
8/ Bản chất quốc tế của Đảng:
Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là bản chất của Đảng cộng sản. Bản chất đó bắt
nguồn từ vai trò, sứ mệnh lịch của giai cấp công nhân.
Bản chất quốc tế của Đảng trước hết thể hiện ở chỗ: Đảng được tổ chức, hoạt động theo
những nguyên lý về Đảng kiểu mới của học thuyết Mác – Lênin; ở đường lối đối nội đối
ngoại của Đảng; ở chỗ Đảng luôn giáo dục đội ngũ Đảng viên và nhân dân lao động theo tinh
thần chủ nghĩa quốc tế vô sản của giai cấp công nhân. Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa
yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Đảng cần phải
chống chủ nghĩa nước lớn hoặc chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.
III. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA HỌC THUYẾT MÁC- LÊNIN VỀ ĐẢNG.
Thực tiễn chứng minh rằng, học thuyết Mác - Lênin về Đảng đến nay vẫn giữ nguyên giá
trị lý luận và thực tiễn. Đồng thời, học thuyết Mác - Lênin về chính đảng cách mạng của giai
cấp công nhân, đòi hỏi các đảng cách mạng chân chính phải xuất phát từ điều kiện cụ thể của
dân tộc, giai cấp, thực tiễn chính trị xã hội của đất nước mình mà vận dụng nó một cách sáng
tạo. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa qua cũng cho thấy rằng, Đảng nào vận dụng
14
một cách máy móc những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về Đảng cách mạng của giai
cấp công nhân thì sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng, đội ngũ Đảng bị chia rẽ, mất uy tín trước
quần chúng.
Đảng ta do Hồ Chủ tịch sáng lập, rèn luyện trải qua nhiều thử thách trong đấu tranh và
xây dựng đã trở thành một Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng tổ chức. Sở dĩ được như
vậy là do Đảng ta luôn trung thành với lợi ích của giai cấp và của cả dân tộc Việt Nam.
Hiện nay trên thế giới, các phần tử cơ hội, xét lại và các thế lực đế quốc, phản động đang
tìm mọi cách xuyên tạc nhằm xóa bỏ những giá trị của học thuyết Mác - Lênin về Đảng. Cho
nên nghiên cứu, học tập nghiêm túc học thuyết đó là một yêu cầu vừa cơ bản vừa cấp bách
nhằm làm cho Đảng vững mạnh, xứng đáng là đội tiền phong cách mạng, là lực lượng lãnh
đạo duy nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, vượt qua mọi khó khăn
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở nước ta.
Câu hỏi ôn tập:
1/ Trình bày những tư tưởng cơ bản của Mác, Ăngghen về chính đảng cách mạng của giai
cấp công nhân.
2/ Phân tích những nguyên tắc cơ bản về Đảng kiểu mới của V.I.Lênin.
3/ Ý nghĩa của việc nghiên cứu học thuyết Mác-Lênin về Đảng cộng sản?
15
Bài 3
ĐẶC ĐIỂM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN CẦM QUYỀN
I. KHÁI NIỆM.
Khái niệm về Đảng cầm quyền nói lên vai trò, vị trí của Đảng cộng sản, chính đảng của
giai cấp công nhân khi thiết lập được hệ thống chính trị - xã hội mới. Nói Đảng cầm quyền là
nói thời kỳ Đảng đã nắm được chính quyền và sử dụng nó như một công cụ của giai cấp công
nhân thực hiện thắng lợi mục tiêu chính trị của Đảng. Đây là thời kỳ, nói như Lênin, lý luận
đã biến thành thực tiễn, thời kỳ chủ nghĩa cộng sản không còn là cương lĩnh, không còn là
một học thuyết, không còn là một nhiệm vụ nữa, ngày nay đối với chúng ta đó là công cuộc
xây dựng cụ thể.
Lý luận về đảng cầm quyền là vấn đề mới và khó. Vì vậy chúng ta cần phải nghiên cứu
kỹ để vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin trong tình hình hiện nay – tình hình một số
đảng sau khi đã có chính quyền lại để mất chính quyền và mất vai trò lãnh đạo.
Ở nước ta, giai cấp công nhân đã giành được chính quyền từ tháng Tám năm 1945. Từ đó
Đảng cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền. Nhưng đến năm 1954. Đảng mới lãnh
đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đến năm 1975 mới lãnh đạo cách mạng xã
hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước.
Sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên-xô và Đông Âu thì vấn đề đảng cầm quyền
càng là vấn đề phải nghiên cứu kỹ hơn cả về mặt lý luận cũng như về mặt thực tiễn nhằm vận
dụng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN CẦM QUYỀN.
Có nhiều đặc điểm chi phối mọi mặt hoạt động của Đảng cộng sản cầm quyền. Dưới đây
là những đặc điểm chung nhất:
1/ Nhiệm vụ chính trị của Đảng đã thay đổi về căn bản:
16
Từ nhiệm vụ lật đổ chế độ cũ, giành lấy chính quyền là chủ yếu. chuyển sang nhiệm vụ tổ
chức, quản lý, xây dựng xã hội mới là chủ yếu. Từ chỗ chưa có chính quyền đến có chính
quyền là một bước ngoặt quan trọng của cách mạng, là sự phát triển về chất của quá trình
thực hiện nhiệm vụ lịch sử của giai cấp công nhân. Trước đây, nhiệm vụ chủ yếu là lật đổ chế
độ cũ, ngày nay là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc chế độ xã hội
chủ nghĩa.
Đảng cầm quyền là Đảng chịu trách nhiệm về vận mệnh của Tổ quốc, về hạnh phúc của
nhân dân, về sự phát triển của xã hội. Quy mô, nội dung, tính chất các nhiệm vụ hoàn toàn
khác trước. Nếu trước đây, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng là quân sự thì ngày nay là xây dựng
và phát triển kinh tế. Chính vì vậy Đảng phải tăng cường sự lãnh đạo của mình, phát huy vai
trò quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh các đoàn thể trong hệ thống chính trị, phát huy
cao độ quyền làm chủ của nhân dân… Đây là nhiệm to lớn, đầy khó khăn và phức tạp.
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng toàn diện, triệt để, sâu sắc nhất
trong tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người, cho nên cả về phương diện lý luận và
thực tiễn là một cuộc cách mạng vĩ đại, nó đòi hỏi Đảng phải ngang tầm với nhiệm vụ mới.
Nước ta xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, sản
xuất nhỏ là chủ yếu lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề, ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân
cũ và mới rất to lớn trên nhiều lĩnh vực. Vì thế, sự nghiệp đó càng khó khăn phức tạp.
2/ Có Nhà nuớc xã hội chủ nghĩa:
Sau khi giành được chính quyền, hệ thống chính trị xã hội mới được thiết lập. Đảng
thông qua Nhà nước để lãnh đạo toàn diện đối với xã hội. Đảng xây dựng nhà nước kiểu mới
- Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đó là điều kiện quan trọng bảo đảm cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội thành công.
Trong điều kiện đó sự lãnh đạo của Đảng thể hiện tập trung ở Nhà nước. Đảng phải phát
huy quyền lực của Nhà nước để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, trấn áp bọn phản
cách mạng trong nước và ngoài nước, bài trừ các tệ nạn xã hội. Trong điều kiện có chính
quyền, mọi đường lối chủ trương của Đảng phải được cụ thể hóa thành chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Uy tín và quyền lực lãnh đạo của Đảng được thực hiện thông qua hoạt động
của Nhà nước. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối Nhà nước là nhân tố quyết định hiệu
17
quả quản lý của Nhà nước. Nhà nước vững mạnh, hoạt động có hiệu quả là điều kiện hoàn
thành nhiệm vụ do Đảng đề ra, là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội.
Đảng lãnh đạo Nhà nước một cách toàn diện, quyết định các chính sách, kế hoạch chủ
yếu, quyết định những vấn đề quan trọng về tổ chức bộ máy và bố trí cán bộ, kiểm tra sự hoạt
động của bộ máy Nhà nước, vận động quần chúng tham gia xây dựng chính quyền, chấp
hành pháp luật, bài trừ tệ nạn xã hội, đưa một lực lượng cán bộ có năng lực làm lực lượng
nòng cốt ở các cơ quan Nhà nước. Đảng yêu cầu cán bộ đảng viên tôn trọng trách nhiệm,
quyền hạn của Nhà nước. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, sức mạnh của Đảng không chỉ là
sức mạnh tự thân, mà phải là sức mạnh của cả hệ thống chính trị, trong đó nòng cốt là Nhà
nước do Đảng lãnh đạo. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng bao hàm việc phát huy vai trò
hiệu lực của Nhà nước. Mọi khuynh hướng coi nhẹ sự lãnh đạo của Đảng, hoặc tuyệt đối hóa
sự lãnh đạo của Đảng đều dẫn đến sai lầm.
Trong điều kiện có chính quyền, Đảng có nhiều thuận lợi để lãnh đạo xã hội, nhưng cũng
dễ nảy sinh những tiêu cực mới, mặc dù đó không phải là bản chất. Có chức có quyền là một
điều kiện cho một bộ phận thiếu kiên định, không chịu phấn đấu, thoái hóa, biến chất, mưu
lợi riêng, hoặc quan liêu, cửa quyền, tham ô, hối lộ, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân…
Căn bệnh này gây hậu quả nghiêm trọng trong xã hội, nó làm tổn hại uy tín của Đảng, làm
giảm động lực trong xã hội.
3/ Phương pháp lãnh đạo của Đảng đã thay đổi:
V.I.Lênin đã chỉ rõ: khi tình hình đã thay đổi, và chúng ta phải giải quyết những nhiệm vụ
thuộc loại khác, thì không nên nhìn lại đằng sau và sử dụng những phương pháp của ngày
hôm qua.
Có chính quyền, nhiệm vụ trung tâm của Đảng là lãnh đạo công cuộc xây dựng đất nước,
trước hết là trên lĩnh vực kinh tế. Cuộc đấu tranh giai cấp tiến hành bằng những hình thức,
phương pháp khác, không thể dùng những phương pháp đấu tranh trong thời kỳ giành chính
quyền để giải quyết nhũng nhiệm vụ mới. Như vậy là máy móc, siêu hình. Những người như
vậy không còn là người xã hội chủ nghĩa nữa. Có chính quyền, giai cấp vô sản phải loại khỏi
“cẩm nang” của mình những hình thức, biện pháp không còn phù hợp nữa. Trong điều kiện
mới Đảng phải kết hợp giáo dục chính trị, tư tưởng với kích thích bằng lợi ích vật chất, kết
hợp lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích xã hội; kết hợp giáo dục hành chính với cưỡng
18
bức, kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng, công tác tổ chức với công tác kinh tế. Đảng phải
lãnh đạo thông qua Nhà nước, phát huy cao nhất vai trò, hiệu lực của Nhà nước.
III. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CẦM QUYỀN.
Bất cứ giai cấp nào khi lãnh đạo chính quyền cũng tổ chức ra hệ thống chính trị để thông
qua đó thực hiện sự lãnh đạo đối với xã hội. Sự ra đời của hệ thống chính trị không hề làm
giảm vai trò của Đảng, trái lại càng tăng thêm vị trí, vai trò của Đảng cộng sản trong hệ thống
chính trị ấy.
Trong thời đại ngày nay, Đảng của giai cấp công nhân thực hiện mục tiêu chính trị của
nền chuyên chính vô sản, đó là làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Để xây dựng chủ nghĩa xã
hội, giai cấp công nhân phải tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp trong điều kiện mới, trên phạm
vi toàn cầu.
Trong điều kiện đảng cầm quyền, đảng là người lãnh đạo toàn xã hội, tức là đảng không
chỉ đại diện quyền lợi cho giai cấp công nhân mà còn đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao
động và của cả dân tộc. Đó là sự thay đổi quan trọng về vị trí, vai trò của Đảng.
Đảng cộng sản Việt Nam từ trước đến nay và từ nay về sau lãnh đạo cách mạng Việt Nam
là một tất yếu khách quan. Đảng là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã thể hiện cả tính tất yếu về kinh tế và chính
trị ngay từ khi mới ra đời. Gần 70 năm qua, đường lối của Đảng luôn thể hiện ý chí và
nguyện vọng của dân tộc. Đảng với dân tộc đã gắn bó suốt chặng đường dài lịch sử vẻ vang,
không lực lượng nào có thể thay thế được.
Vai trò lãnh đạo của Đảng là vấn đề có tính quy luật, có tính nguyên tắc. Ở Liên-xô và ở
Đông Âu, các Đảng phạm sai lầm hữu khuynh, dao động, xét lại làm cho tình hình chính trị
khủng hoảng dẫn đến mất vai trò của Đảng, mất chính quyền, mất chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay các thế lực thù địch, chống chủ nghĩa xã hội dựng lên chiêu bài đa nguyên đa
đảng. Nhưng thực chất là chúng muốn phủ nhận vai trò lãnh đạo toàn xã hội của Đảng cộng
sản. Thực tế đã chứng minh rằng, không phải hễ cứ đa nguyên chính trị là đã có dân chủ
thực sự. Một Đảng lãnh đạo phải đề phòng tình trạng độc đoán chuyên quyền, nhưng không
phải cứ một Đảng lãnh đạo thì mất dân chủ.
IV. CHỨC NĂNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CẦM
QUYỀN.
19
1/ Chức năng và nội dung lãnh đạo của Đảng cộng sản cầm quyền:
Khi có chính quyền, hai đặc điểm tác động đến sự lãnh đạo của Đảng là:
+ Nhiệm vụ chính trị của Đảng đã thay đổi cơ bản, Đảng lãnh đạo toàn diện đối với xã
hội, nhưng nhiệm vụ trung tâm là xây dựng, phát triển kinh tế.
+ Có hệ thống chính trị mới.
Những đặc điểm trên đây đòi hỏi Đảng phải đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo.
Sự lãnh đạo của Đảng tác động trực tiếp đến cả hệ thống chính trị nhằm bảo đảm giữ
vững quyền lực chính trị của nhân dân. Đảng lãnh đạo thông qua Nhà nươc thì Đảng phải xây
dựng được Nhà nước trong sạch vững mạnh có năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội bằng
pháp luật.
Đảng lãnh đạo đất nước bằng cương lĩnh, đường lối chiến lược và những chính sách lớn
trên mọi lĩnh vực. Trong điều kiện Đảng cầm quyền lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội, Đảng phải bảo đảm cho dân phát huy được quyền làm chủ về kinh tế, chính trị, văn
hóa, trở thành chủ thể hành động cách mạng chứ không ỷ lại, trông chờ một cách thụ động.
Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước trong sạch. Đảng đề ra các quan điểm, nguyên tắc xây
dựng, hoạt động của Nhà nước chứ không can thiệp vào công việc tổ chức của các tổ chức
thành viên trong hệ thống chính trị.
Đảng kiểm tra việc quán triệt và thực hiện các quan điểm, nguyên tắc tư tưởng chỉ đạo
của Đảng thông qua các tổ chức của Đảng, kiểm tra đối với Nhà nước và các tổ chức khác
trong hệ thống chính trị.
Đảng đề ra các quan điểm toàn diện về công tác cán bộ như đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và
sử dụng cán bộ. Đảng chỉ trực tiếp quyết định những vấn đề về cán bộ đối với các cơ quan
của Đảng. Còn đối với các cơ quan Nhà nước, Đảng giới thiệu đảng viên và cán bộ ngoài
Đảng có đủ tiêu chuẩn để tổ chức đó lựa chọn.
2/ Phương thức lãnh đạo của Đảng cộng sản cầm quyền:
20
Với tư cách là đội tiền phong chính trị, phương thức lãnh đạo của Đảng là thuyết phục,
bằng công tác tuyên truyền, công tác tổ chức, bằng vai trò gương mẫu của đảng viên và tổ
chức Đảng, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.
Đảng không bao biện, nhưng cũng không buông lỏng sự lãnh đạo của mình đối với Nhà
nước. Hiện nay tình hình thế giới và trong nước luôn biến chuyển, Đảng cần phải thường
xuyên làm giàu trí tuệ của mình bằng cách tìm hiểu sâu sắc về đất nước, xã hội, con người
Việt Nam, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của dân tộc và của nhân loại để đề ra đường lối đúng đắn,
phản ánh lợi ích, nguyện vọng khả năng của quần chúng.
Xuất phát từ đòi hỏi ngày càng cao của nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ mới, Đảng phải
thường xuyên coi trọng việc đổi mới phương thức lãnh đạo, củng cố và kiện toàn bộ máy, giữ
vững nguyên tắc lãnh đạo và kỷ luật của Đảng. Có như vậy Đảng mới tạo ra một chất lượng
mới trong hoạt động lãnh đạo, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc.
Câu hỏi ôn tập:
1/ Trình bày những đặc điểm của Đảng cộng sản cầm quyền?
2/ Phân tích vị trí, vai trò của Đảng cộng sản cầm quyền?
3/ Phân tích nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng cộng sản trong điều kiện có chính
quyền?
21
Bài 4
XÂY DỰNG VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng toàn diện, triệt để nhất trong lịch sử phát
triển của nhân loại. Nó đòi hỏi tính tự giác cách mạng rất cao. Việc xây dựng được những
nghị quyết mang tính khoa học cao là nhân tố bảo đảm tính hiệu quả của quá trình cải tạo tự
nhiên và cải tạo xã hội theo hướng tiến bộ.
I. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN ĐỂ XÂY DỰNG VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC
NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG.
Xây dựng nghị quyết là thuộc về chức năng lãnh đạo của Đảng. Bởi vì, trong quá trình
lãnh đạo nhằm cải biến xã hội luôn phát sinh những vấn đề cần giải quyết. Các nghị quyết
của Đảng là cơ sở của các quyết định, chủ trương của chính quyền các cấp. Nó tác động tới
tương lai của đại bộ phận quần chúng nhân dân. Muốn các nghị quyết của Đảng bảo đảm tính
khoa học chúng ta cần phải:
- Dựa vào phép duy vật biện chứng để xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết. Bởi vì:
+ Một là: nó giúp chúng ta phát hiện ra những mâu thuẫn, những động lực của sự phát
triển xã hội.
+ Hai là: phép biện chứng duy vật giúp giai cấp vô sản giải quyết một cách khoa học,
mối quan hệ giữa mục tiêu và phương pháp. Trong khi kiên trì mục tiêu mà nghị quyết đề ra,
lại có thể sử dụng các phương pháp một cách linh hoạt tùy theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
+ Ba là: triết học duy vật biện chứng mang lại những nguyên tắc phương pháp luận quý
báu cho hoạt động thực tiễn, nhằm cách mạng hóa hiện thực. Trong đó ý nghĩa quan trọng
trong việc tổ chức và thực hiện nghị quyết của Đảng là phép biện chứng giữa khách quan và
chủ quan.
Nghị quyết và cách tổ chức thực hiện phải xuất phát từ thực tế khách quan. Để thực hiện,
Đảng phải có tư duy lý luận cao, phải nắm được bản chất cách mạng và khoa học của chủ
22
nghĩa Mác-Lênin. Như vậy Đảng mới có phương pháp khoa học cho phép nắm được bản chất
của sự vật, phát hiện quy luật bên trong của nó và coi đó là căn cứ để xây dựng và tổ chức
thực hiện nghị quyết.
- Để xây dựng và tổ chức thực hiện thắng lợi nghị quyết Đảng cần quán triệt quan điểm
chân lý là cụ thể:
Mọi nghị quyết của Đảng đều giải quyết những vấn đề cụ thể do thực tiễn đặt ra. Những
vấn đề đó khác nhau về cấp độ bao quát, về mục tiêu, phạm vi tác động, về ý nghĩa của nó
đối với xã hội, về điều kiện nảy sinh, về thời điểm giải quyết. Chính tính đa dạng của vấn đề
quyết định tính đa dạng của nghị quyết và cách tổ chức thực hiện. Tính cụ thể của nghị quyết,
phương thức tổ chức thực hiện nghị quyết chỉ đạt được khi chủ thể cách mạng có tinh thần
sáng tạo.
Tính sáng tạo trong việc xây dựng tổ chức thực hiện nghị quyết thể hiện ở chỗ:
+ Trên cơ sở phân tích tình hình cụ thể của mỗi ngành, mỗi địa phương, mỗi cơ sở trong
những không gian, thời gian nhất định mà đề ra nghị quyết.
+ Trong nghị quyết phải bảo đảm sự chi phối của những vấn đề có tính quy luật chung, và
thể hiện tính đặc thù của ngành, của địa phương mình.
- Để xây dựng, thực hiện thắng lợi các nghị quyết, chúng ta còn phải nắm vững phép biện
chứng giữa cái chung và cái riêng.
Đối với sự nghiệp cách mạng ở mỗi nước, cái chung là quy luật khách quan của sự phát
triển xã hội, những quy luật phổ biến của quá trình hình thành và hoàn thiện chủ nghĩa xã
hội. Xây dựng nghị quyết cũng như việc hiện thực hóa nó đều chỉ có thể được thực hiện
thông qua hoạt động cụ thể của ngành, địa phương và ở cơ sở.
- Trong khi xây dựng, tổ chức thực hiện nghị quyết, cần xuất phát từ mâu thuẫn bên trong
của ngành, của địa phương và của cơ sở.
Ở đây việc phát hiện ra những mâu thuẫn chủ yếu trong từng thời kỳ, ở từng ngành, từng
địa phương có ý nghĩa quyết định. Để phát hiện ra những mâu thuẫn như vậy đòi hỏi phải
nắm vững tình hình thực tế của sự vật, có tư duy khoa học cao, có kinh nghiệm thực tiễn
phong phú.
23
II. NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA NGHỊ QUYẾT VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
NGHỊ QUYẾT.
1. Khái niệm nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết:
Sự vận động của quá trình cách mạng, tính tích cực của nhân dân chỉ có được dưới sự chỉ
đạo của đường lối, nghị quyết phản ánh đúng những điều kiện khách quan, quy luật khách
quan của sự phát triển xã hội. Các nghị quyết là sự cụ thể hóa đường lối của Đảng.
Đường lối chiến lược cách mạng là khoa học và nghệ thuật lãnh đạo chính trị của giai cấp
công nhân trong cuộc đấu tranh nhằm thực hiện cải biến bằng cách mạng đối với xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Đường lối xác định
những mục tiêu, những phương hướng chủ yếu trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân,
của chính Đảng cộng sản và của các lực lượng cách mạng trong một giai đoạn lịch sử tương
đối dài. Nhưng dù độ dài, ngắn khác nhau, mọi đường lối của Đảng đều đề cập tới mục tiêu,
nhiệm vụ, có tính chiến lược cho cách mạng, nó bao quát toàn bộ cuộc đấu tranh nó có ý
nghĩa trong phạm vi cả nước.
Nghị quyết là sự cụ thể hoá đường lối của Đảng thành những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể
cho một lĩnh vực của đời sống xã hội, cho một địa bàn khu vực của đất nước, cơ sở.
Tổ chức thực hiện nghị quyết chủ yếu liên quan đến hoạt động thực tiễn. Mục tiêu là biến
những vấn đề được đề cập trong đường lối, nghị quyết thành những biến đổi trong hiện thực
xã hội. Đối tượng nghiên cứu chính của tổ chức thực hiện nghị quyết là đường lối, nghị quyết
của Đảng.
Tổ chức thực hiện đường lối, nghị quyết phải được xem xét trước hết từ góc độ hoạt động
vật chất mang tính lịch sử cụ thể của con người nhằm cải biến tự nhiên, xã hội để hiện thực
hóa các mục tiêu đề ra trong đường lối, nghị quyết.
2/ Yêu cầu cơ bản của nghị quyết:
Yêu cầu cơ bản của nghị quyết là phát hiện, giải quyết đúng đắn và kịp thời, có hiệu quả
những vấn đề do thực tiễn đặt ra nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã hội theo quy luật khách
quan của nó.
Nghị quyết không chỉ có mục đích giải thích đúng thế giới như nó đang tồn tại mà quan
trọng ở vai trò cách mạng hóa hiện thực của nó để xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản.
24
Việc nắm được quy luật khách quan, xu hướng vận động của xã hội là cơ sở để có dự
đoán khoa học một nhân tố nội tại của nghị quyết. Dự kiến một cách khoa học giúp Đảng có
khả năng định hướng đúng đắn trong tình phức tạp nhất, đưa ra được những quyết định sách
lược cần thiết, tìm ra những hình thức, phương pháp thích hợp với quá trình diễn biến, hành
động một cách tin tưởng vững chắc. Một nghị quyết có khả năng thực hiện hay không còn
tùy thuộc vào sự hưởng ứng của nhân dân khi tiếp nhận nghị quyết. Muốn vậy phải có sự
thống nhất giữa lý tưởng và lợi ích. Thực tế chứng minh rằng: nghị quyết dù có hay đến mấy
đi chăng nữa mà không thể hiện được lợi ích chính đáng của nhân dân cũng sẽ không giành
được sự ủng hộ của họ. Nghị quyết phải thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
Nhưng với tư cách là người lãnh đạo, Đảng không thể hạ xuống mức giác ngộ trung bình của
quần chúng. Mọi nghị quyết phải trở thành công cụ nâng cao trình độ của nhân dân lên ngang
tầm đội tiên phong của cách mạng.
Như vậy, nét đặc trưng của nghị quyết là nó bắt nguồn từ thực tiễn cuộc sống, phản ánh
đúng hiện thực khách quan, đáp ứng đúng lợi ích chính đáng của nhân dân ở tầm tiên tiến của
nó.
3/ Yêu cầu cơ bản trong việc tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng:
Trong việc tổ chức thực hiện phải thống nhất giữa nghị quyết và thực tiễn, lời nói và việc
làm. Thực tiễn chứng minh rằng, nghị quyết đúng đắn là cơ sở để dẫn đến thành công. Nhưng
tưởng rằng như vậy là tất cả thì thật là một sai lầm nghiêm trọng.
Trong tổ chức thực hiện, một yêu cầu quan trọng là phải kiên trì, phải nhạy bén, sáng suốt
trong việc sử dụng những biện pháp, những hình thức thích hợp để động viên tối đa mọi
nguồn lực nhằm thực hiện sáng tạo nghị quyết đó.
Tính khoa học của việc tổ chức thực hiện nghị quyết đòi hỏi phải có sự phân công hợp lý,
xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm giữa các cấp khác nhau. Hiệu quả tổ chức thực hiện còn
phụ thuộc một cách quyết định vào cuộc đấu tranh chống bệnh hình thức, quan liêu, bệnh phô
trương thành tích. Tổ chức thực hiện một cách tích cực cũng có tác động trở lại đối với nghị
quyết. Vì vậy, quan hệ giữa tổ chức thực hiện với nghị quyết được coi là mối quan hệ giữa lý
luận với thực tiễn. Thông qua tổ chức thực hiện, các cấp ủy Đảng phát hiện những điểm chưa
hoàn chỉnh của nghị quyết, từ đó bổ sung, hoàn thiện nghị quyết. Việc tổng kết kinh nghiệm
trong tổ chức thực hiện có vai trò rất quan trọng. Nó cung cấp cơ sở để xây dựng nghị quyết
và nâng cao chất lượng cho công tác tổ chức thực hiện nghị quyết.
25
Nhìn chung các nghị quyết của Đảng đều là sản phẩm tổng kết kinh nghiệm. Đó là kinh
nghiệm của quốc tế, của ngành, của địa phương. Hơn nữa, nó còn là sự tổng kết những kinh
nghiệm thành công hay không thành công trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện nghị
quyết.
4/ Những nhân tố cơ bản bảo đảm tính đúng đắn của các nghị quyết và hiệu quả tổ
chức thực hiện nghị quyết:
Muốn có nghị quyết đúng, phải nắm vững các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin, nắm vững quy luật phát triển khách quan của sự vật, hiểu tình hình thế giới, trong
nước, nắm vững nguyện vọng, lợi ích, khả năng, trình độ của quần chúng.
Muốn tổ chức thực hiện thắng lợi nghị quyết, còn phải bằng sự gương mẫu của đảng viên;
bằng thuyết phục mà thu hút quần chúng; phải có đội ngũ có năng lực, với một bộ máy điều
hành có hiệu quả.
II. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT CỦA
ĐẢNG.
1/ Quá trình xây dựng nghị quyết của Đảng:
Để ra được một nghị quyết, chúng ta nhất thiết phải trải qua quá trình thu thập thông tin.
Mỗi sự vật, mỗi quá trình đều có nhiều thuộc tính, nhiều mối liên hệ. Cho nên yêu cầu khách
quan là thông tin về đối tượng tác động phải đa dạng, phong phú và có tính chỉnh thể. Nếu
nhận thức một cách phiến diện, nhìn sự vật một cách cô lập sẽ dẫn đến sai lầm trong việc xây
dựng nghị quyết.
Coi trọng tổng kết thực tiễn, rút ra những kinh nghiệm thực tiễn là tạo điều kiện bảo đảm
tính cụ thể, tính hiện thực, tính khả thi của nghị quyết.
Muốn ra được nghị quyết đúng đắn, chúng ta phải nắm được toàn bộ tình hình từ đó phát
hiện ra khâu có vấn đề để giải quyết. Do vậy, khi thu thập thông tin chúng ta cần nắm thông
tin toàn diện nhằm phát hiện vấn đề, sau đó chọn ra thông tin trọng tâm để hình thành
phương hướng giải quyết vấn đề đó. Muốn có thông tin chính xác, chúng ta phải có thái độ
nhìn thẳng vào sự thật. Đồng thời chúng ta cần khắc phục thái độ quan liêu, xa rời thực tế,
khắc phục tình trạng định hướng trước khi thu thập thông tin. Việc xử lý thông tin sẽ cho ra
đời những phương án để giải quyết những vấn đề đã được xác định. Việc lựa chọn một
phương án tối ưu đòi hỏi tập trung trí tuệ của nhiều cơ quan, nhiều chuyên gia. Để khai thác 26
trí tuệ của đảng viên, của nhân dân, cấp ra nghị quyết cần tổ chức lấy ý kiến, tiếp thu ý kiến
đúng để bổ sung, hoàn thiện nghị quyết.
2/ Quá trình tổ chức thực hiện nghị quyết:
Mọi nghị quyết đều mới chỉ nêu ra được những mục tiêu cơ bản, những phương thức chủ
yếu để cải tạo hiện thực. Để thực hiện được nghị quyết trong thực tế, khâu đầu tiên là phải cụ
thể hóa nghị quyết thành những chủ trương, biện pháp, chỉ tiêu, bước đi cụ thể phù hợp với
nghành, địa phương và cơ sở.
Để cụ thể hóa một cách đúng đắn, cần nắm vững nội dung cơ bản của nghị quyết hiểu đặc
thù của ngành, hiểu năng lực của cán bộ và của quần chúng. Mọi nghị quyết cuả Đảng được
thực hiện không chỉ bằng nỗ lực của đảng viên mà trước hết bằng sức mạnh của toàn dân.
Muốn vậy, truyền đạt nghị quyết trong nhân dân bằng sự gương mẫu của đảng viên và tổ
chức Đảng là rất quan trọng.
Trong thời gian qua, cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đã
thu được những thắng lợi to lớn: đánh Pháp, đuổi Mỹ, thực hiện hòa bình thống nhất Tổ
quốc, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta cũng phạm những sai lầm, khuyết điểm trong chỉ đạo chiến
lược, về xác định bước đi trong một số lĩnh vực. Những sai lầm đó là do chúng ta chưa nắm
vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ
thể của cách mạng nước ta; do chúng ta không xuất phát từ những quy luật khách quan của
sự phát triển xã hội, khiến một số chủ trương, chính sách trở nên duy ý chí, không thực hiện
được. Từ thực tiễn thành công và chưa thành công của sự nghiệp cách mạng thế giới và cách
mạng nước ta, Đảng ta đã khẳng định rằng: để có nghị quyết đúng đắn phải có tư duy độc
lập, sáng tạo, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên trì vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp điều kiện hoàn cảnh cụ thể của nước ta, nhất
là trong tình hình hiện nay. Nghị quyết phải đáp ứng nhu cầu, lợi ích chính đáng của nhân
dân, phải xuất phát từ thực tế khách quan, phù hợp với thời đại mới. Đảng cần phát huy đầy
đủ quyền làm chủ của nhân dân, quyền đó vừa là mục tiêu vừa là động lực để thực hiện các
chủ trương đường lối của Đảng.
27
Câu hỏi ôn tập:
1/ Cơ sở phương pháp luận để xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết?
2/ Trình bày những yêu cầu và việc tổ chức thực hiện nghị quyết?
3/ Làm rõ quá trình xây dựng nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng?
28
Bài 5
CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG
I. KHÁI NIỆM, NHIỆM VỤ VÀ KẾT CẤU CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG.
1/ Khái niệm, nhiệm vụ:
- Đối tượng của công tác tư tưởng là ý thức xã hội, ý thức cá nhân với những biểu hiện và
diễn biến phức tạp, phong phú.
- Công tác tư tưởng của Đảng là sự tác động có định hướng của Đảng lên trạng thái và
quá trình vận động của ý thức xã hội theo các quy luật riêng của nó.
Mục đích của công tác tư tưởng là: định hướng nhận thức, giải quyết những mâu thuẫn
trong tư tưởng, phát triển tiềm năng sáng tạo của lĩnh vực tinh thần, góp phần hình thành xã
hội mới, con người mới.
Đối với nội bộ Đảng, công tác tư tưởng là hoạt động xây dựng Đảng về trí tuệ, tư tưởng
chính trị bảo đảm cho Đảng luôn xứng đáng là đội tiên phong.
Khái niệm công tác tư tưởng còn được hiểu như là phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với xã hội.
Làm công tác tư tưởng là đem một lượng thông tin có nội dung tư tưởng tác động lên đối
tượng nhằm đạt được mục tiêu nhất định về nhận thức, ý thức hành vi.
- Nhiệm vụ của công tác tư tưởng là:
+ Làm cho thế giới quan Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh thấm nhuần trong
Đảng, giữ vị trí lãnh đạo của Đảng trong đời sống tinh thần của xã hội.
+ Nâng cao ý chí phấn đấu, xây dựng niềm tin vững chắc vào con đường xã hội chủ nghĩa
mà Đảng và dân tộc đã lựa chọn.
+ Đấu tranh không khoan nhượng với các luận điệu xuyên tạc đường lối chính sách của
Đảng, xây dựng phương pháp tư duy khoa học, chống chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh
nghiệm và chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc, chống nguy cơ diễn biến hòa bình.
29
Khắc phục những biểu hiện bi quan, dao động, giảm sút ý chí phấn đấu, bảo thủ trì trệ,
chủ quan nóng vội.
Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ.
Do ý thức xã hội là một hệ thống nhiều hình thái khác nhau, cho nên công tác tư tưởng
cần được tiến hành một cách đồng bộ, có hệ thống như:
Giáo dục chính trị, giáo dục những hiểu biết về kinh tế, hình thành văn hóa chính trị, tư
duy chính trị.
Giáo dục lao động, hiểu biết về kinh tế, hình thành văn hóa kinh tế, tư duy kinh tế.
Giáo dục đạo đức, hình thành văn hóa đạo đức, hành vi đạo đức.
Giáo dục luật pháp, hình thành văn hóa luật pháp, ý thức sống và làm việc theo pháp luật
của Nhà nước.
Giáo dục sinh thái, môi trường, hình thành ý thức bảo vệ môi trường sinh thái, môi
trường.
2/ Kết cấu của công tác tư tưởng:
a) Phân tích theo các nhiệm vụ chủ yếu và thường xuyên của công tác tư tưởng, có các
nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Đảng phải phát triển lý luận gắn liền với thực tiễn công tác. Đây là nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu.
- Truyền bá lý luận, nâng cao kiến thức chính trị, xây dựng tư duy khoa học.
- Tuyên truyền, cổ vũ thực hiện các nhiệm vụ trước mắt.
Giáo dục phẩm chất, đạo đức chính trị, xây dựng đội ngũ đảng viên trong sạch, gương
mẫu, được dân tin yêu, chống sự tha hóa về phẩm chất chính trị, xa rời quần chúng, tham
nhũng, chống hồi phục các hủ tục, mê tín dị đoan.
Dự báo xu hướng phát triển của tình hình, diễn biến tư tưởng và các vấn đề về tư tưởng sẽ
nảy sinh, kịp thời nắm bắt, giải đáp những vấn đề mới xuất hiện trên thế giới và trong nước.
Trong những thời điểm có tính chất bước ngoặt, nhiệm vụ này của Đảng hết sức quan trọng.
30
b) Phân tích công tác tư tưởng theo ngành (hay theo lĩnh vực hoạt động).
Tiến hành công tác tư tưởng, khi giải quyết những vấn đề chung, chúng ta cần phải chú ý
đặc trưng, yêu cầu của công việc và con người ở mỗi ngành khác nhau.
Hoạt động của từng lĩnh vực như: giáo dục, văn hóa, hành chính, quốc phòng… có sự
khác nhau. Cho nên, công tác tư tưởng của Đảng phải phù hợp với từng ngành, từng địa
phương, phải tinh tế, đa dạng, không được chung chung.
c) Phân tích công tác tư tưởng theo cấp hành chính.
Cấp Trung ương làm công tác tư tưởng ở tầm vĩ mô, mang tính chiến lược, trên những
vấn đề lớn.
Địa phương giải quyết những vấn đề chung và riêng nảy sinh từ địa phương mình.
Cấp cơ sở, công tác tư tưởng trực tiếp tác động đến từng người, từng việc, thậm chí đến
những chuyện đời thường, những vui buồn xảy ra hàng ngày. Như vậy, càng xuống cấp dưới,
công tác tư tưởng đòi hỏi càng cụ thể, sát thực tế, thiết thực. Nếu máy móc, rập khuôn, công
tác tư tưởng sẽ không có hiệu quả cao.
II. MỘT SỐ NGUYÊN LÝ CỦA CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG.
1/ Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, nhưng ý thức xã hội có vai trò độc lập
tương đối trong sự phát triển cuả nó:
Phải xuất phát từ lập trường duy vật khoa học làm cơ sở cho công tác tư tưởng. Như vậy
Đảng sẽ ngăn ngừa được bệnh chủ quan duy ý chí, áp đặt, máy móc.
Trong công tác tư tưởng chúng ta cần phát huy tính độc lập tương đối của ý thức, vai trò
năng động đi trước của tư tưởng. Làm được như vậy chúng ta sẽ ngăn ngừa được bệnh máy
móc, duy kinh tế, hoặc thụ động, thực dụng.
2/ Tư tưởng con người gắn liền với lợi ích của họ:
Tư tưởng, ý thức của cá nhân thường bắt nguồn trực tiếp từ nhu cầu và lợi ích thiết thực
của họ. Cho nên muốn hiểu đúng tâm tư, nguyện vọng của con người chúng ta phải tìm hiểu
kỹ lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của con người. Các Mác đã từng khẳng định: tất cả
những gì mà con người đấu tranh để giành lấy đều dính liền với lợi ích của họ. Hồ Chí Minh
31
cũng nói: dân đói, rét, dốt, bệnh tật thì chính sách của ta dù có hay đến mấy cũng không được
thực hiện.
3/ Nhận thức của con người vốn có tính biện chứng:
Quá trình tư tưởng diễn ra trong mâu thuẫn và thông qua mâu thuẫn. Đây là đặc tính cơ
bản tạo ra sự khác nhau trong đời sống tinh thần của mỗi người và mỗi cộng đồng. Cho nên,
công tác tư tưởng đòi hỏi phải phân tích cụ thể những tâm trạng cụ thể.
4/ Con người là một thực thể sinh vật, tâm lý - xã hội:
Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội. Mặt tâm lý của con người tạo ra đặc
điểm riêng trong đời sống tinh thần của họ. Cho nên, nếu chúng ta đơn giản trong công tác tư
tưởng sẽ không phù hợp với tính đa dạng của nhân cách con người.
Trong công tác tư tưởng, chúng ta nên coi trọng việc tiếp xúc với từng cá nhân, không chỉ
coi trọng mặt chính trị mà coi trọng cả đời thường, dựa trên điều tra xã hội học mà thăm dò
dư luận để xác định nhiệm vụ của công tác tư tưởng.
III. NHỮNG NGUYÊN TẮC CỦA CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG.
1/ Nguyên tắc tính Đảng trong công tác tư tưởng:
Nguyên tắc này đòi hỏi, khi tiến hành công tác tư tưởng, chúng ta phải:
- Đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, quán triệt quan điểm, đường lối của
Đảng, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng lý luận và phương
pháp tiến hành.
- Bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin là một yêu cầu căn bản. Người làm công tác tư tưởng
phải kiên định lập trường, nêu cao tính chiến đấu trước sự tấn công của địch vào nền tảng tư
tưởng của chúng ta, phải đổi mới tư duy và cách thức tiến hành công tác tư tưởng.
2/ Nguyên tắc tính khoa học.
Nguyên tắc này đòi hỏi: nội dung công tác tư tưởng phải chính xác; phân tích các hiện
tượng một cách khách quan, toàn diện có quan điểm lịch sử cụ thể trong sự phát triển và biến
đổi không ngừng.
32
Yêu cầu đối tượng của công tác tư tưởng phát huy trí tuệ độc lập, tin theo một cách có căn
cứ. Đồng thời người làm công tác tư tưởng phải biết lấy thuyết phục là chính, chống áp đặt
và biết lắng nghe các ý kiến khác nhau.
3/ Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, lời nói đi đôi với việc làm .
Công tác tư tưởng phải biết hướng vào nhiệm vụ cấp bách về kinh tế, xã hội và những vấn
đề tư tưởng đang đặt ra, giải đáp những vướng mắc trong đời sống hiện tại.
Nội dung công tác tư tưởng phải sát với từng đối tượng, hợp với hoàn cảnh thực tế, nhạy
bén với cái mới, coi trọng tổng kết thực tiễn.
IV. MỘT SỐ YÊU CẦU ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG ĐIỀU KIỆN
HIỆN NAY.
- Trong khi phê phán cái cũ, sửa chữa sai lầm và xác lập cái mới, cần tránh những khuynh
hướng tư tưởng cực đoan (hoặc tả khuynh hoặc hữu khuynh).
- Chống xu hướng muốn lái công cuộc đổi mới đi chệch hướng, chống các lực lượng gây
rối và phá hoại quá trình đổi mới. Trước mắt chống bốn nguy cơ: tụt hậu xa hơn so với các
nước trong khu vực, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, tham nhũng, quan liêu, diễn biến hòa
bình.
- Phải coi trọng xây dựng lập trường, quan điểm, kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa;
vạch rõ tính vô căn cứ của những ý kiến, những xu hướng muốn lái đất nước đi sang quỹ đạo
khác.
- Đổi mới tất yếu phải qua một thời kỳ quá độ, đan xen giữa cái cũ và cái mới, giữa ổn
định, đổi mới và phát triển. Ngay trong mỗi con người, chúng ta cần chú ý trạng thái đan xen
giữa cái cũ và cái mới, giữa cái tiến bộ và cái tiêu cực, lạc hậu… để đấu tranh và tiến bộ
không ngừng.
- Đổi mới tất nhiên sẽ gây ra một sự xáo trộn nhất định, phá vỡ trạng thái ổn định cũ để
xác lập trạng thái ổn định mới, tạo điều kiện thuận lợi để tiếp tục phát triển.
Mỗi chủ trương biện pháp mới ngoài việc mang lại các tác động tích cực cũng còn có thể
gây ra những ảnh hưởng tiêu cực nhất định. Ví dụ, chuyển sang cơ chế thị trường là cần thiết,
tất yếu để phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh
33
nhưng lại gây ra hiện tượng phân hóa giàu nghèo, thất nghiệp, kinh doanh trái phép (lậu thuế,
trốn thuế), mất cân đối giữa đời sống vật chất và tinh thần…
Hơn nữa, bản thân công cuộc đổi mới (cả về lý luận và thực tiễn) cũng có những vấn đề
còn chưa được làm sáng tỏ một cách kịp thời. Có những vấn đề mới phát sinh vừa cơ bản vừa
cấp bách, nhưng chưa thể làm sáng tỏ ngay được. Điều đó không chỉ là khó khăn của công
tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, mà còn gây khó khăn cho cả công tác tuyên truyền
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Người làm công tác tư tưởng cần
nắm những đặc điểm này.
V. SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH CHẤT LƯỢNG VÀ
HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG.
Trong công tác tư tưởng, nhất là đối với yêu cầu của tình hình hiện nay, các cấp ủy Đảng
cần quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng, định hướng tốt việc hoạt động tư tưởng bao
gồm cả công tác nghiên cứu lý luận và công tác tuyên truyền; phải phối hợp hoạt động giữa
các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể.
Cần đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tư tưởng.
Cung cấp thông tin, xây dựng bầu không khí xã hội dân chủ, tự do tư tưởng, tạo điều kiện
về phương tiện vật chất, kỹ thuật cho công tác tư tưởng.
VI. CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA CHI BỘ HIỆN NAY.
1/ Nhiệm vụ chung:
Phát triển lý luận gắn với tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ và hoàn chỉnh đường lối đổi
mới. Đây là nhiệm vụ hàng đầu, bảo đảm tính tiên phong và năng lực lãnh đạo chính trị của
Đảng.
Truyền bá lý luận, đường lối, nâng cao kiến thức chính trị xây dựng phương pháp tư duy
khoa học, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách
của Đảng thấm nhuần trong Đảng, giữ vị trí chi phối trong đời sống tinh thần của xã hội.
Tuyên truyền, cổ động mọi người thực hiện các nhiệm vụ, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Nội dung tuyên truyền, cổ động bao gồm: chính trị, kinh tế, pháp luật,
văn hóa, quốc phòng, đối ngoại…
34
Giáo dục đạo đức, phẩm chất chính trị, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên gương
mẫu.
Dự báo xu hướng phát triển của tình hình diễn biến tư tưởng và các vấn đề lý luận mới
nảy sinh.
2/ Nắm vững yêu cầu xây dựng Đảng về chính trị và tư tưởng trong điều kiện mới:
Nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ và năng lực lãnh đạo của Đảng. Trên cơ sở tổng kết
thực tiễn, đẩy mạnh công tác lý luận, tiếp tục cụ thể hóa và phát triển các quan điểm, đường
lối của các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến nay, từng bước xác định rõ thêm con
đường và giải pháp đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Xây dựng cho cán bộ, đảng viên
niềm tin và ý chí kiên định lý tưởng cách mạng, kiên định con đường cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
Xây dựng đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh của cán bộ, đảng viên trong điều
kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Chi bộ cần thực hiện nghiêm túc chế độ kiểm tra và quản lý đảng viên, khắc phục hiện
tượng hữu khuynh; nêu gương cán bộ quản lý giỏi, gương mẫu, biết tổ chức quần chúng,
bằng lao động sáng tạo của mình, biết tính toán và làm đúng pháp luật, thực hiện xóa đói
giảm nghèo, làm giàu cho đất nước, cho bản thân.
Theo đường lối đổi mới, chi bộ xem xét vấn đề đạo đức và lối sống của đảng viên theo
yêu cầu làm giàu cho đất nước, làm giàu cho bản thân, thống nhất giữa lợi ích bộ phận và lợi
ích toàn cục, giữa quyền công dân với tư cách đảng viên.
Củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với
nhân dân, mở rộng khối đoàn kết toàn dân, giữ vững kỷ cương, pháp luật. Thấm nhuần quan
điểm lấy đại nghĩa dân tộc làm điểm tương đồng. Bảo đảm chi bộ thực sự là nơi giáo dục, rèn
luyện, kiểm tra đảng viên, sinh hoạt dân chủ, khuyến khích tranh luận.
Nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, nắm bắt thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, vượt
qua thử thách, phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Tính kiên định chính trị, lòng trung thành với lý tưởng của Đảng, với lợi ích của nhân dân
lao động, của dân tộc, là phẩm chất hàng đầu của đảng viên.
35
3/ Chi bộ lãnh đạo công tác chính trị, tư tưởng trong đơn vị, ngành nghề, hoặc trên
địa bàn dân cư:
Chi bộ nắm tâm trạng quần chúng, dự báo khả năng phát triển của tình hình kinh tế – xã
hội và tình hình chính trị, tư tưởng; lãnh đạo việc quán triệt đường lối, chính sách đến các đối
tượng khác nhau thông qua các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở.
Chi bộ cần coi trọng thông tin và công tác tuyên truyền miệng đến tất cả các loại đối
tượng quần chúng bằng những hình thức thích hợp.
Câu hỏi ôn tập:
1/ Trình bày khái niệm, nhiệm vụ của công tác tư tưởng.
2/ Trình bày những nguyên lý, nguyên tắc của công tác tư tưởng.
3/ Trình bày nội dung công tác tư tưởng của chi bộ trong tình hình hiện nay.
36
Bài 6
CÔNG TÁC LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG
I. PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN – TIỀN ĐỀ NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ TRÍ TUỆ, NĂNG
LỰC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
V.I.Lênin đã từng nói: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không có phong trào cách
mạng”, “Chỉ có Đảng nào có lý luận tiền phong hướng dẫn mới có vai trò chiến sĩ tiên
phong” (V.Lênin: Toàn tập, tập 6, Nhà xuất bản Tiến Bộ, Mátxcơva, 1975, tr 30,35).
Với tư cách là một lực lượng tiên tiến của giai cấp công nhân, lực lượng lãnh đạo toàn xã
hội, Đảng phải thể hiện vai trò tiên phong của mình.
Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương, cương lĩnh, chiến lược, sách lược, cho nên
nắm vững bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, nắm vững tư tưởng Hồ
Chí Minh, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, khái quát thành lý
luận là chức năng hàng đầu của Đảng.
Vai trò tiên phong của Đảng thể hiện trước hết ở lý luận. Có nền tảng lý luận khoa học,
coi trọng tổng kết kinh nghiệm sẽ bảo đảm cho Đảng đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, có
bản lĩnh chính trị, độc lập sáng tạo trước những biến động trên thế giới và trong nước, tránh
được khuynh hướng chủ quan, giáo điều.
Trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng tuy đã tìm tòi sáng tạo,
nhưng do trình độ lý luận còn lạc hậu nên trong quá trình chỉ đạo Đảng còn mắc khuyết
điểm, sai lầm. Vì vậy, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, trước hết là về tư
duy lý luận.
II. THỰC TRẠNG, TÍNH CẤP BÁCH PHẢI ĐỔI MỚI CÔNG TÁC LÝ LUẬN.
Từ Đại hội VI (12.1986) đến nay, công tác lý luận của Đảng đã có những thành tựu nhất
định. Đó là, dần dần hình thành được những quan điểm đúng đắn về đổi mới, về thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; sinh hoạt chính trị – xã hội đã dân chủ hơn.
37
Tuy vậy, chúng ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng lạc hậu. Điều đó thể hiện ở chỗ: chưa
đưa ra được lời giải đáp khoa học về chủ nghĩa xã hội, về thời đại, về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Tình trạng lý luận xa rời thực tiễn, chưa coi trọng tổng kết kinh nghiệm còn phổ
biến.
Nguyên nhân sâu xa về phía khách quan là: bản thân sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
là mới mẻ; hoàn cảnh đặc thù của nước ta – một nước sản xuất nhỏ, lạc hậu, nông nghiệp là
chính tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, lại bị chiến tranh tàn phá…
Hiện nay, Đảng ta thực hiện đường lối mở cửa là đòi hỏi khách quan, nhưng nền kinh tế,
cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ quản lý đất nước còn nhiều yếu kém. Lý luận về chủ nghĩa
xã hội ở nước ta còn nhiều lúng túng, thậm chí còn nhiều sai lầm khuyết điểm.
* Nguyên nhân chủ yếu là:
Công tác lý luận chưa được đặt đúng vị trí, vai trò là cơ sở để đề ra đường lối, chính sách.
Chưa đề ra chương trình, nội dung nghiên cứu cho từng thời kỳ.
Đầu tư cho lý luận còn thấp, về kinh phí, đào tạo bồi dưỡng, thông tin, cơ sở vật chất kỹ
thuật…
III. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ CHỦ YẾU CỦA CÔNG TÁC LÝ LUẬN
1/ Phương hướng:
Tổ chức tốt công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, nâng cao trình độ vận dụng
chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh nước ta, góp phần xây dựng chủ trương chính sách của
Đảng, lý giải những vấn đề do cuộc sống đặt ra.
2/ Nhiệm vụ:
Trên cơ sở phương hướng chung, những nhiệm vụ cụ thể trước mắt của công tác lý luận
là:
Quán triệt tư tưởng đổi mới tư duy tại Đại hội VI (1986), và các nghị quyết Đại hội VII(
1991), Đại hội VIII (1996), các nghị quyết Trung ương… góp phần vào quá trình đổi mới tư
duy lý luận.
38
Làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đặc biệt là thời kỳ quá
độ, vấn đề sở hữu, vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, con
đường, hình thức, bước đi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước…
Nghiên cứu có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng vào việc xây dựng đường lối,
chủ trương, giáo dục tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu những vấn đề thời đại, về kinh nghiệm thành công, không thành công của
cách mạng xã hội chủ nghĩa, về cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, nghiên cứu
những biểu hiện mới của chủ nghĩa tư bản.
Phát triển các ngành kinh tế học, xã hội học, khoa học chính trị, khoa học quản lý.
Điều tra một cách cơ bản điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước, khả
năng quan hệ quốc tế…
Cung cấp cơ sở lý luận và phương pháp luận cho các hoạt động trên mặt trận tư tưởng
nhằm tăng cường hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
Nắm bắt, dự báo, giải đáp những vấn đề mới xuất hiện trong nước và trên thế giới.
IV. NHỮNG NGUYÊN TẮC TIẾN HÀNH CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN.
1/ Tiếp tục nghiên cứu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kinh
nghiệm và sự phát triển lý luận của các nước vào thực tiễn cách mạng nước ta.
Cần có quan điểm lịch sử cụ thể, sáng tạo trong việc vận dụng những luận điểm, những
kết luận chính trị của các nhà kinh điển và các Đảng anh em.
2/ Lý luận phải gắn liền với thực tiễn.
Lý luận cách mạng không có mục đích tự thân, mà cốt nhằm thúc đẩy cách mạng tiến lên,
nâng cao trình độ lý luận, tư tưởng của xã hội. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, là nguồn
cung cấp cứ liệu, kinh nghiệm cho hoạt động lý luận.
3/ Phát hiện kịp thời, đấu tranh kiên quyết với những quan điểm lý luận không khoa học.
Quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã phải chống lại nhiều học
39
thuyết, quan điểm phản động từ phía kẻ thù, và ngay trong phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế.
4/ Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa lý luận và chính trị, khoa học và đường lối. Tránh
đồng nhất lý luận với chính trị, dẫn đến tình trạng lý luận ỷ lại, không phát triển. Lý luận chỉ
đơn thuần là thuyết minh cho đường lối chính trị. Còn chính trị dễ rơi vào chủ quan duy ý
chí. Lý luận nếu tách rời chính trị, thoát ly những nhiệm vụ chính trị mà Đảng, chính phủ giải
quyết sẽ rơi vào kinh viện, trừu tượng.
V. NHỮNG NHÂN TỐ BẢO ĐẢM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC LÝ
LUẬN.
1/ Cần có quan niệm đúng đắn, thống nhất về công tác lý luận đối với sự nghiệp xây dựng
đất nước. Không nên đề cao đến mức tuyệt đối hóa vai trò của lý luận. Nhưng cũng không
coi nhẹ lý luận, nếu coi nhẹ lý luận sẽ dễ dàng rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm.
2/ Thực hiện dân chủ rộng rãi trong nghiên cứu thảo luận lý luận; tạo ra bầu không khí tự
do tư tưởng.
3/ Tổ chức hợp lý hơn các cơ quan nghiên cứu lý luận. Phải xác định rõ hơn phương
hướng, chương trình, kế hoạch dài hạn và ngắn hạn.
4/ Sắp xếp lại và nâng cao chất lượng các cơ quan và đội ngũ cán bộ làm công tác lý luận.
5/ Cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác, khách quan cho đội ngũ cán bộ làm
công tác nghiên cứu lý luận.
6/ Cải tiến chế độ chính sách, đầu tư kinh phí thỏa đáng và hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ
thuật cho các cơ quan làm công tác nghiên cứu và giáo dục lý luận.
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định việc không ngừng nâng cao chất lượng của
công tác lý luận. Công tác quản lý lý luận của Đảng, nhất là ở tầm vĩ mô, cần thường xuyên
đổi mới nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Đảng định hướng chiến lược phát triển lý
luận, đội ngũ cán bộ, ban hành những chính sách lớn đối với khoa học và theo dõi, kiểm tra
việc thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ đã giao, tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học, lý
luận phát triển.
40
Câu hỏi ôn tập:
1/ Phân tích phương hướng, nhiệm vụ công tác lý luận của Đảng.
2/ Phân tích những nguyên tắc tiến hành nghiên cứu lý luận.
3/ Những nhân tố nào bảo đảm việc nâng cao chất lượng công tác lý luận?
41
Bài 7
ĐẢNG VIÊN VÀ CÔNG TÁC ĐẢNG VIÊN
I. TƯ CÁCH, NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN HẠN CỦA ĐẢNG VIÊN.
1/ Tư cách đảng viên cộng sản:
Tư cách đảng viên là những đặc trưng cơ bản của người đảng viên cần có. Đó cũng là
những yếu tố chủ yếu làm cơ sở để phân rõ ranh giới giữa đảng viên và quần chúng tích cực
ngoài Đảng.
Tư cách đảng viên được xác định trên cơ sở lý tưởng cách mạng, những nguyên tắc tổ
chức và vai trò của Đảng trong các thời kỳ cách mạng.
Trong cuộc đấu tranh để xây dựng đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân – Đảng
Cộng sản – các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề tư
cách của người cộng sản, coi đó là những điểm chuẩn mực để phân biệt những người đảng
viên cộng sản với những công nhân và quần chúng cách mạng khác. Có thể nêu khái quát
những tư tưởng của C.Mác, Ph-Ăngghen và V.I.Lênin về yêu cầu có tính nguyên tắc đối với
tư cách của người cộng sản như sau:
Một là, thừa nhận cương lĩnh của Đảng và suốt đời phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng cộng
sản chủ nghĩa.
Hai là, gắn bó chặt chẽ với Đảng bằng tự nguyện tham gia vào một tổ chức của Đảng và
chịu sự quản lý của tổ chức đó.
Ba là, gương mẫu trong hành động cách mạng, là người đi đầu và có năng lực lôi cuốn
quần chúng đấu tranh cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc.
Bốn là, gương mẫu trong học tập, rèn luyện nâng cao kiến thức và năng lực đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao của cách mạng.
42
Với quan điểm đúng và trên cơ sở coi trọng tổng kết kinh nghiệm hoạt động thực tiễn,
Đảng ta luôn coi trọng chất lượng đảng viên, xây dựng được những chuẩn mực về tư cách
đảng viên phù hợp yêu cầu của cách mạng nước ta. Điều 1 Điều lệ Đảng do Đại hội VIII
(1996) thông qua, ghi: “Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội
tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của
Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích
cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của
Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, không bóc lột, hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ
luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng”.
Từ những yêu cầu có tính nguyên tắc của chủ nghĩa Mác- Lênin và thực tiễn hoạt động
của Đảng ta, có thể nêu những nội dung về tư cách của đảng viên như sau:
a) Đảng viên phải là người có giác ngộ lý tưởng cách mạng, trung thành và có kiến thức,
năng lực phấn đấu xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Sự giác ngộ lý tưởng cách mạng của đảng viên thể hiện ở sự nắm vững chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức được quy luật phát triển của lịch sử, từ đó nhận
thức được vị trí vai trò của Đảng, của giai cấp công nhân trước dân tộc là đưa đất nước tiến
lên chủ nghĩa xã hội.
Giác ngộ của đảng viên còn thể hiện ở sự nắm vững quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng trong từng giai đoạn cách mạng và trong cương vị của mình, kiên quyết phấn đấu thực
hiện một cách có hiệu quả đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước. Đảng viên là người gương mẫu trong lao động, công tác và học tập, bảo vệ đường lối
chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chống các hiện tượng tiêu cực trong Đảng,
trong xã hội …
Giác ngộ của đảng viên còn thể hiện ở sự thống nhất giữa nhận thức và hành động, lời nói
với việc làm, chống các biểu hiện cục bộ, địa phương, công thần, địa vị, quan liêu, cửa
quyền… chống chủ nghĩa cá nhân, đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích của cá nhân, đứng vững
trên lập trường giai cấp công nhân để xem xét và giải quyết mọi vấn đề.
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, đảng viên không chỉ thể hiện
thái độ tích cực đối với đường lối đổi mới mà quan trọng là thường xuyên học tập, nắm vững
43
quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ
để có đủ phẩm chất năng lực cần thiết, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm; giữ vững nguyên tắc của Đảng, không đi chệch hướng công cuộc đổi mới của
Đảng vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
Trong khi thực hiện trách nhiệm đối với nhiệm vụ cách mạng nước ta, đảng viên còn luôn
luôn xác định nghĩa vụ quốc tế Cộng sản của mình.
b) Đảng viên phải là người có ý thức tự giác, tính tổ chức kỷ luật cao; luôn chăm lo xây
dựng và bảo vệ khối đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Tính tổ chức kỷ luật của đảng viên thể hiện ở việc nghiêm túc thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ và kỷ luật trong Đảng, những quy định về quyền hạn, nghĩa vụ của đảng viên
ghi trong điều lệ Đảng, tôn trọng nội quy, quy chế của tổ chức mà đảng viên đó là thành viên,
nghiêm chỉnh chấp hánh chính sách pháp luật của nhà nước.
Tình hình hiện nay càng đòi hỏi đảng viên phải hết sức nghiêm khắc với bản thân. Sử
dụng triệt để quyền của đảng viên trong mọi hoạt động, sinh hoạt của Đảng, đồng thời giữ
nghiêm kỷ luật phát ngôn, tự giác, nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình, không chủ
quan, tự mãn, tích cực, trung thực sửa chữa khuyết điểm của mình, thẳng thắn, chân tình giúp
đỡ đồng chí mình, bảo vệ sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
c) Đảng viên phải là người tôn trọng và bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, chăm lo lợi
ích vật chất và tinh thần của nhân dân, giữ vững và không ngừng củng cố, phát triển mối liên
hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Để giữ vững và không ngừng củng cố, phát triển mối quan hệ với nhân dân, đảng viên
phải luôn luôn giữ vững phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, nâng cao phẩm chất, năng lực
công tác. Dù ở cương vị nào, bất kỳ ở đâu, đảng viên đều phải quan tâm, chăm lo đến đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đảng viên hoạt động trong các cơ quan Nhà nước,
các đoàn thể nhân dân, một mặt phải tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của mọi người
dân, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng, lắng nghe ý kiến, học hỏi kinh nghiệm hay của nhân dân,
phản ánh trung thực, kịp thời với Đảng, với Nhà nước, với cấp trên để giải quyết, chống thói
chuyên quyền, độc đoán, xa rời quần chúng; phải gương mẫu chấp hành pháp luật của Nhà
nước.
2/ Nhiệm vụ của đảng viên:
44
Theo quy định của Đại hội VIII, Đảng viên có những nhiệm vụ sau:
1) Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm
chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của
Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và
điều động của Đảng.
2) Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác,
phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng lãng phí và các biểu hiện tiêu
cực khác.
3) Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân;
chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân;
tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên
truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước.
4) Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ
luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình,
trung thực với Đảng; làm tốt công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng
đảng phí đúng quy định”.
3/ Quyền của đảng viên:
Theo Điều lệ Đảng, đảng viên có những quyền hạn sau:
a) Được thông tin và thảo luận các vấn đề về cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng.
Đảng viên có quyền phát biểu ý kiến của mình, góp ý, tham gia thảo luận những vấn đề
về đường lối, chủ trương, chính sách và nhiệm vụ, biện pháp công tác của tổ chức đảng.
Những ý kiến đó được phát biểu, thảo luận trong hội nghị Đảng, trực tiếp hoặc gửi thư cho
các cấp lãnh đạo của Đảng. Để thực hiện các quyền trên, các cấp ủy có trách nhiệm thực hiện
chế độ thông tin đầy đủ, chính xác cho đảng viên, tạo mọi điều kiện để đảng viên thực hiện
quyền dân chủ của mình.
45
Trong các hội nghị của tổ chức Đảng, các vấn đề đưa ra phải được thảo luận một cách dân
chủ, cuối cùng biểu quyết kết luận theo Điều lệ Đảng. Những vấn đề như: kết nạp đảng, công
nhận đảng viên chính thức, khai trừ khỏi Đảng những đảng viên vi phạm kỷ luật… phải được
tiến hành một cách nghiêm túc theo Điều lệ Đảng. Đảng viên được phát biểu ý kiến trong quá
trình chuẩn bị ra nghị quyết, trình bày quan điểm trong tổ chức, được bảo lưu ý kiến, nhưng
khi đã có nghị quyết thì phải chấp hành nghiêm túc, không được tuyên truyền và hành động
theo quan điểm riêng.
b) Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Bộ
Chính trị.
Quyền này được thực hiện trong các hội nghị và đại hội của các tổ chức đảng. Để thực
hiện quyền này, đảng viên phải có thái độ nghiêm túc, suy nghĩ kỹ trước khi tỏ thái độ.
Chống thái độ qua loa, đại khái hoặc vì tình cảm riêng tư, địa phương, cục bộ… gây mất
đoàn kết nội bộ, làm giảm sức chiến đấu của tổ chức đảng.
c) Phê bình chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm
vi tổ chức; báo cáo, kiến nghị các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời.
Để thực hiện quyền này, đảng viên có thể phát biểu ý kiến trong hội nghị đảng, gặp trực
tiếp các cấp ủy hoặc gửi thư, đơn, khiếu nại… lên các cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng về
tất cả các mặt công tác của Đảng, pháp luật của Nhà nuớc. Khi thực hiện những quyền này,
đảng viên phải tuân theo Điều lệ Đảng, hướng dẫn của Ban chấp hành Trung ương, Ủy ban
kiểm tra trung ương và phải chịu trách nhiệm về ý kiến của mình. Đảng viên tuyệt đối không
được lợi dụng dân chủ trong Đảng để phát biểu tùy tiện, vô nguyên tắc, thiếu trung thực, làm
mất uy tín của cá nhân, tổ chức Đảng, gây hoài nghi mất đoàn kết trong Đảng.
d) Trình bày ý kiến khi tổ chức Đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật
đối với mình.
Theo định kỳ hoặc sau một đợt công tác, cấp ủy đảng có trách nhiệm nhận xét, đánh giá
hoạt động và đạo đức của đảng viên trong một thời gian, về một công việc nhất định. Việc
nhận xét, đánh giá phải được công khai, trực tiếp đối với đảng viên đó. Đảng viên đó cũng có
quyền được trình bày ý kiến cá nhân, nếu không được cấp ủy nhất trí thì ghi cả ý kiến đó vào
bản nhận xét. Trước khi được điều động công tác đảng viên có quyền trình bày nguyện vọng
của mình, những khó khăn và những đề nghị cần thiết. Cấp trên có trách nhiệm nghiên cứu
46
trước khi quyết định. Tuy nhiên, dù còn có ý kiến khác, đảng viên phải nghiêm chỉnh chấp
hành sự điều động của tổ chức.
Trong trường hợp bị kỷ luật thì trước khi cấp có thẩm quyền ra nghị quyết, đảng viên có
quyền trình bày ý kiến của mình với cấp có thẩm quyền đó. Những ý kiến đó được coi là
những dữ kiện để có quyết định mức kỷ luật hợp lý. Sau khi có quyết định, nếu thấy không
hợp lý, đảng viên vẫn có quyền khiếu nại đối với cấp trực tiếp và cấp ủy, ủy ban kiểm tra cấp
trên theo quy định của Điều lệ Đảng.
II. CÔNG TÁC ĐẢNG VIÊN.
Công tác đảng viên là một khâu quan trọng trong xây dựng Đảng, là nhiệm vụ thường
xuyên trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của Đảng.
Ngày nay công tác đảng viên phải coi trọng việc nâng cao chất lượng theo yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới và chỉnh đốn Đảng, bảo đảm cho Đảng ngang tầm nhiệm vụ mới – nhiệm vụ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với sự nỗ lực của toàn Đảng, đội ngũ đảng viên của Đảng ta đã phát triển về số lượng và
có bước trưởng thành đáng kể về chất lượng. Đại hội VII của Đảng đã đánh giá: “Trải qua
đấu tranh cách mạng lâu dài và hơn bốn năm tiến hành công cuộc đổi mới, số đông đảng viên
mà nòng cốt là đội ngũ cán bộ chủ chốt từ Trung ương đến cơ sở đã thể hiện phẩm chất chính
trị vững vàng trước mọi thử thách, nhất là những biến động hết sức phức tạp của tình hình thế
giới, đã kiên định và quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Trình độ nhận thức lý
luận và thực tiễn của nhiều cán bộ, đảng viên đã được nhân lên”. Năm năm qua kể từ Đại hội
VII những mặt tích cực đó của đội ngũ đảng viên tiếp tục được bổ sung và phát huy tác dụng
và trở thành nhân tố quan trọng góp vào những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, xã hội và đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Tuy nhiên, đánh giá nghiêm túc những khuyết
điểm của công tác xây dựng Đảng, Đại hội VIII của Đảng cũng chỉ rõ: “Một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý
chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đọa về đạo đức và lối sống. Một số thoái hóa về chính trị,
tuy rất ít nhưng hoạt động của họ gây hậu quả hết sức xấu”. Bên cạnh đó, cũng có nhiều đồng
chí tuy có phẩm chất chính trị vững vàng, vẫn tích cực tham gia sinh hoạt và công tác, nhưng
hạn chế về sức khỏe và khả năng hoạt động. Một bộ phận đảng viên, tuổi chưa cao, được rèn
luyện trong chiến đấu, đã phát huy vai trò tích cực trong chiến tranh, nhưng ít có điều kiện
học tập, nâng cao trình độ nay không theo kịp nhiệm vụ mới. Những tồn tại trong đội ngũ
47
đảng viên của Đảng đã ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, làm giảm uy tín của Đảng trước nhân dân.
Những tồn tại trên có nguyên nhân trực tiếp từ công tác đảng viên, từ sự buông lỏng công
tác đảng viên của nhiều cấp ủy, chưa thật sự coi trọng việc giáo dục phẩm chất, nâng cao
kiến thức và năng lực cho đảng viên nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cách mạng;
còn chưa kiên quyết trong việc xử lý những đảng viên mắc khuyết đểm, sai lầm, nhất là đối
với những đảng viên có chức, có quyền. Hiện nay công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đòi hỏi Đảng phải tự đổi mới, chỉnh đốn về mọi mặt, trong đó có nhiệm vụ
thường xuyên nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác của đảng viên.
Công tác đảng viên của Đảng cần tập trung làm trong sạch và nâng cao chất lượng đội
ngũ đảng viên theo hướng bảo đảm mọi đảng viên thật sự xứng đáng là những chiến sĩ tiên
phong có đầy đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh, kiến thức và
năng lực đáp ứng công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1/ Thường xuyên quan tâm giáo dục, nâng cao phẩm chất, kiến thức và năng lực cho
đảng viên:
Chăm lo giáo dục phẩm chất chính trị, nâng cao kiến thức và năng lực cho đội ngũ đảng
viên là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên của các tổ chức đảng, là biện pháp chủ động, tích cực
nhằm bảo đảm tư cách đảng viên, bảo đảm cho mỗi đảng viên – dù ở cương vị nào, dù trong
điều kiện nào của cách mạng – vẫn xứng đáng là những chiến sĩ cộng sản có lý tưởng cách
mạng, giữ vững vai trò tiền phong, gương mẫu trong nhận thức và hành động.
Nội dung giáo dục đảng viên bao gồm: trang bị những kiến thức về chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước; nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn – nghiệp vụ, về tổ chức quản lý, về
văn hóa – xã hội… nhằm trang bị kiến thức cơ bản, có hệ thống và toàn diện, phục vụ yêu
cầu lãnh đạo của tổ chức đảng đối với nhiệm vụ chính trị trong từng thời gian nhất định, tạo
điều kiện để đảng viên phát triển cả về trí tuệ, niềm tin, đạo đức và năng lực hành động.
Việc giáo dục, nâng cao phẩm chất và năng lực cho đội ngũ đảng viên cần được lập kế
hoạch trong từng thời gian, phù hợp với nhiệm vụ chính trị và chất lượng đội ngũ đảng viên.
Trước mắt cần tập trung:
48
- Giáo dục lý tưởng cách mạng, lòng trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của
Đảng, của giai cấp công nhân và dân tộc; kiên định con đường xã hội chủ nghĩa; nâng cao
ý thức tổ chức, tích cực chống các hiện tượng tự do vô kỉ luật, vô trách nhiệm cả trong
hành động và trong phát ngôn.
- Nâng cao nhận thức của đảng viên về các quan điểm, chính sách đổi mới của Đảng; coi
trọng bồi dưỡng kiến thức, năng lực phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước, về đổi mới hệ thống chính trị và đáp ứng yêu cầu
của công tác vận động quần chúng hiện nay.
- Giáo dục lối sống lành mạnh, trung thực, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, chống
các hiện tượng tiêu cực như: tham nhũng, hối lộ, chuyên quyền độc đoán, mất dân chủ,
quan liêu…
Việc giáo dục những phẩm chất trên cần tiến hành trong tất cả các hoạt động, đăc biệt là
hoạt động của đảng bộ cơ sở, của chi bộ như nâng cao chất lượng sinh hoạt, làm tốt công tác
quản lý, phân công công tác cụ thể cho từng đảng viên, thường xuyên kiểm điểm việc chấp
hành kỷ luật Đảng. Phải phát huy tính tích cực, chủ động của đảng viên trong rèn luyện, học
tập, trưởng thành trong hoạt động thực tiễn theo cương vị và nhiệm vụ công tác của mình.
2/ Thực hiện tốt công tác phát triển đảng viên mới:
Là đội tiên phong của giai cấp công nhân và là lực lượng lãnh đạo toàn xã hội, Đảng kết
nạp những người ưu tú, có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực trong giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, trong lực lương vũ trang, các tầng lớp nhân dân lao
động, đặc biệt coi trọng kết nạp những thanh niên nam, nữ ưu tú vào Đảng. quan điểm của
Đảng trong việc kết nạp đảng viên mới là coi trọng chất lượng, chống chạy theo số lượng đơn
thuần. Bảo đảm chất lượng được coi là yêu cầu bao trùm trong suốt quá trình kết nạp đảng
viên mới, từ khi kết nạp, thời kỳ dự bị, trở thành đảng viên chính thức và mãi sau này. Hiện
nay thành phần giai cấp công nhân trong Đảng rất thấp. Chính vì vậy cần đẩy mạnh phát triển
Đảng trong giai cấp công nhân, cải thiện thành phần giai cấp công nhân là yêu cầu cấp bách
nhằm bảo đảm và không ngừng nâng cao bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Kết nạp một đảng viên mới vào Đảng là cả một quá trình công phu, qua nhiều khâu, nhiều
nguyên tắc, thủ tục chặt chẽ. Do vậy, các đảng bộ cơ sở cần xây dựng kế hoạch phát triển
49
đảng viên mới trong từng thời hạn, bảo đảm tính chủ động, tích cực, khoa học, tránh gò ép,
qua loa đại khái. Chất lượng công tác đảng viên mới còn phụ thuộc vào chất lượng của chi
bộ, đảng bộ cơ sở, vào sự tham gia của quần chúng nhân dân.
3/ Đưa người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng:
Đưa người không đủ tư cách ra khỏi Đảng là một trong những biện pháp giữ cho đội ngũ
đảng viên trong sạch, vững mạnh; tổ chức đảng được củng cố; năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng được tăng cường, uy tín và ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng được
nâng lên.
Xuất phát từ yêu cầu của giai đoạn mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII nhấn
mạnh: “đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách đảng viên, trước hết là những đảng
viên thoái hóa, biến chất, tham nhũng, cơ hội, gây chia rẽ, bè phái, trù dập, ức hiếp quần
chúng, bị quần chúng oán ghét… xóa tên trong danh sách của đảng viên những người không
tha thiết với Đảng, giảm sút ý chí phấn đấu, không tích cực làm nhiệm vụ đảng viên, không
còn tín nhiệm trong quần chúng và những đảng viên bỏ sinh hoạt Đảng hoặc không đóng
đảng phí 3 tháng trong năm mà không có lý do chính đáng”.
Đây là việc làm phức tạp, liên quan đến sinh mệnh chính trị của đảng viên, cho nên khi
tiến hành, các đảng bộ cơ sở phải rất kiên quyết, nghiêm túc, thận trọng trên cơ sở những quy
định trong Điều lệ Đảng, các chỉ thị, nghị quyết và hướng dẫn của Trung ương.
Muốn vậy, trước hết phải làm cho tổ chức Đảng, đảng viên và quần chúng nắm được tiêu
chuẩn đảng viên, những quy định của Trung ương về những đối tượng không đủ tư cách đảng
viên phải đưa ra khỏi Đảng và ý nghĩa cấp thiết của việc sàng lọc, làm trong sạch đội ngũ
đảng viên trong tình hình hiện nay; phân định được mức độ, tính chất của từng người không
đủ tư cách đảng viên để có hình thức xử lý thích hợp, tránh được những sai sót.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, phải kết hợp chặt chẽ tự phê bình và phê bình trong tổ
chức Đảng với ý kiến của quần chúng; kết hợp công tác kiểm tra của tổ chức Đảng với công
tác thanh tra của cơ quan nhà nước liên quan để kết luận rõ đúng, sai và nguyên nhân của
những sai lầm và khuyết điểm đó. Cần xử lý kiên quyết, kịp thời đối với những đảng viên
thoái hóa, biến chất, vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tham nhũng… dù 50
đảng viên đó ở cương vị công tác nào. Đối với những đảng viên giảm sút ý chí phấn đấu, cần
tiến hành thận trọng, từng bước với hình thức thích hợp.
Đưa những đảng viên không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng phải trên cơ sở quản lý,
phân loại đảng viên hàng năm và tiến hành thường xuyên, đồng thời kết hợp với các cuộc vận
động xây dựng Đảng.
Câu hỏi ôn tập:
1/ Trình bày nội dung tư cách, nhiệm vụ, quyền hạn của đảng viên.
2/ Trình bày những nội dung cơ bản của công tác đảng viên.
51
Bài 8
NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ
Nguyên tắc này được được các Đảng cộng sản coi là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng,
là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công
nhân.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi tập trung dân chủ là nguyên tắc
tổ chức cơ bản của mình. Đó là nguyên tắc quan trọng nhất chỉ đạo mọi hoạt động tổ chức,
sinh hoạt nội bộ và phong cách làm việc của Đảng. Ngày nay, trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta tiếp tục khẳng định thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ.
I. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN PHẢI THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG
DÂN CHỦ.
Trong xã hội, tổ chức là một yêu cầu khách quan. Nó có vai trò rất to lớn đối với con
người trong mọi hoạt động của mình. Tổ chức tạo nên sức mạnh và sự thống nhất của con
người trong hoạt động thực tiễn. Trước đây V.I.Lênin đã từng khẳng định: trong cuộc đấu
tranh giành chính quyền, giai cấp vô sản không có vũ khí nào khác hơn là sự tổ chức. Nhưng
sức mạnh của tổ chức không phải là con số cộng đơn giản về số lượng, mà ở sự gắn bó chặt
chẽ về tổ chức, ở sự thống nhất ý chí và hành động. Tổ chức chỉ trở thành hiện thực trong
cuộc sống khi có những nguyên tắc để liên kết các thành viên, thống nhất và điều khiển hành
vi của các thành viên. Thiếu các nguyên tắc thì sẽ không thành tổ chức, do đó không có sự
thống nhất. V.I.Lênin viết: “không có sự phục tùng của thiểu số đối với đa số thì không thể
có tổ chức; và không có tổ chức thì không thể có thống nhất” (V.I.Lênin, Toàn tập, Nhà xuất
bản Tiến Bộ Mátxcơva, 1980, tập 25, trang 200).
Là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân, Đảng cộng sản phải là một đội ngũ có tổ chức
và là tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp công nhân. Đảng phải là một khối thống nhất cả về
chính trị, tư tưởng và tổ chức. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng
và hoạt động lãnh đạo của Đảng là điều kiện bảo đảm sự thống nhất ý chí, hành động của
52
toàn Đảng, đồng thời bảo đảm phát huy hết trí tuệ, sức mạnh của tổ chức Đảng, của từng
đảng viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc cơ bản của
Đảng. Người nói: Dân chủ phải đi đôi với tập trung, phải kiên quyết thực hiện kỷ luật, tức là
cá nhân phải tuyệt đối phục tùng tổ chức, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục
tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương.
Đảng viên cộng sản là người giác ngộ cao về lý luận chính trị, là người có ý thức tổ chức
kỷ luật chặt chẽ; tự giác phục tùng những quan hệ về tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân
chủ. Nhờ đó mà đảng viên cộng sản là người đại biểu cho tính tự giác của giai cấp công
nhân, có khả năng tập hợp, giáo dục và lãnh đạo quần chúng.
Đảng cộng sản có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo giai cấp công nhân giành chính quyền, xây
dựng chủ nghĩa xã hội, giải phóng nhân loại, thực hiện xã hội văn minh. Mỗi đảng phải tuyên
bố rõ ràng mục tiêu đó trong cương lĩnh, điều lệ của mình. Cương lĩnh là văn kiện đầu tiên
quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ. Để thực hiện cương lĩnh, điều lệ và những chủ
trương trong từng giai đoạn. Đảng phải có sự nhất trí cao, phải thống nhất tư tưởng và hành
động, thống nhất kỷ luật. Do đó Đảng phải thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Thực tiễn cho thấy, mọi thành công hay thất bại trong cuộc đấu tranh để xây dựng tổ
chức, thực hiện mục đích, lý tưởng của Đảng tùy thuộc vào nhận thức và hành động đúng
hay không đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ là xa rời
nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt cơ bản của Đảng, sẽ làm giảm sút sức chiến đấu, thậm chí dẫn
đến tan rã Đảng.
II. BẢN CHẤT, NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ.
1/ Bản chất của nguyên tắc tập trung dân chủ:
Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự thống nhất giữa hai mặt tập trung và dân chủ. Đó là
hai khái niệm khác nhau. Nhưng trong nguyên tắc này, hai khái niệm không tách rời nhau.
Quan hệ giữa tập trung, dân chủ là quan hệ biện chứng, quan hệ bên trong của một nguyên
tắc thống nhất.
Sự thống nhất biện chứng giữa tập trung dân chủ được bắt nguồn từ trong mọi hoạt động
của đời sống xã hội. Trong cuộc sống, sẽ không có dân chủ nếu không có những nguyên tắc
bảo đảm quyền dân chủ. Chúng ta sẽ không hình dung nổi sự hỗn loạn nếu trong một quốc 53
gia mà không có pháp luật để điều khiển hành vi của mỗi công dân. Dân chủ bao giờ cũng
cần có tập trung theo những nguyên tắc nhất định, nếu không sẽ không có dân chủ thực sự.
Đảng cộng sản là tổ chức của những người hoàn toàn tự nguyện, có cùng mục đích, lý
tưởng hành động. Sức mạnh và trí tuệ của Đảng là sự kết tinh năng lực sáng tạo của tất cả các
thành viên trong Đảng. Đảng chỉ có thể có lý luận tiên phong, làm tròn vai trò tiên phong khi
trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy cao độ tính tự giác,
sáng tạo của đảng viên.
Mặt khác, Đảng là tổ chức chiến đấu, tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân, nên Đảng
phải có sự đoàn kết chặt chẽ, tập trung thống nhất về ý chí, hành động, có kỷ luật sắt, kỷ luật
nghiêm minh. Như vậy tập trung dân chủ là hai mặt của một nguyên tắc. Coi nhẹ, hoặc đối
lập chúng đều sẽ không tránh khỏi sai lầm.
2/ Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ:
+ Quyền tập trung trong Đảng là quyền tập trung trên cơ sở dân chủ. Quyền đó do toàn
thể đảng viên xây dựng và trao cho. Quyền ấy là ý chí, trí tuệ của toàn Đảng. Nó khác với tập
trung quan liêu, với quyền lực cá nhân, độc tài cá nhân. Quyền hạn của mỗi chức danh trong
cơ quan lãnh đạo của Đảng đều là quyền lực của tập thể và do tập thể trao cho. Quyền tập
trung trong Đảng không phải là thứ quyền lực vô hạn, mà nó được quy định trong Điều lệ
Đảng, hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.
Biểu hiện của quyền tập trung trong tổ chức và trong hoạt động của Đảng là Đảng có
cương lĩnh điều lệ, có đường lối lãnh đạo thống nhất, làm cơ sở chính trị, tư tưởng và tiêu
chuẩn sinh hoạt Đảng, làm mục tiêu phấn đấu cho mọi tổ chức Đảng và đảng viên. Đảng có
một trung tâm lãnh đạo thống nhất là Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng – nơi có đủ thẩm
quyền đề ra cương lĩnh, đường lối đối nội, đối ngoại và điều lệ của Đảng mà mọi đảng viên
đều phải chấp hành.
Giữa hai kỳ Đại hội là Ban chấp hành Trung ương – cơ quan chấp hành ý chí của Đại hội,
thống nhất lãnh đạo toàn Đảng thực hiện nghị quyết của Đại hội. Đảng có cơ cấu tổ chức
thống nhất là hệ thống tổ chức Đảng và các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến cơ
sở. Đảng có kỷ luật thống nhất, bắt buộc đối với mọi đảng viên trong việc chấp hành điều lệ,
đường lối, nghị quyết của Đảng.
54
+ Tính dân chủ trong sinh hoạt và hoạt động lãnh đạo của Đảng là dân chủ có lãnh đạo,
có tính Đảng, tính nguyên tắc cao, là quyền của mọi đảng viên. Mọi đảng viên đều tự do thảo
luận, phát huy trí tuệ, năng lực sáng tạo. Dân chủ như vậy, khác về bản chất với chủ nghĩa vô
chính phủ.
Biểu hiện của tính dân chủ trong sinh hoạt và hoạt động lãnh đạo của Đảng là: tất cả đảng
viên đều hoàn toàn bình đẳng, đều được trực tiếp hoặc thông qua đại biểu tham gia mọi công
việc của Đảng; tất cả các cơ quan của Đảng đều do dân chủ bầu cử lập ra và có thể bị bãi
miễn. Trong Đảng thực hiện tự phê bình và phê bình, chế độ báo cáo trước tổ chức Đảng và
quần chúng, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, phát huy tinh thần trách nhiệm cá
nhân.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam luôn trung thành và vận dụng sáng tạo
những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về tập trung dân chủ.
* Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ là:
a) Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách.
b) Cơ quan lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh
đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội toàn thể đảng viên.
Giữa hai kỳ Đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp
là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ.
c) Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng
cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới, định kỳ thông báo hoạt động của mình đến các tổ
chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
d) Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của đảng. Thiểu số phục tùng đa
số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng
phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban chấp hành Trung ương.
đ) Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một
nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được
phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo
cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm
55
chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp ủy có thẩm
quyền nghiên cứu, xem xét ý kiến đó, không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc
về thiểu số.
e) Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không
được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị
quyết của cấp trên.
Thực hiện đầy đủ nội dung trên vừa phát huy được trí tuệ, năng lực sáng tạo của đảng
viên vừa có sự thống nhất, tập trung cao, có kỷ luật chặt chẽ.
III. QUÁN TRIỆT VÀ THỰC HIỆN NGUYÊN TẮCTẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG
THỜI KỲ ĐỔI MỚI.
Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ luôn được phát triển phù hợp trong từng giai
đoạn của cách mạng. Sức sống của nguyên tắc này là ở sự vận dụng sáng tạo trong từng hoàn
cảnh cụ thể.
1/ Khi chưa giành được chính quyền:
Khi chưa giành được chính quyền, còn hoạt động bí mật, Đảng nhấn mạnh tính tập trung,
kỷ luật chặt chẽ, giữ bí mật nghiêm ngặt. Đó là sự cần thiết do hoàn cảnh đặt ra. Việc mở
rộng dân chủ từ phạm vi, hình thức không như khi Đảng có chính quyền. Tuy vậy, Đảng vẫn
bảo đảm những yêu cầu tối thiểu như lãnh đạo tập thể, tự phê bình, phê bình… Trong sinh
hoạt, Đảng coi trọng việc bàn bạc, ra quyết định.
2/ Khi Đảng lãnh đạo chính quyền:
Trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện trong
tiêu chuẩn sinh hoạt Đảng; tính tập thể trong lãnh đạo, tự phê bình, phê bình trở thành nền
nếp. Đảng coi trọng phát triển dân chủ nội bộ, khiến nó trở thành phương tiện để củng cố kỷ
luật tự giác của cán bộ, đảng viên và nâng cao sự lãnh đạo tập trung của Đảng. Đảng đề ra
đường lối, chính sách, xác định vị trí của các cấp một cách đúng đắn khiến nó hoạt động nhịp
nhàng, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng.
3/ Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong điều kiện đổi mới.
56
Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ nhằm làm cho đường lối của Đảng, pháp luật của
Nhà nước được xây dựng đúng đắn và được chấp hành nghiêm túc. Làm cho Đảng vừa có
dân chủ rộng rãi vừa có kỷ luật nghiêm minh, có sự đoàn kết thống nhất cả ý chí và hành
động, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân và của dân tộc.
Nhằm mục đích trên, trước hết, Đảng cần phát huy dân chủ rộng rãi trong Đảng và trong
nhân dân, nhằm phát huy tiềm năng của đảng viên, của quần chúng nhân dân. Đảng phải coi
trọng giáo dục nhiệm vụ, quyền hạn của đảng viên; thực hiện thường xuyên chế độ thông tin
trong Đảng.
Duy trì chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng, cấp ủy phải định kỳ thông báo chương
trình hành động với tổ chức đảng và quần chúng, tổ chức cho quần chúng góp ý cho cán bộ,
đảng viên. Đồng thời với phát huy dân chủ, phải tăng cường kỷ luật trong Đảng, làm cơ sở để
thiết lập, duy trì trật tự, an toàn ở địa phương. Tổ chức Đảng, đảng viên chấp hành nghiêm
các nguyên tắc, chế độ sinh hoạt Đảng, các chỉ thị của cấp trên, cấp mình. Đảng viên phải
gương mẫu chấp hành, vận động quần chúng chấp hành pháp luật của Nhà nước.
Xử lý kịp thời các hiện tượng vi phạm pháp luật, không bao che, nhân nhượng hoặc chỉ
để xử lý nội bộ.
Tăng cường việc kiểm tra tổ chức Đảng và đảng viên chấp hành đường lối, chính sách ở
địa phương. Càng ở những thời điểm khó khăn càng tăng cường kiểm tra, bảo đảm cho chủ
trương, nghị quyết được thực hiện, kịp thời uốn nắn những lệch lạc, hoặc bổ sung, hoàn
chỉnh các chủ trương, nghị quyết của Đảng.
Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, nâng cao năng lực
lãnh đạo là giải pháp quan trọng để phát huy dân chủ và tăng cường kỷ luật. Không tuân thủ
nghiêm ngặt nguyên tắc lãnh đạo tập thể là hạ thấp vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng, thực
chất là phủ nhận vai trò của Đảng trên thực tế.
Để nâng cao chất lượng lãnh đạo tập thể, phải đổi mới quy trình ra nghị quyết, bảo đảm
mọi chủ trương nghị quyết của cấp ủy thực sự là sản phẩm của trí tuệ của tập thể. Thường
xuyên thông báo những thông tin cần thiết đến các ủy viên, mỗi kỳ họp phải ra thông báo
thời gian, chương trình làm việc, nội dung quan trọng cần thảo luận để các ủy viên chuẩn bị
trước.
57
Phải có chế độ đi cơ sở, sâu sát quần chúng để nắm chắc tình hình, hiểu tâm tư, nguyện
vọng của quần chúng. Phải xây dựng được bầu không khí thực sự dân chủ, đoàn kết khiêm
tốn, lắng nghe ý kiến trái với ý kiến của mình. Chất lượng lãnh đạo tập thể còn phụ thuộc vào
việc phân công trách nhiệm rõ ràng cho các ủy viên. Chất lượng làm việc còn phụ thuộc vào
trình độ nhận thức, năng lực thực tiễn, phong cách làm việc của các ủy viên. Vì vậy phải duy
trì chặt chẽ chế độ học tập của các cấp ủy, coi trọng đào tạo, bồi dưỡng để nâng trình độ toàn
diện cho cấp ủy viên.
Phải xây dựng mối quan hệ tốt giữa cấp ủy với chính quyền và các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị. Cấp ủy cùng hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân xây dựng chế độ làm
việc phù hợp với đặc điểm địa phương. Chế độ đó được xây dựng theo hướng vừa tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, vừa bảo đảm quyền lực chính trị ở
địa phương thuộc về nhân dân. Quy chế làm việc vừa bảo đảm ngăn ngừa hiện tượng buông
lỏng hoặc phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, ngăn ngừa hiện tượng áp đặt, làm thay chính
quyền, đồng thời phát huy vai trò, chức năng của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Đất nước đang đổi mới toàn diện, chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận động theo cơ chế thị trường, dưới sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Điều đó đòi
hỏi Đảng phải luôn tự đổi mới, tăng cường công tác xây dựng Đảng, tăng cường nguyên tắc
tập trung dân chủ. Bởi vì đây là nguyên tắc thể hiện sự sống còn của Đảng cộng sản. Xa rời
nó sẽ làm suy yếu Đảng, dẫn đến tan rã Đảng.
Câu hỏi ôn tập:
1/ Vì sao phải thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng tổ chức và hoạt
động của Đảng?
2/ Phân tích những nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ.
3/ Trong tình hình hiện nay, chúng ta phải làm như thế nào để thực hiện tốt nguyên tắc
tập trung dân chủ?
58
Bài 9
TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH CỦA ĐẢNG
I. VAI TRÒ, Ý NGHĨA CỦA TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH.
Trong mọi giai đoạn của cách mạng, tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của
Đảng, là quy luật rèn luyện và tu dưỡng của đảng viên. Tự phê bình và phê bình giúp cho cán
bộ, đảng viên, các tổ chức của Đảng nhìn thấy mặt mạnh, để phát huy và mặt yếu để khắc
phục.
1/ Tự phê bình và phê bình là phương pháp có hiệu quả để giáo dục, rèn luyện đảng
viên:
Hồ Chí Minh từng nói: Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ.
Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ. Đảng
cộng sản bao gồm những người ưu tú nhất trong giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí
thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Gữa họ có sự chênh lệch về trình độ nhận thức,
cho nên, trước một sự việc, một vấn đề có thể có ý kiến và cách giải thích khác nhau. Thông
qua tự phê bình, phê bình, trí tuệ sáng tạo của mọi người được phát huy, tìm ra cái đúng dần
dần tiếp cận chân lý; trình độ mọi mặt của đảng viên cũng được nâng lên.
Từ khi lãnh đạo cách mạng đến khi Đảng có chính quyền, nhất là trong tình hình hiện
nay, Đảng luôn giải quyết những nhiệm vụ khó khăn phức tạp. Đảng viên không thể nhận
thức được mọi vấn đề đang nảy sinh, cho nên khuyết điểm là không tránh khỏi. Thông qua tự
phê bình và phê bình, những khuyết điểm, thậm chí nguyên nhân của khuyết điểm được phát
hiện. Từ đó đề ra những biện pháp khắc phục và hướng rèn luyện để vươn lên.
Tự phê bình và phê bình là yêu cầu đối với đảng viên, cán bộ đảng viên. Bởi vì, việc đánh
giá đúng đắn đối với ưu, khuyết điểm của mình là rất quan trọng.
Trong điều kiện Đảng có chính quyền, đa số đảng viên là người có chức có quyền, nhất là
trong điều kiện Đảng thực hiện nền kinh tế thị trường, mở cửa hợp tác quốc tế rộng rãi,
những căn bệnh như: tham ô, móc ngoặc, độc đoán, cục bộ… thâm nhập một bộ phận đảng
59
viên, làm cho họ thoái hóa, biến chất… Những căn bệnh, tệ nạn xã hội có thể làm cho từng
đảng viên giảm sút ý chí phấn đấu, toàn Đảng có thể mất uy tín trước quần chúng.
Qua tự phê bình và phê bình, những đảng viên giác ngộ thấp hoặc thoái hóa biến chất còn
có thể sửa chữa được thì giáo dục họ; còn đối với những người không trung thực, không thể
giáo dục được thì phải kiên quyết đưa ra khỏi Đảng. Tự phê bình, phê bình như vậy là thang
thuốc hay nhất để chữa trị những sai lầm, khuyết điểm.
2/ Tự phê bình, phê bình là quy luật phát triển, là biện pháp căn bản để củng cố, xây
dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng:
Tự phê bình, phê bình trong Đảng là một trong những biểu hiện của quy luật thống nhất
và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Những mâu thuẫn như: cái tiến bộ, cái lạc hậu, yêu cầu
ngày càng cao của nhiệm vụ cách mạng với năng lực còn hạn chế của đảng viên diễn ra
thường xuyên.
Mác-Ăngghen coi tự phê bình, phê bình là cần thiết cho Đảng hoạt động bình thường.
Còn V.I.Lênin thì coi đó là quy luật bất di bất dịch của sự phát triển của cách mạng. Tự cao
tự đại, không thấy sai lầm, khuyết điểm sẽ làm giảm sức mạnh của Đảng. Thậm chí V.I.Lênin
còn coi thái độ của một Đảng đối với sai lầm khuyết điểm là một tiêu chuẩn xem xét Đảng ấy
có nghiêm túc không. Có thái độ đúng đối với tự phê bình và phê bình, công khai thừa nhận
khuyết điểm, nhất là phân tích được hoàn cảnh dẫn đến khuyết điểm sẽ tìm ra biện pháp đúng
đắn để sửa chữa.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội VI (12/1986) của Đảng đã chủ
trương đổi mới toàn diện đất nước, đưa đất nước từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng để
phát triển vững chắc.
Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đến vấn đề tự phê bình, phê bình. Người nhắc nhở:
hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa và giúp đồng chí mình sửa chữa. Người còn
khẳng định: một Đảng mà dấu khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng.
II. NHỮNG ĐẶC TÍNH CƠ BẢN VÀ NHỮNG YÊU CẦU CỦA TỰ PHÊ BÌNH VÀ
PHÊ BÌNH.
1/ Tính đảng trong tự phê bình và phê bình:
60
Đòi hỏi của tự phê bình và phê bình là phải dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng. Tính Đảng đòi hỏi phải đấu tranh một
cách không khoan nhượng với những tư tưởng và hành động sai trái, không chấp nhận thái
độ bàng quan với những sai lầm khuyết điểm của bản thân mỗi đảng viên.
Để giữ tính đảng trong tự phê bình và phê bình, đảng viên cần nhận thức đúng đắn đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; cần bảo vệ nó khỏi sự tấn công của kẻ
thù.
2/ Tính giáo dục trong tự phê bình và phê bình:
Tự phê bình, phê bình nhằm củng cố và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng. Tự phê
bình, phê bình đúng đắn sẽ có tác dụng giáo dục sâu sắc. Nó rèn luyện phẩm chất, nâng cao
sức chiến đấu và năng lực công tác cho từng đảng viên. Tự phê bình và phê bình là để sửa
chữa, khuyến khích, bắt chước nhau như Hồ Chí Minh đã dạy. Hay như nghị quyết Trung
ương lần thứ V vừa qua đã chỉ rõ: phải kiên quyết loại bỏ những phần tử thoái hóa biến chất
về đạo đức ra khỏi tổ chức Đảng và cơ quan Nhà nước, để xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối
sống văn hóa lành mạnh.
3/ Tính nguyên tắc trong tự phê bình và phê bình:
Trong tự phê bình và phê bình phải tuân thủ nghiêm ngặt cương lĩnh, điều lệ, đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng. Bởi vì nó là định hướng, là những điều bắt buộc đối với
hoạt động của Đảng và từng đảng viên.
Những nguyên tắc xây dựng tổ chức Đảng, những quy định trong sinh hoạt Đảng là
những căn cứ để đánh giá mặt mạnh, mặt yếu của tổ chức Đảng và của từng đảng viên.
Tự phê bình, phê bình phải tôn trọng và bảo vệ lợi ích của toàn Đảng, phải đặt lợi ích của
toàn Đảng lên trên hết. Phải nghiêm khắc lên án những điều trái với lợi ích của Đảng, hy sinh
lợi ích của Đảng vì lợi ích của địa phương, của cá nhân.
Tự phê bình, phê bình phải được tiến hành trong tổ chức Đảng. Có như vậy mới tránh
được chủ nghĩa cá nhân, hoặc chạy theo mục đích, động cơ cá nhân.
Không được lợi dụng tự phê bình, phê bình để đả kích cá nhân, gây rối nội bộ. Tự phê
bình, phê bình là để xây dựng Đảng chứ không phải lợi dụng để đả phá lẫn nhau. Mục đích
61
cao nhất của tự phê bình, phê bình là để xây dựng khối đoàn kết trên cơ sở nhiệm vụ chính trị
chứ không phải để chia rẽ nội bộ Đảng.
4/ Tính khách quan, trung thực, thẳng thắn, chân thành, công khai:
Tính khách quan có nghĩa là phải tôn trọng sự thật, nói đúng mức độ của khuyết điểm,
không thổi phồng khuyết điểm (chuyện bé xé ra to), vì nó liên quan đến nhiệm vụ, sinh mệnh
chính trị của đảng viên.
Trong tự phê bình, phê bình phải trung thực, chỉ có trung thực mới có thể giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ. Chỉ có trung thực nhận khuyết điểm mới có thái độ kiên quyết sửa chữa khuyết
điểm. Trung thực, thẳng thắn, không nhỏ nhen, không bao che, không xuê xoa, nể nang, dĩ
hòa vi quý. Phê bình đòi hỏi công khai nói rõ khuyết điểm trước tổ chức. Tự phê bình, phê
bình như vậy có tác dụng ngăn chặn khuyết điểm, sửa chữa khuyết điểm.
Công khai nhận khuyết điểm là thái độ dũng cảm vượt qua sự ràng buộc của tâm lý về
quyền lợi, địa vị, là thái độ trung thực cầu tiến của đảng viên.
Công khai tự phê bình, phê bình có nghĩa là các vấn đề liên quan đến phẩm chất, đạo đức,
tư cách đảng viên được bàn bạc, thảo luận, đánh giá trong tổ chức Đảng. Công khai tất cả
những gì đã bàn bạc, phê bình trong tổ chức Đảng, công khai trên các phương tiện thông tin
đại chúng.
5/ Tính cụ thể, thiết thực và kịp thời:
Tự phê bình, phê bình phải có nội dung, địa chỉ, phải chỉ ra đúng, sai, nguyên nhân và
cách khắc phục. Tránh tình trạng tự phê bình, phê bình chung chung không có sức thuyết
phục. Có như vậy tự phê bình, phê bình mới là vũ khí sắc bén để xây dựng Đảng. Tự phê
bình, phê bình cần hướng vào việc phân tích, đánh giá, phê phán những vấn đề cấp bách
trước mắt của tổ chức Đảng, cán bộ, của đảng viên. Trước hết nhằm vào việc thực hiện
nhiệm vụ trung tâm, trách nhiệm và sự tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất, năng lực của cán
bộ.
Tự phê bình, phê bình kịp thời có tác dụng: hạn chế được sai lầm, không để nó trầm trọng
thêm, ngăn chặn nó không cho nó tái diễn, uốn nắn ngay được những khuyết điểm cho người
khác.
62
III. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỰ PHÊ BÌNH, PHÊ BÌNH TRONG TÌNH HÌNH
HIỆN NAY.
1/ Nội dung, hình thức, phương pháp tự phê bình, phê bình:
+ Nội dung tự phê bình, phê bình bao gồm: mọi mặt hoạt động của Đảng và mọi đảng
viên. Trong tình hình hiện nay, nó hướng vào thực hiện đường lối đổi mới, cương lĩnh xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ, vào cuộc vận động chỉnh đốn Đảng. Tự phê
bình, phê bình nhằm phê phán các quan niệm lệch lạc, thái độ độc đoán, tẩy trừ các tệ nạn
tham ô… Tự phê bình, phê bình nhằm làm cho mọi đảng viên không ngừng rèn luyện để loại
bỏ những yếu tố không phù hợp với bản chất của Đảng làm cho Đảng luôn giữ được vai trò
tiên phong của mình.
Tự phê bình, phê bình gồm: tự phê bình của cấp trên đối với cấp dưới, cấp dưới đối với
cấp trên và cùng cấp. Chỉ khi nào cán bộ lãnh đạo cấp trên gương mẫu, tự giác tự phê bình,
phê bình thì mới khuyến khích mọi cán bộ, đảng viên phê bình mình để khắc phục những
khuyết điểm và sai lầm về phẩm chất đạo đức của họ.
+ Các hình thức tổ chức tự phê bình, phê bình như: hội nghị chi bộ, đảng bộ thường kỳ,
các đại hội Đảng các cấp, các đợt sinh hoạt chính trị tập trung, các báo cáo hàng tháng, hàng
quý của cấp dưới với cấp trên, cấp trên với cấp dưới,,qua các phương tiện thông tin đại
chúng.
Tự phê bình, phê bình phải cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về phương pháp. Tự phê
bình, phê bình như vậy sẽ có tác dụng cao. Phê bình một cán bộ khi nào, nói đến mức nào…
cần chính xác, tế nhị tránh mỉa mai hoặc xỉ vả lẫn nhau gây khó chịu, nản lòng, khó tiếp thu,
thậm chí phản tác dụng. Phê bình cần phù hợp với từng đối tượng, từng công việc cụ thể.
2/ Những vấn đề chủ yếu cần tập trung thực hiện để nâng cao chất lượng tự phê
bình , phê bình trong điều kiện mới:
Thời gian qua, có lúc chúng ta đã coi nhẹ tự phê bình, phê bình. Trong điều kiện kinh tế
thị trường, chúng ta hướng vào việc tranh thủ thời gian để có thêm thu nhập, nhưng không vì
thế mà tự phê bình và phê bình một cách qua loa đại khái.
Trong điều kiện hiện nay, một đảng viên có thể tham gia nhiều hoạt động khác nhau, nên
càng cần coi trọng công tác kiểm tra, tự phê bình, phê bình để phát huy sáng tạo, hạn chế
những sai lầm. Từ sau Đại hội VI (12.1986), không khí dân chủ, thẳng thắn tự phê bình và 63
phê bình bước đầu được khơi dậy trong Đảng và trong xã hội. Nhất là từ sau khi Đảng phát
động đợt chỉnh đốn Đảng, công tác tự phê bình, phê bình được đẩy mạnh và có hiệu quả hơn.
Hơn nữa toàn Đảng còn không ngừng nâng cao cảnh giác đối với mọi âm mưu phá hoại từ
nhiều phía. Trong sinh hoạt các cấp ủy đã thảo luận với tinh thần thẳng thắn, nghiêm túc hơn
đối với mọi mặt công tác; thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tự phê bình, phê bình. Tuy vậy
cũng còn có những cấp ủy tiến hành tự phê bình, phê bình chưa thường xuyên, mang tính
chất hình thức, chưa thiết thực. Để khắc phục những hạn chế trên và nâng cao chất lượng tự
phê bình, phê bình, chúng ta cần thực hiện một số yêu cầu cụ thể sau đây:
+ Quán triệt đầy đủ đặc tính và những yêu cầu nghiêm ngặt của nguyên tắc tự phê bình,
phê bình. Chỉ có như vậy công tác tự phê bình và phê bình mới đạt kết quả cao.
+ Tiếp tục cụ thể hóa các nghị quyết và các hội nghị Trung ương của Đảng từ Đại hội VI
đến nay, thực hiện tốt cuộc vận động chỉnh đốn Đảng.
+ Thực hiện tốt dân chủ trong Đảng, nâng dần trình độ mọi mặt và cung cấp thông tin cho
cán bộ, đảng viên. Dân chủ trong Đảng là tiền đề, động lực thúc đẩy nâng cao chất lượng tự
phê bình, phê bình. Bởi vì chất lượng tự phê bình, phê bình phụ thuộc vào vấn đề được đưa
ra thảo luận, chuẩn bị những vấn đề đó đến mức nào, không khí thảo luận có tự do, nội dung
thảo luận có thiết thực không? Những ý kiến đánh giá có xác đáng hay không?
Tình trạng thiếu thông tin dẫn đến lạc hậu về thông tin sẽ cản trở việc nhận thức, quán
triệt vận dụng đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước. Điều đó làm cho việc góp ý
phê bình, đề xuất các giải pháp gặp khó khăn.
+ Thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình, phê bình. Bởi vì tự phê bình, phê bình là quy
luật xây dựng Đảng. Nhưng quan trọng là chế độ này cần được tiến hành từ trên xuống dưới
và từ dưới lên trên. Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi điều lệ Đảng tại Đại hội VII ghi rõ:
các ủy viên Bộ
chính trị, ủy viên thường vụ các cấp tự phê bình trước ban chấp hành. Quy định cụ thể cấp
trên tự phê bình trước cấp dưới và tổ chức việc phê bình từ dưới lên. Cán bộ lãnh đạo các
cấp cần gương mẫu trong việc tự phê bình, phê bình. Điều quan trọng là sửa chữa kịp thời
những khuyết điểm. Có như vậy mới làm cho những lần tự phê bình, phê bình sau có chất
lượng. Mỗi đảng viên cần thực hiện nghiêm túc chế độ này, vì đây không chỉ là trách nhiệm
64
mà còn là quyền hạn của đảng viên. Khi phê bình cần tránh tâm lý nể nang hoặc né tránh,
nhất là khi phê bình cấp trên.
+ Kết hợp chặt chẽ tự phê bình, phê bình trong Đảng với phê bình của quần chúng. Đảng
lãnh đạo bằng đường lối. Muốn đường lối đi vào quần chúng và trở thành hiện thực phải
thông qua việc thực hiện đường lối. Thông qua việc tổ chức thực hiện đường lối, những
khuyết điểm, hạn chế sẽ được bộc lộ. Cho nên việc phê bình của quần chúng đối với Đảng là
rất quan trọng. Nó cung cấp nguồn thông tin cần thiết cho Đảng nghiên cứu, xem xét, đánh
giá hoạt động của mình, và đánh giá chính xác hơn về phẩm chất, năng lực của cán bộ, đảng
viên.
Quần chúng tham gia phê bình còn làm phong phú thêm nội dung tự phê bình, phê bình
của Đảng. Cho nên cần thực hiện đều đặn chế độ quần chúng phê bình cán bộ, đảng viên và
tổ chức Đảng.
+ Gắn tự phê bình, phê bình với công tác kiểm tra và xử lý. Nếu tự phê bình, phê bình mà
gắn với kiểm tra sẽ phát hiện, ngăn chặn kịp thời khuyết điểm cho đảng viên và tổ chức
Đảng. Kết hợp tự phê bình, phê bình với công tác kiểm tra còn xử lý kịp thời những cán bộ
tham ô, móc ngoặc… những kẻ lợi dụng tự phê bình, phê bình để nói xấu Đảng. Vừa qua
Tổng bí thư Lê Khả Phiêu còn chỉ rõ: Nếu chỉ kiểm điểm, tự phê bình và phê bình chung
chung, nếu xử lý kỷ luật đối với những vụ vi phạm không nghiêm, không rõ ràng và công
minh, đúng tinh thần xây dựng, chỉnh đốn Đảng, mà vừa qua chúng ta đã bỏ qua hoặc xử lý
không đúng mức thì sẽ làm cho trong Đảng, trong nhân dân bất bình, nghi ngờ nội bộ ta có
sự bao che cho nhau, dung túng cho những người tiêu cực…
+ Tăng cường sự giúp đỡ và kiểm tra của cấp trên. Đối với những đơn vị yếu kém, nội bộ
có những vấn đề phức tạp cần phải có sự giúp đỡ và kiểm tra của cấp trên, trước hết là cấp
trên trực tiếp của tổ chức Đảng. Trong những trường hợp này, sự giúp đỡ của cấp trên sẽ có
ảnh hưởng lớn đến chất lượng tự phê bình, phê bình.
Như vậy, tự phê bình, phê bình là nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng của
người cán bộ, đảng viên, nhằm đưa ra khỏi Đảng những phần tử thoái hóa biến chất để Đảng
luôn xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Câu hỏi ôn tập:
65
1/ Trình bày vai trò, ý nghĩa của tự phê bình và phê bình trong Đảng.
2/ Phân tích những đặc tính cơ bản và những yêu cầu của nguyên tắc tự phê bình và phê
bình.
3/ Trong tình hình hiện nay, chúng ta phải làm thế nào để nâng cao chất lượng tự phê bình
và phê bình.
66
Bài 10
CÔNG TÁC CÁN BỘ CỦA ĐẢNG
I. VỊ TRÍ CỦA CÔNG TÁC CÁN BỘ.
Cán bộ là một trong những nhân tố quan trọng quyết định thành bại của cách mạng. Đó là
công tác cơ bản của mọi đảng cầm quyền. Trước đây V.I.Lênin đã khẳng định: muốn lật đổ
chế độ Nga hoàng cần phải có một đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp. Năm 1922 V.I.Lênin khẳng
định tiếp: nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay, đó là then chốt;
nếu không thế thì mọi mệnh lệnh và quyết định chỉ là mớ giấy lộn. Đường lối của Đảng có
được thực hiện hay không trước hết là do cán bộ – người tổ chức, thực hiện đường lối.
Sau khi giành được chính quyền, Đảng muốn xây dựng Nhà nước thì phải coi trọng việc
xây dựng đội ngũ cán bộ. Khẳng định vai trò của cán bộ, Hồ Chí Minh viết: cán bộ là cái gốc
của mọi công việc; công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Thời kỳ ở
Quảng Châu (Trung Quốc), Bác đã mở nhiều lớp đào tạo cán bộ, đó là những hạt giống cách
mạng đầu tiên ở Việt Nam.
Ngày nay Đảng coi cán bộ và công tác cán bộ là then chốt trong hoạt động của Đảng, là
nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Công tác cán bộ bao gồm các khâu từ lựa chọn, bồi
dưỡng đến đề bạt, sử dụng. Hồ Chí Minh cho rằng: bồi dưỡng cán bộ là công việc gốc của
Đảng. Người lãnh đạo phải hiểu cán bộ, phải đánh giá đúng cán bộ, phải biết phê bình, cải
tạo cán bộ, phải khéo dùng cán bộ. Người nói: dụng nhân như dụng mộc. Tức là phải dùng
đúng sở trường của con người. Người lãnh đạo, theo Bác, còn phải thương yêu cán bộ, giúp
đỡ cán bộ, kiểm tra cán bộ…
II. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ.
1/ Công tác cán bộ phải gắn liền với nhiệm vụ chính trị:
Phải xuất phát từ yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
nhằm thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Đường lối
chính trị bao giờ cũng quyết định đường lối tổ chức và cán bộ. Công tác cán bộ phải luôn
67
bám sát nhiệm vụ chính trị, xuất phát từ nhiệm vụ chính trị và phục vụ nhiệm vụ chính trị (Đỗ
Mười).
Giữa đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng và cán bộ có quan hệ biện chứng với nhau.
Có cán bộ tốt mới có thể đề ra đường lối và nhiệm vụ chính trị đúng đắn. Trên cơ sở đường
lối, nhiệm vụ chính trị đúng đắn sẽ xuất hiện đội ngũ cán bộ tốt.
+ Đường lối quyết định cán bộ trên những vấn đề sau đây:
- Đường lối đúng tạo nên đội ngũ cán bộ giỏi, cán bộ trưởng thành trong quá trình thực
hiện đường lối. Trong chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đường lối của Đảng
đúng đắn nên có đội ngũ cán bộ giỏi. Trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, một thời
gian dài chúng ta lúng túng nên đội ngũ cán bộ gặp khó khăn, nhất là trong việc làm kinh tế
thị trường.
- Có đường lối đúng mới có cơ sở lựa chọn cán bộ, đánh giá đúng đội ngũ cán bộ. Bởi vì:
đánh giá cán bộ phải dựa vào kết quả hoàn thành nhiệm vụ được giao. Kết quả hoàn thành
nhiệm vụ được giao là thước đo phẩm chất, năng lực của cán bộ. Đường lối đúng là động lực
tinh thần cho họ hăng say làm việc.
- Đường lối đúng làm tăng uy tín cho đội ngũ cán bộ của Đảng đối với quần chúng. Đường
lối chính trị đúng khiến Đảng có đường lối cán bộ, đường lối tổ chức đúng. Tuy vậy,
không phải vì thế mà khẳng định cứ có đường lối chính trị đúng thì không có cán bộ mắc
sai lầm, nhất là sai lầm về khuynh hướng chính trị.
+ Cán bộ cũng có vai trò rất quan trọng đối với đường lối và nhiệm vụ chính trị.
Có đội ngũ cán bộ có năng lực, phẩm chất tốt mới đề ra đường lối đúng, mới bổ sung, cụ
thể hóa, hoàn chỉnh đường lối. Không có đội ngũ cán bộ tốt thì đường lối của Đảng dù đúng
đắn cũng không thể trở thành hiện thực trong cuộc sống. Khi cách mạng chuyển sang giai
đoạn mới, đường lối và nhiệm vụ chính trị thay đổi thì công tác cán bộ cũng phải đổi mới cho
phù hợp.
2/ Quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy truyền thống yêu
nước và đoàn kết dân tộc:
Bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân, tăng cường số
cán bộ xuất thân từ giai cấp công nhân. Phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, tập hợp
68
các loại cán bộ, trọng dụng nhân tài, không phân biệt đảng viên hay người ngoài Đảng, dân
tộc, tôn giáo, người trong nước hay người Việt Nam sống ở nước ngoài. Không định kiến với
những người có sai lầm trong quá khứ nay đã hối cải, sửa mình.
Phát huy truyền thống tốt đẹp của đội ngũ cán bộ cách mạng để xây dựng các thế hệ cán
bộ tương lai. Vun trồng, sử dụng cán bộ có đức, tài thu hút trí thức và những nhà khoa học
giỏi trên mọi lĩnh vực. Quan tâm đến việc trẻ hóa đội ngũ cán bộ, kết hợp các độ tuổi, bảo
đảm tính liên tục, tính kế thừa, tính phát triển.
Giữ vững, tăng cường bản chất của giai cấp công nhân là vấn đề thuộc bản chất của Đảng
kiểu mới. Trước mắt, cần tập trung vào các vấn đề sau đây:
- Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam, xây dựng đường lối đúng đắn.
- Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình,
phê bình thường xuyên, thực hiện đoàn kết trong Đảng.
- Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức kỷ luật, xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên theo quan điểm của giai cấp công nhân.
- Quan hệ mật thiết với nhân dân, tăng cường đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân.
- Trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh của thời đại.
3/ Gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng tổ chức và đổi mới cơ chế chính
sách:
Đường lối chính trị bao giờ cũng quyết định đường lối tổ chức, đường lối cán bộ. Cán bộ
là nhân tố chủ yếu của tổ chức, lập ra và điều hành bộ máy tổ chức. Nhưng cán bộ chịu sự
điều hành của tổ chức. Tổ chức quyết định phương hướng và hành động của cán bộ. Tổ chức
buộc cán bộ hành động theo những nguyên tắc, khuôn khổ nhất định. Tổ chức mạnh sẽ nâng
sức mạnh của cán bộ lên. Nói cách khác, cán bộ chỉ có sức mạnh khi gắn với tổ chức, nhân
danh tổ chức. Trên cơ sở nhiệm vụ chính trị mà xây dựng tổ chức, có tổ chức mới bố trí cán
bộ, không phải vì cán bộ mà lập ra tổ chức. Xây dựng đội ngũ cán bộ gắn với xây dựng tổ
69
chức Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân.
4/ Thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của quần chúng, nâng
cao trình độ dân trí để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ:
Nghị quyết Đại hội VIII (1996) của Đảng khẳng định: đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cả về lý
luận chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn và năng lực thực tiễn.
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trên cơ sở giáo dục, đào tạo, nâng cao dân
trí để xây dựng đội ngũ cán bộ một cách cơ bản, chính quy, có hệ thống. Thông qua hoạt
động thực tiễn, phong trào cách mạng của quần chúng để đào tạo, đánh giá, sàng lọc, tuyển
chọn cán bộ.
Không đánh giá cán bộ một cách cảm tính, chủ quan. Bằng cấp, danh hiệu, chức vụ, tài
năng đều phải được kiểm nghiệm qua hoạt động thực tiễn. Phong trào cách mạng là trường
học lớn của cán bộ. Phải dựa vào dân để kiểm tra, giám sát cán bộ. “Phải lấy hiệu quả công
tác và đóng góp thực tế làm thước đo phẩm chất và năng lực cán bộ” (Đỗ Mười).
5/ Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên
tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong
hệ thống chính trị:
Đảng trực tiếp xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cho cả hệ thống chính trị trên mọi lĩnh
vực. Đảng phân công, phân cấp quản lý cán bộ cho các cấp ủy và các tổ chức Đảng; thường
xuyên kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ của các ngành các cấp.
Đảng lãnh đạo cán bộ, quản lý cán bộ thể hiện trên các mặt sau:
- Đảng thống nhất quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách cán bộ, cụ thể hóa thành
quy hoạch, kế hoạch, quy chế, quy trình đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, bố trí đề bạt, sử dụng
cán bộ.
- Đảng lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành thực hiện; Đảng quản lý cán bộ theo nguyên
tắc Đảng, pháp luật Nhà nước, điều lệ của các đoàn thể trong hệ thống chính trị.
Tất cả các quyết định về cán bộ phải do cấp ủy có thẩm quyền của Đảng quyết định theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy trách nhiệm của các cơ quan tham mưu trong quá
trình chuẩn bị. Cần khắc phục tình trạng cấp ủy không trực tiếp chăm lo tới công tác cán bộ.
70
III. ĐỔI MỚI CÔNG TÁC CÁN BỘ CỦA ĐẢNG.
Đổi mới công tác cán bộ lãnh đạo các cấp là mắt xích quan trọng nhất mà Đảng ta phải
nắm chắc để thực hiện những cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng. Tiếp tục đổi mới công tác
cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới và kế tục sự
nghiệp cách mạng. Đổi mới cán bộ và công tác cán bộ là đòi hỏi vừa cơ bản vừa bức xúc.
1/ Thực trạng đổi mới cán bộ và công tác cán bộ:
- Mặt mạnh: đại bộ phận cán bộ được thử thách trong quá trình đấu tranh cách mạng lâu
dài, gian khổ, bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Trước khó
khăn do khủng hoảng kinh tế – xã hội, sự sụp đổ ở Liên-xô, Đông Âu… đa số cán bộ vẫn
năng động, sáng tạo, vững vàng. Trình độ, kiến thức và năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã
hội không ngừng được nâng cao.
- Mặt yếu kém: một bộ phận sa sút về phẩm chất chính trị, biểu hiện là: dao động, giảm
niềm tin, nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa Mác - Lênin, về chủ nghĩa xã hội, hoài nghi đường
lối của Đảng, thậm chí muốn lái đất nước sang một hướng khác. Có người phản bội lợi ích
của Đảng, của nhân dân. Một bộ phận thoái hóa biến chất về đạo đức, lối sống, lợi dụng chức
quyền để tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính, lãng phí của công, quan liêu, gia trưởng
độc đoán, tham vọng cá nhân, cục bộ, bản vị, cơ hội, ý thức tổ chức kỷ luật không nghiêm,
phát ngôn bừa bãi, gây mất đoàn kết nghiêm trọng.
- Điều đáng chú ý là: những biểu hiện tiêu cực có xu hướng tăng lên, làm sói mòn bản
chất cách mạng của đội ngũ cán bộ, làm giảm uy tín của Đảng và niềm tin của nhân dân với
chế độ.
Nhiều cán bộ xa lạ với cơ chế thị trường, kiến thức quản lý kinh tế còn hạn chế. Cơ cấu
cán bộ vừa hẫng hụt vừa không đồng bộ; vẫn còn tình trạng vừa thừa vừa thiếu (Nghị quyết
Trung ương III 1997).
Đối với công tác cán bộ, Trung ương đánh giá: công tác cán bộ có nhiều cố gắng, nhưng
đổi mới còn chậm. Những quan điểm đổi mới cán bộ đã sớm xác định, nhưng chậm thể chế
hóa, việc thực hiện thiếu nghiêm túc. Tổng bí thư Đỗ Mười đã nói: Trong công tác xây dựng
Đảng thì công tác cán bộ là quan trọng nhất, là then chốt của vấn đề then chốt.
71
Đối với cán bộ, Tổng bí thư Đỗ Mười nhấn mạnh: Uy tín của không ít cán bộ ngày càng
giảm sút, không còn là công bộc của dân, thậm chí trù dập, ức hiếp dân. Cần sớm khắc phục
tình trạng này, nếu để kéo dài và phát triển thì sẽ dẫn tới nguy cơ không lường hết được.
- Nguyên nhân của những mặt mạnh, mặt yếu và khuyết điểm.
+ Nguyên nhân của những mặt mạnh: Đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng tạo điều
kiện cho cán bộ trưởng thành và cống hiến. Đảng luôn chăm lo giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ. Cùng với đổi mới về hệ thống chính trị, công tác cán bộ của Đảng có những
đổi mới về cơ chế, chính sách. Đội ngũ cán bộ được kế thừa truyền thống đấu tranh cách
mạng kiên cường của Đảng, của dân tộc, được sự giúp đỡ của nhân dân.
+ Nguyên nhân của những yếu kém, khuyết điểm: Bước vào thời kỳ mới, các cấp ủy chưa
dự báo được tình huống mới, chưa hiểu yêu cầu đổi mới cán bộ. Cơ quan làm công tác tổ
chức cán bộ chậm đổi mới, chưa coi trọng nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Thậm chí
người làm công tác cán bộ thiếu gương mẫu, thiếu phẩm chất, thiếu khách quan. Một số cán
bộ không chịu tu dưỡng, rèn luyện, bị chủ nghĩa cá nhân chi phối.
Về khách quan, cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới, môi trường kinh tế phức
tạp, công tác cán bộ lúng túng, bất cập. Các thế lực thù địch tìm mọi cách lung lạc, mua
chuộc, lôi kéo hòng làm biến chất đội ngũ cán bộ.
2/ Mục tiêu của công tác cán bộ:
Công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ phải coi trọng chất lượng, phẩm chất chính trị,
lối sống và năng lực chuyên môn. Chăm lo một cách đồng bộ các loại cán bộ bao gồm: cán
bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đoàn thể; cán bộ lãnh đạo lực lương vũ trang; cán bộ khoa
học, chuyên gia, cán bộ tham mưu trên các lĩnh vực, cán bộ quản lý, kinh doanh.
Điều quan trọng là khi xây dựng đội ngũ cán bộ phải bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục giữa
các thế hệ một cách vững vàng. Đề bạt kịp thời, bố trí đúng người đúng việc đối với cán bộ
trẻ được đào tạo, đã qua thử thách, có đủ năng lực, phẩm chất bảo đảm tính năng động, tính
kế thừa ở các cơ quan lãnh đạo. Đẩy lùi và ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực trong việc đổi
mới cán bộ, giữ vững kỷ luật kỷ cương. Kiên quyết không để lọt những phần tử cơ hội về
chính trị, đầu cơ trục lợi vào các cơ quan lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước.
72
Thay thế kịp thời cán bộ yếu kém. Đổi mới cán bộ nhằm thu hút nhân tài của đất nước
trên tất cả các lĩnh vực, các thành phần kinh tế, bao gồm người Việt Nam yêu nước ở nước
ngoài, không phân biệt người trong Đảng hay người ngoài Đảng.
Bảo đảm có đủ nguồn cán bộ để mỗi nhiệm kỳ có thể đổi mới khoảng 30% đến 40% số
cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể; phấn đấu đến năm 2020 số người có trình độ đại
học trở lên bằng khoảng 4% số dân.
3/ Tiêu chuẩn cán bộ trong thời kỳ mới:
a) Tiêu chuẩn chung:
- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có hiệu quả đường lối của Đảng, pháp luật của
Nhà nước.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, không tham nhũng, kiên quyết đấu tranh chống
tham nhũng; có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực không cơ hội, gắn bó mật thiết với dân,
được nhân dân tín nhiệm.
- Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ sức khỏe để làm việc có hiệu
quả.
Các tiêu chuẩn trên có quan hệ với nhau, coi trọng cả đức và tài, đức là gốc.
b) Tiêu chuẩn cụ thể cho từng loại cán bộ.
- Đối với cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân. Phải có bản lĩnh chính trị
vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách
mạng, với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Có năng lực dự báo và định hướng
sự phát triển, tổng kết thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật, thuyết
phục và tổ chức nhân dân thực hiện. Có ý thức đấu tranh bảo vệ đường lối, gương mẫu về lối
sống; tác phong dân chủ, khoa học, có khả năng tập hợp quần chúng. Có kiến thức về khoa
73
học lãnh đạo và quản lý, đã học tập một cách có hệ thống các trường của Đảng, của Nhà
nước…
- Đối với cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang.
Trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, sẵn sàng hy sinh bảo vệ độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Có tinh thần cảnh
giác cách mạng cao, có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, giữ bí mật quân sự, bí mật quốc gia.
Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước vào việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
- Đối với cán bộ khoa học, chuyên gia.
Cán bộ khoa học, chuyên gia phải có tư duy độc lập, sáng tạo, say mê nghiên cứu, ứng
dụng khoa học công nghệ; bám sát đời sống xã hội, có khả năng tổng kết thực tiễn. Chuyên
gia đầu ngành có khả năng tập hợp và đào tạo cán bộ khoa học.
- Cán bộ quản lý, kinh doanh.
Cán bộ quản lý, kinh doanh phải hiểu biết sâu sắc quan điểm kinh tế của Đảng, có phẩm
chất, đạo đức, cần, kiệm, liêm chính, không tham ô lãng phí; có kiến thức về kinh tế thị
trường và quản trị kinh doanh, hiểu biết khoa học, pháp luật, thông lệ quốc tế; có khả năng tổ
chức kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế - xã hội.
4/ Đổi mới công tác quy hoạch, cơ cấu cán bộ:
a) Đổi mới quy hoạch cán bộ phải coi trọng cả ba mặt: bồi dưỡng, bố trí đúng, kịp thời
thay thế đội ngũ cán bộ yếu, kém năng lực, xử lý cán bộ thoái hóa, tham nhũng, có tư tưởng
chính trị lệch lạc, mất uy tín trước quần chúng; quy hoạch, đào tạo cán bộ dự bị. Trước hết
coi trọng cán bộ lãnh đạo của Đảng, cán bộ quản lý Nhà nước, cán bộ lãnh đạo các đoàn thể,
cán bộ kinh doanh, cán bộ tham mưu, chuyên gia; tổ chức thi tuyển cán bộ (thông qua thi
tuyển sẽ chọn được nhân tài).
b) Đổi mới cơ cấu cán bộ: cơ cấu cán bộ phải chú ý cơ cấu theo độ tuổi, cơ cấu chất
lượng, cơ cấu thành phần, cơ cấu giai cấp, dân tộc, nam nữ. Bảo đảm tính kế thừa ở các cấp
lãnh đạo trên các độ tuổi. Tuy vậy, cơ cấu như thế nào thì cũng phải coi chất lượng làm mục
tiêu.
74
5/ Đổi mới quan điểm đánh giá, tuyển chọn và sử dụng cán bộ.
a) Về đánh giá cán bộ: Đánh giá là vấn đề quan trọng, nó là cơ sở để đề bạt, bố trí cán
bộ. Vì vậy nó phải được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ, khách quan, công tâm. Việc
đánh giá phải được tiến hành hàng năm, trước khi kết thúc nhiệm kỳ hoặc cán bộ thuyên
chuyển công tác. Việc đánh giá phải được tiến hành trên cơ sở nghiêm túc thực hiện chế độ
tự phê bình, phê bình, công khai, dân chủ, kết luận theo đa số. Cán bộ được thông báo ý kiến
nhận xét của cơ quan có thẩm quyền đối với mình.
b) Về phương pháp đánh giá: cần đặt cán bộ trong phạm vi công tác, môi trường hoạt
động, kết hợp nhiều nguồn thông tin khác nhau để đánh giá.
Việc đánh giá cần phải thực chất, tránh hình thức; không đơn thuần dựa vào bằng cấp,
học vị, tuổi tác, không hẹp hòi, định kiến về lý lịch, thành phần xuất thân. Xóa bỏ quan niệm
coi cấp bậc trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước là thước đo giá trị con người trong xã hội.
c) Tuyển chọn cán bộ: Thực hiện chế độ dân chủ, công khai trong việc tuyển chọn cán bộ,
công chức; chọn người đủ tiêu chuẩn… Tránh dùng người bà con quen biết, bạn bè, dùng
người khéo nịnh, ghét người ngay thẳng.
d) Đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ: Cần phải đầu tư thích đáng cho việc cho việc đào
tạo, bồi dưỡng người ưu tú trở thành cán bộ chủ chốt. Coi trọng bồi dưỡng tài năng, có chính
sách ưu tiên cho đối tượng là con em gia đình có công với cách mạng, con gia đình nghèo
vượt khó, học sinh giỏi… Ngày nay trí thức, cách mạng và phát triển gắn liền với nhau. Trí
thức, nhất là trí thức cao cấp, được coi là tài sản quốc gia, là vốn quý của dân tộc. Trong cách
mạng dân tộc dân chủ, trí thức đã quan trọng, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa đội ngũ trí
thức càng có vai trò quan trọng.
- Thực hiện chế độ bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ. Trong công tác cán bộ, thực hiện chế
độ bổ nhiệm có thời hạn; ai không hoàn thành nhiệm vụ, uy tín giảm sút thì có thể cách chức
kịp thời.
đ) Đối với chế độ học tập của cán bộ. Học tập là quyền lợi, nghĩa vụ của cán bộ, đảng
viên. Thực hiện chế độ học tập bắt buộc. Mọi cán bộ phải thường xuyên học tập lý luận chính
trị, chuyên môn, năng lực hoạt động thực tiễn, bồi dưỡng đạo đức. Trước hết là những vấn đề
cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng,
pháp luật Nhà nước.
75
e/ Đổi mới chính sách, chế độ đãi ngộ cán bộ.
Xóa bỏ chính sách bình quân, mang tính bao cấp và những quy định mang tính đặc quyền,
đặc lợi. Có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với người có tài, có cống hiến xuất sắc, quan
tâm tới cán bộ có công với cách mạng. Trả lương thích đáng cho chuyên gia giỏi. Có chính
sách thích hợp để tôn vinh người có công với cách mạng, bà mẹ Việt Nam anh hùng, người
có thành tích xuất sắc trong lao động, sản xuất. Đi đôi với khuyến khích vật chất, nâng cao lý
tưởng cho cán bộ. Tiền lương phải thật sự trở thành bộ phận cơ bản trong thu nhập của cán
bộ, bảo đảm tái sản xuất mở rộng sức lao động. Hiện nay, tiền lương là quá bất hợp lý và lạc
hậu…
Để thực hiện những nhiệm vụ mà Đại hội VIII (1996) nêu ra, chúng ta cần nâng cao bản
lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng và trình độ trí tuệ cho cán bộ, đảng viên. Thường xuyên
bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên về đường lối, chủ trương của Đảng, những vấn đề cơ bản
của chủ nhĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
những kiến thức mới, bảo đảm thống nhất tư tưởng, chính trị, tổ chức trong toàn Đảng.
f) Đổi mới công tác quản lý cán bộ.
Tăng cường sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và trách nhiệm quản lý của các cơ quan nhà
nước, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức sản xuất – kinh doanh đối với công tác cán bộ là
đòi hỏi cấp bách trong tình hiện nay.
Đổi mới công tác quản lý cán bộ nhằm nắm chắc cả đội ngũ cán bộ, từng loại cán bộ và
từng người cán bộ. Muốn vậy, quản lý cán bộ phải theo một quy chế chặt chẽ.
Cần đổi mới việc quy định, phân công phân cấp quản lý cán bộ, xác định rõ quyền hạn,
trách nhiệm và mối quan hệ giữa cơ quan Đảng và Nhà nước, ngành và địa phương, cấp trên
và cấp dưới trong quản lý cán bộ.
Quản lý cán bộ xuất phát từ nhiệm vụ chính trị, quản lý con người gắn với quản lý công
việc. Quản lý hồ sơ lý lịch đi đôi với quản lý cán bộ trong hoạt động thực tiễn, lấy việc quản
lý cán bộ trong hoạt động thực tiễn làm chính.
Cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải đích thân chăm lo công tác cán bộ và chịu trách nhiệm
trước tập thể về tình hình chất lượng đội ngũ cán bộ và quá trình đổi mới cán bộ thuộc cấp
mình quản lý. Chú trọng kiện toàn các cơ quan tham mưu về công tác cán bộ. Không để
76
những người thiếu vững vàng về chính trị, thiếu trung thực, không công tâm, kém năng lực
làm công tác cán bộ. Phải định kỳ tổng kết, rút kinh nghiệm về công tác cán bộ.
Công cuộc đổi mới là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng và cũng là một một
dịp thuận lợi để phát hiện, thử thách và sàng lọc đội ngũ cán bộ. Cấp ủy đảng phải sáng suốt,
tỉnh táo, có quan điểm khách quan, toàn diện, có chủ trương đúng đắn và biện pháp cụ thể để
tiếp tục đổi mới cán bộ và công tác cán bộ.
Câu hỏi ôn tập:
1/ Phân tích những quan điểm của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ.
2/ Trình bày mục tiêu, tiêu chuẩn của cán bộ trong tình hình hiện nay.
77
Bài 11
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I. CHỨC NĂNG VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI NHÀ NƯỚC.
1/ Chức năng của Đảng và Nhà nước.
a) Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội: Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
và với xã hội biểu hiện trên hai mặt sau đây:
Một là: Đảng chỉ rõ phương hướng phát triển của xã hội, những đặc điểm của sự phát
triển của cách mạng nước ta, từ đó vạch ra nhiệm vụ, bước đi, mục tiêu cụ thể cho nhà nước,
xã hội.
Hai là: Sau khi đề ra được phương hướng, mục tiêu cách mạng rồi, Đảng lãnh đạo, tổ
chức mọi lực lượng cách mạng trong xã hội thực hiện phương hướng mục tiêu đó.
Đảng lãnh đạo bằng việc đề ra đường lối, phương hướng chiến lược phát triển kinh tế- xã
hội về lâu dài cũng như trong từng giai đoạn. Với sứ mệnh như vậy, Đảng có vai trò vạch
đường, chỉ lối cho sự phát triển của cách mạng nước ta. Cho nên, sai lầm về đường lối là sai
lầm nghiêm trọng nhất của một Đảng cầm quyền đối với xã hội, đối với vận mệnh dân tộc,
sinh mệnh của toàn dân và hàng triệu đảng viên.
Đảng lãnh đạo về tổ chức là lãnh đạo việc tổ chức thực hiện đường lối, chính sách. Nhưng
sự lãnh đạo chính trị không tách rời sự lãnh đạo về tổ chức. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Thực ra
không thể phân ranh giới dứt khoát vấn đề nào là vấn đề chính trị và vấn đề nào là vấn đề tổ
chức. Bất cứ vấn đề chính trị nào cũng có thể là vấn đề tổ chức, và ngược lại… Không thể
máy móc tách chính trị khỏi tổ chức. Chính trị là do những người này thực hiện… Không thể
tách những vấn đề tổ chức khỏi những vấn đề chính trị được” (V.I.Lênin, Toàn tập, tập 45,
Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1987, tr 147).
78
b) Chức năng của Nhà nước:
Chức năng của Nhà nước là: “Thể chế hóa bằng pháp luật, quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ
của nhân dân lao động và quản lý xã hội theo pháp luật. Nhà nước ta phải bảo đảm quyền dân
chủ thực sự của nhân dân lao động, đồng thời kiên quyết trừng trị những kẻ vi phạm quyền
làm chủ của nhân dân” (Văn kiện Đại hội VI-1986).
Quản lý bằng pháp luật là chức năng riêng của Nhà nước. Ngoài ra Nhà nước còn quản lý
bằng giáo dục, thuyết phục, tổ chức, vận động. Để bảo đảm chức năng quản lý của Nhà nước,
phải tăng cường mạnh mẽ và nhanh chóng pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề có tính
quy luật, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Sự lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa quyết định
quá trình xây dựng và tăng cường pháp luật.
Nhà nước phải quản lý toàn diện, biết điều hành guồng máy một cách nhịp nhàng, hiệu
quả. Pháp luật, chính sách, chế độ phải được mọi người, trước hết là đảng viên chấp hành
nghiêm chỉnh.
Phân định rõ chức năng của Đảng với Nhà nước sẽ khắc phục được tình trạng Đảng áp
đặt, bao biện Nhà nước; hoặc buông lỏng, khoán trắng cho Nhà nước. Cả hai khuynh hướng
trên dẫn tới kết quả là: các cơ quan Nhà nước không thực hiện đúng chức năng của mình và
đường lối, chính sách của Đảng không được thực hiện.
Trong hoạt động của một Đảng lãnh đạo chính quyền cần tránh xu hướng can thiệp quá
sâu vào công tác quản lý của cơ quan Nhà nước.
2/ Mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước:
Trong mối quan hệ này, Đảng tham gia vào công việc Nhà nước, chứ không phải đứng
trên để điều hành Nhà nước. Quyền lực của Nhà nước là do nhân dân ủy thác. Nhà nước là
do nhân dân tổ chức, xây dựng (nhân dân do Đảng lãnh đạo đã đứng lên giành chính quyền),
là công cụ của nhân dân. Nó phải phục tùng ý chí của nhân dân. Chính quyền là vấn đề cơ
bản của mọi cuộc cách mạng, Đảng phải nắm lấy chính quyền, sử dụng chính quyền là điều
kiện tất nhiên để thực hiện sự lãnh đạo của mình trên mọi lĩnh vực của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Nếu Nhà nước tách khỏi sự lãnh đạo của Đảng là một sai lầm nghiêm
trọng.
Nhà nước vẫn là Nhà nước, chỉ có giai cấp nào đủ sức mạnh mới giành được nó về tay
mình. Sức mạnh đó là ở nơi dân. Hồ Chí Minh nói: “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi 79
ích đều vì dân… Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã
đến chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Đảng quan hệ với Nhà nước thông qua hai lực lượng cơ bản là nhân dân và đảng viên
cùng với quần chúng cốt cán của Đảng trong các cơ quan Nhà nước.
Vấn đề là ở chỗ: Đảng phải thường xuên tự đổi mới để nâng cao năng lực lãnh đạo, từ đó
có uy tín trong nhân dân. Nhân dân được giác ngộ, tin cậy, ủng hộ Đảng, tự giác thừa nhận
Đảng là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng; với lực lượng nhân dân như vậy, chính
quyền do dân bầu ra bắt buộc phải chấp hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân; nó chỉ tồn tại
với điều kiện vì nhân dân mà phục vụ.
Đảng với dân gắn bó máu thịt với nhau, chính quyền Nhà nước càng thực hiện dân chủ
bao nhiêu thì dân càng gắn bó mật thiết với Đảng bấy nhiêu.
Như vậy, để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Trước
hết phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước. Nhà nước được dân trao cho
quyền lực, chịu trách nhiệm trước nhân dân. Đảng lãnh đạo phải phát huy vai trò chủ động,
sáng tạo của Nhà nước. Tính hiệu quả và sức mạnh của Nhà nước là thể hiện hiệu quả lãnh
đạo của Đảng.
Từ mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước, cần chấm dứt những tình trạng sau:
- Nắm lấy chính quyền một cách áp đặt, buộc dân phải phục tùng (tuân theo một cách
không tự nguyện).
- Chính quyền Nhà nước độc lập, tách Đảng ra khỏi Nhà nước một cách cực đoan, biến các
tổ chức Nhà nước thành nơi phi chính trị (tức là khộng có sự lãnh đạo của Đảng).
- Coi quyền lực của Đảng cao hơn Nhà nước, chi phối Nhà nước.
II. PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO VÀ PHƯƠNG HƯỚNG TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH
ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC.
1/ Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước:
a) Nội dung, lãnh đạo lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là:
80
- Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách, chủ
trương công tác, lãnh đạo Nhà nước thể chế thành hiến pháp, pháp luật, trên cơ sở đó Nhà
nước điều hành xã hội.
- Đảng kiểm tra, giám sát việc thưc hiện đường lối, nghị quyết của Đảng thông qua hoạt
động của đảng viên và tổ chức Đảng trong các cơ quan Nhà nước và ý kiến của nhân
dân.
- Đảng chăm lo công tác cán bộ, bồi dưỡng, lựa chọn cán bộ, đưa vào ứng cử vào các cơ
quan dân cử hoặc giới thiệu với Nhà nước để đề bạt, bổ nhiệm vào cương vị chủ chốt.
Đảng tôn trọng cơ chế của Nhà nước về bầu cử, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ, không áp
đặt.
- Đảng lãnh đạo xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực sự là Nhà nước
của dân, do dân, vì dân theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Đảng lãnh đạo bằng công tác tư tưởng, tổ chức, bằng vai trò tiên phong, gương mẫu của
đảng viên và tổ chức Đảng.
Những vấn đề có tính nguyên tắc trên vừa là nội dung vừa là phương thức. Nếu đứng ở
góc độ các công việc cụ thể mà Đảng lãnh đạo Nhà nước thì đó là nội dung. Còn nếu với tư
cách là các công cụ, các hình thức, các phương pháp công tác mà Đảng sử dụng để tác động
đến đối tượng lãnh đạo của mình là Nhà nước thì nội dung trên trở thành phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Nội dung trên cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là lãnh đạo toàn diện
(mọi công việc quan trọng của Nhà nước đều có sự lãnh đạo của Đảng).
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ chủ yếu của Đảng là lãnh đạo việc
xây dựng và quản lý nền kinh tế mới, nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa.
Phân biệt càng rõ phạm vi, trách nhiệm lãnh đạo của Đảng với Nhà nước là nội dung quan
trọng trong sự cải tiến, nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng.
b) Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là:
- Bằng dân chủ, thuyết phục, bằng sự gương mẫu của đảng viên, cấp ủy, tổ chức cơ sở
Đảng hoạt động trong các cơ quan Nhà nước, bàn bạc dân chủ, giải thích, thuyết phục cơ
81
quan Nhà nước tự giác, nhất trí với định hướng của Đảng và cụ thể hóa thành chính sách,
chế độ, biện pháp của Nhà nước và tổ chức thực hiện nó.
- Đảng không lãnh đạo bằng pháp luật, hay bằng kinh tế mà bằng công tác tuyên truyền,
giáo dục của các tổ chức Đảng và các đoàn thể quần chúng do Đảng lãnh đạo.
- Đảng bắt buộc mọi tổ chức Đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật của Nhà nước.
Như vậy, đối với đảng viên, ý thức tổ chức kỷ luật, tính Đảng thể hiện ở chỗ: coi trọng kỷ
luật, tôn trọng pháp luật của Nhà nước.
Đảng phải tổ chức cho cán bộ, đảng viên học tập những vấn đề về Nhà nước, pháp luật
(cho dù công tác trên bất kỳ lĩnh vực nào). Cán bộ phải hiểu sâu về chuyên môn, nghiệp vụ.
Muốn thuyết phục được dân, Đảng phải tăng cường công tác giáo dục lý luận, nâng cao
khả năng làm công tác giáo dục của mỗi cán bộ, đảng viên.
2/ Những phương hướng cơ bản nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước trong công cuộc đổi mới hiện nay:
a) Đối với cơ quan quyền lực Nhà nước.
Sự lãnh đạo của Đảng phải bảo đảm quá trình dân chủ hóa, làm cho các cơ quan thực sự
có quyền, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Tư tưởng dân chủ hóa, công khai hóa
phải được quán triệt vào các cơ quan dân cử; xây dựng chế độ bầu cử dân chủ thực sự; cải
tiến các kỳ họp quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, bảo đảm cho các đại biểu có quyền bàn
bạc, có biện pháp tích cực để nâng cao hiệu quả hoạt động của các đại biểu; tăng cường tín
nhiệm của đại biểu dân cử trước cử tri và nhân dân.
b) Đối với cơ quan hành chính. Sự lãnh đạo của Đảng nhằm xây dựng bộ máy nhà nước
gọn nhẹ đủ sức quản lý kinh tế – xã hội. Trước hết đáp ứng được yêu cầu quản lý vĩ mô trong
điều kiện mới, nhất là quản lý nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước, phát huy được quyền chủ động kinh doanh của đơn vị cơ sở.
Xác định nguyên tắc tập trung dân chủ trong điều kiện mới. Tổ chức lại bộ máy nhà nước
từ trung ương đến cơ sở, xây dựng một cơ chế hữu hiệu vừa bảo đảm dân chủ vừa bảo đảm
tập trung thống nhất, loại trừ được bệnh quan liêu cũng như phân tán, cục bộ địa phương
trong bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
82
c) Cơ cấu nhân sự giữa cơ quan Đảng và cơ quan Nhà nước. Thông thường cán bộ lãnh
đạo cơ quan quản lý Nhà nước có thể ở trong cấp ủy Đảng các cấp, các ngành tương đương.
Tất nhiên cơ cấu đó phải được xác định trên cơ sở dân chủ, đúng tiêu chuẩn, chứ không phải
là sự áp đặt của tổ chức đảng. Điều đó bảo đảm tính tích cực, chủ động trong việc giải quyết
các vấn đề do thực tế đặt ra.
Mặt khác, các đảng viên làm trong các cơ quan nhà nước, thông qua bầu cử dân chủ, họ
có thể trở thành đại biểu quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp.
d) Bồi dưỡng, lựa chọn đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước được tăng cường khi Đảng bồi dưỡng được đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ
khoa học kỹ thuật nhằm tập hợp trí tuệ, phát huy được tiềm năng của đất nước trong công
cuộc đổi mới.
Đảng cần hướng vào việc đào tạo đội ngũ cán bộ và xây dựng chính sách cán bộ mới, xây
dựng cơ chế nhằm phát hiện nhân tài cho đất nước.
Câu hỏi ôn tập:
1/ Trình bày chức năng của Đảng và Nhà nước.
2/ Phân tích mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước.
3/ Phân tích nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối Nhà nước.
4/ Trình bày những phương hướng nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước trong tình hình hiện nay.
83
Bài 12
KỶ LUẬT CỦA ĐẢNG VÀ VIỆC
THI HÀNH KỶ LUẬT TRONG ĐẢNG
I. MỤC ĐÍCH, TÍNH CHẤT, NỘI DUNG KỶ LUẬT TRONG ĐẢNG.
1/ Mục đích:
Kỷ luật trong Đảng là nhằm giữ vững sự đoàn kết nhất trí, tăng cường sức chiến đấu,
ngăn ngừa khuyết điểm, sai lầm, giáo dục đảng viên giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng.
Kỷ luật nghiêm minh bảo đảm cho Đảng luôn luôn trong sạch, vững mạnh xứng đáng là đội
tiên phong, là lực lượng lãnh đạo của giai cấp và của cả dân tộc.
Đối với các Đảng Cộng sản chân chính, thi hành kỷ luật là nhằm tăng cường sức mạnh và
bảo đảm sự tồn vong của Đảng. Nói về sự cần thiết phải thi hành kỷ luật của Đảng, Hồ Chí
Minh khẳng định: “Sửa chữa sai lầm cố nhiên cần dùng cách giải thích, thuyết phục, cảm
hóa, dạy bảo. Song không phải tuyệt nhiên không dùng sử phạt. Lầm lỗi có việc to, việc nhỏ.
Nếu nhất loạt không xử phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại”
(Hồ Chí Minh: Về xây dựng Đảng, Nxb Sự thật Hà Nội, 1970).
2/ Tính chất kỷ luật của Đảng:
Kỷ luật của Đảng là kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác.
Tính nghiêm túc của kỷ luật Đảng thể hiện ở chỗ: mọi tổ chức, mọi đảng viên đều phải
chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp
trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn
quốc, Hội nghị đại biểu và Ban chấp hành Trung ương, không có ngoại lệ.
84
Tính tự giác là đặc trưng cơ bản của kỷ luật Đảng. Tính tự giác thể hiện trong mọi điều
kiện, hoàn cảnh, dù trong điều kiện hoạt động tập trung hay hoạt động độc lập, mọi tổ chức,
đảng viên đều phải chấp hành kỷ luật Đảng. Nhưng chỉ có sự tự giác, chỉ có thống nhất về
chính trị, tư tưởng thôi thì chưa đủ, mà còn phải có sự thống nhất về tổ chức. Cho nên, đi đôi
với tự giác còn phải có sự bắt buộc. Bắt buộc là tất yếu đối với mọi thứ kỷ luật. Nhưng sự bắt
buộc trong kỷ luật Đảng được xây dựng trên cơ sở giác ngộ chính trị ngày càng cao của mọi
đảng viên.
3/ Nội dung kỷ luật của Đảng:
Hiện nay, nội dung kỷ luật của Đảng bao gồm: kỷ luật trong nội bộ Đảng (thể hiện tập
trung ở Điều lệ Đảng); hiến pháp, pháp luật, quy định của nhà nước; kỷ luật của các đoàn thể
chính trị – xã hội mà đảng viên tham gia.
a) Kỷ luật trong nội bộ Đảng:
Thể hiện ở chỗ: Mọi đảng viên và tổ chức đảng phải chấp hành nghiêm chỉnh cương lĩnh
chính trị, đường lối ghi trong nghị quyết của Đảng. Điều lệ Đảng là những quy định chung
mang tính nguyên tắc, bắt buộc của toàn Đảng, mọi tổ chức đảng và đảng viên có trách
nhiệm nghiêm chỉnh thực hiện.
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng được thể hiện và quán triệt trong các nghị quyết của
các đại hội Đảng, nó được cụ thể hóa thành các nghị quyết, chỉ thị, quy định… của các cấp
ủy. Mọi tổ chức và đảng viên đều phải chấp hành nghiêm chỉnh các nghị quyết, chỉ thị, quy
định của Đảng và các cấp ủy
b) Xử lý bằng pháp luật của Nhà nước.
Đảng ta là Đảng cầm quyền, mọi đường lối, chính sách, chỉ thị, nghị quyết của Đảng
được thể chế thành hiến pháp, pháp luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định, quy chế của Nhà
nước. Mọi đảng viên và tổ chức đảng đều phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, các quy
định, quy chế… của cơ quan Nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật.
c) Kỷ luật của các đoàn thể chính trị – xã hội:
Các đoàn thể chính trị – xã hội được lập ra, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhằm thực hiện
thắng lợi Cương lĩnh chính trị và các nghị quyết, chính sách của Đảng. Mỗi đoàn thể đều có
85
tôn chỉ, mục đích, điều lệ, kỷ luật riêng. Vì vậy, mọi đảng viên tham gia trong các đoàn thể
chính trị – xã hội, đều có trách nhiệm gương mẫu xây dựng các đoàn thể vững mạnh và chấp
hành nghiêm túc điều lệ và kỷ luật của đoàn thể mà mình tham gia.
Mọi đảng viên và các tổ chức đảng làm trái Cương lĩnh chính trị, chấp hành không
nghiêm túc Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà
nước; điều lệ và kỷ luật của các đoàn thể chính trị – xã hội… đều là vi phạm kỷ luật của
Đảng.
II. VIỆC THI HÀNH KỶ LUẬT TRONG ĐẢNG.
1/ Phương châm:
Khi tiến hành kỷ luật Đảng phải bảo đảm phương châm: công minh, chính xác, kịp thời.
- Công minh: Tức là mọi đảng viên phải chấp hành kỷ luật Đảng, bình đẳng, không có
ngoại lệ.
- Chính xác: Tức là kỷ luật đúng Điều lệ Đảng, đúng người, đúng mức độ, đúng tác hại,
đúng nguyên nhân, hoàn cảnh.
- Kịp thời: Tức là phải tiến hành một cách khẩn trương, không được chậm trễ, mất tính
giáo dục.
2/ Phương hướng thi hành kỷ luật trong Đảng:
- Việc thi hành kỷ luật phải căn cứ vào nhiệm vụ chính trị.
- Căn cứ và nội dung của công tác xây dựng Đảng.
Hiện nay, khai trừ những người không đủ tư cách đảng viên, những người thoái hóa, biến
chất, tham nhũng, cơ hội, bè phái, ức hiếp quần chúng … ra khỏi Đảng là yêu cầu khách
quan, cần thiết để bảo đảm cho Đảng trong sạch, vững mạnh.
III. CÁC HÌNH THỨC KỶ LUẬT VÀ THẨM QUYỀN THI HÀNH KỶ LUẬT
TRONG ĐẢNG.
1/ Các hình thức thi hành kỷ luật trong Đảng:
a) Đối với đảng viên: Có 4 hình thức, đó là:
86
- Khiển trách,
- Cảnh cáo,
- Cách chức,
- Khai trừ khỏi Đảng.
b) Đối với tổ chức đảng: Có 3 hình thức, đó là:
- Khiển trách,
- Cảnh cáo,
- Giải tán.
c) Đối với đảng viên dự bị: Có 2 hình thức, đó là:
- Khiển trách,
- Cảnh cáo, hết thời kỳ dự bị, chi bộ vẫn xem xét công nhận đảng viên chính thức, nếu
vi phạm nghiêm trọng, xét không đủ tư cách đảng viên thì quyết định xóa tên trong
danh sách dự bị.
2/ Tổ chức có thẩm quyền thi hành kỷ luật:
- Hội nghị chi bộ.
- Ban chấp hành đảng bộ các cấp của Đảng.
- Ủy ban kiểm tra các cấp từ trung ương đến đảng ủy cơ sở.
3/ Thẩm quyền thi hành kỷ luật đối với đảng viên:
+ Đối với đảng viên không giữ chức vụ, hội nghị chi bộ có quyền: khiển trách, cảnh cáo
với biểu quyết của trên một nửa số đảng viên chính thức trong chi bộ.
- Nếu bị khai trừ, Đảng phải được biểu quyết của ít nhất 2/3 số đảng viên chính thức của
chi bộ, phải được đảng ủy cơ sở (nếu có) tán thành, ủy ban kiểm tra cấp trên trực tiếp tổ
chức cơ sở đảng hoặc đảng ủy cơ sở được ủy quyền chuẩn y.
87
+ Đối với đảng viên là cán bộ do cấp ủy cấp trên quản lý, nhưng không phải cấp ủy viên
các cấp:
Chi bộ, khiển trách, cảnh cáo đảng viên phạm kỷ luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của
chi bộ, về lối sống với biểu quyết trên 1/2 số đảng viên chính thức của chi bộ. Nhưng phải
báo cáo lên ủy ban kiểm tra cấp quản lý cán bộ đó để thẩm tra lại.
Nếu phải xử lý bằng hình thức cao hơn thì chi bộ có quyền đề nghị lên cấp ủy và ủy ban
kiểm tra của cấp quản lý cán bộ đó xem xét.
Chi bộ cũng có quyền đề nghị các hình thức kỷ luật đảng viên phạm kỷ luật trong việc
thực hiện nhiệm vụ cấp trên giao và báo cáo lên cấp ủy, ủy ban kiểm tra cấp quản lý cán bộ
đó xem xét.
+ Đối với đảng viên là ủy viên ban chấp hành các cấp (kể cả ủy viên Ban chấp hành
Trung ương): Chi bộ có quyền chủ động khiển trách, cảnh cáo đảng viên phạm kỷ luật trong
việc thực hiện nhiệm vụ của chi bộ hoặc về lối sống với sự biểu quyết đồng ý của hơn 1/2 số
đảng viên chính thức trong chi bộ và phải báo cáo lên cấp ủy cấp trên trực tiếp và cấp ủy cao
nhất mà đảng viên đó là thành viên để thẩm tra lại.
Nếu cần xử lý hình thức kỷ luật cao hơn thì chi bộ đề nghị lên cấp trên trực tiếp và cấp ủy
cao nhất mà đảng viên đó là thành viên để xem xét.
+ Đối với chi ủy viên: Chi bộ có quyền cách chức chi ủy viên với biểu quyết trên 1/2
đảng viên chính thức của chi bộ và phải báo cáo lên cấp ủy cấp trên trực tiếp chuẩn y.
Nếu áp dụng hình thức khai trừ chi ủy viên thì phải có biểu quyết đồng ý của ít nhất 2/3
đảng viên chính thức của chi bộ, phải được đảng ủy cơ sở (nếu có) tán thành, cấp ủy cấp trên
trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng chuẩn y.
4/ Thẩm quyền thi hành kỷ luật đối với tổ chức đảng:
Điều 36 Điều lệ Đảng quy định:
Kỷ luật khiển trách một tổ chức đảng do cấp ủy cấp trên trực tiếp quyết định với biểu
quyết đồng ý của trên 1/ 2 ủy viên ban chấp hành.
Kỷ luật giải tán một tổ chức đảng do cấp ủy cấp trên trực tiếp quyết định với sự đồng ý
của ít nhất 2/ 3 số uỷ viên ban chấp hành và phải được cấp ủy cấp trên cách một cấp (của tổ
88
chức đảng bị giải tán) chuẩn y. Quyết định đó phải được báo cáo lên Ban chấp hành Trung
ương và Ủy ban kiểm tra Trung ương. Chỉ có các cấp ủy đảng mới có thẩm quyền thi hành
kỷ luật đối với các tổ chức đảng.
* Một số điểm cần lưu ý:
- Thi hành kỷ luật đối với tổ chức đảng chỉ đặt ra trong trường hợp: tổ chức đảng mắc sai
lầm về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn về tổ chức.
- Khi thi hành kỷ luật một tổ chức đảng, phải xem xét toàn bộ, quy rõ trách nhiệm thuộc về
phạm vi tổ chức (ban thường vụ, ban chấp hành hoặc toàn thể đảng bộ, chi bộ), hoặc trách
nhiệm đó thuộc về cá nhân để có biện pháp xử lý cho đúng.
- Một tổ chức đảng bị kỷ luật thì mọi thành viên trong tổ chức đó phải chịu trách nhiệm, trừ
những đồng chí biểu quyết không tán thành quyết định sai lầm đó và những đồng chí
không liên quan trực tiếp đến sai lầm đó.
- Chỉ giải tán chi bộ, đảng bộ hoặc ban chấp hành nếu vi phạm một trong ba trường hợp
sau: có ít nhất 2/3 số đảng viên hoặc 2/3 số ủy viên ban chấp hành vi phạm sai lầm đến
mức phải khai trừ ra khỏi Đảng; tập thể đó phải có hành động chống đối lại đường lối,
chính sách của Đảng, Hiến pháp, Pháp luật của Nhà nước một cách có ý thức, có đủ bằng
chứng tập thể đó không đủ tin cậy về chính trị.
- Ở chi bộ, đảng bộ bị giải tán, đối với những đảng viên có khuyết điểm tuy chưa đến mức
khai trừ nhưng cần thi hành kỷ luật bằng những hình thức khác thì phải được kiểm điểm
và xử lý trước khi chuyển đến sinh hoạt ở tổ chức mới, còn những đảng viên không được
chuyển sinh hoạt Đảng vào chi bộ mới thì đương nhiên bị khai trừ ra khỏi Đảng, không
cần có quyết định riêng.
IV. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGUYÊN TẮC, THỦ TỤC THI HÀNH KỶ LUẬT TRONG
ĐẢNG.
1/ Trước khi quyết định kỷ luật:
Tổ chức đảng có trách nhiệm nghe đảng viên hoặc người đại diện của tổ chức đảng bị
xem xét về kỷ luật trình bày ý kiến, với nhiều hình thức tổ chức khác nhau, có thể gặp và
nghe trước hoặc trong cuộc họp xem xét kỷ luật.
89
Dù trong trường hợp nào cũng tạo điều kiện thuận lợi và tổ chức bị kỷ luật trình bày ý
kiến của mình, bảo đảm dân chủ trong sinh hoạt Đảng.
2/ Quyết định thi hành kỷ luật của Đảng:
Quyết định thi hành kỷ luật có hiệu lực ngay sau khi tổ chức có thẩm quyền quyết định
hoặc chuẩn y.
Trường hợp nghị quyết về khai trừ đảng viên hoặc giải tán tổ chức đảng chưa được cấp ủy
hoặc ủy ban kiểm tra có thẩm quyền chuẩn y, đảng viên đó vẫn được sinh hoạt trong Đảng, tổ
chức đó vẫn hoạt động.
3/ Sau khi công bố quyết định kỷ luật:
Sau khi công bố quyết định kỷ luật, nếu không đồng ý, thì trong ba tháng, đảng viên hoặc
tổ chức đảng bị thi hành kỷ luật có quyền yêu cầu tổ chức đã quyết định kỷ luật đó xem xét
lại và được khiếu nại lên cấp ủy hoặc ủy ban kiểm tra cấp trên cho đến Ban chấp hành Trung
ương đảng.
Trong khi chờ giải quyết khiếu nại, đảng viên và tổ chức đảng bị kỷ luật vẫn phải chấp
hành nghiêm chỉnh quyết đã ban hành. Nếu qua thời hạn ba tháng mới khiếu nại thì sẽ không
được giải quyết.
4/ Đảng viên bị tòa án xử phạt:
Đảng viên bị tòa xử phạt, từ cải tạo không giam giữ trở lên thì phải khai trừ khỏi Đảng.
Trường hợp bị xử oan, được tòa án có thẩm quyền hủy án thì sẽ được xem xét lại việc
khai trừ khỏi Đảng.
5/ Đối với đảng viên bị kỷ luật (khiển trách, cảnh cáo, cách chức):
Tổ chức đảng có trách nhiệm xem xét kịp thời công nhận đảng viên “đã sửa chữa khuyết
điểm”. Sớm nhất là sáu tháng, chậm nhất là một năm, chi bộ – nơi đảng viên sinh hoạt phải
họp để nghe đảng viên đó báo cáo lên cấp ủy cấp trên hoặc ủy ban kiểm tra cấp trên; cấp nào
ra quyết định thì cấp đó chuẩn y công nhận đảng viên viên đó đã sửa chữa khuyết điểm.
6/ Những việc cần làm khi xử lý một vụ kỷ luật:
90
Tổ chức cấp có thẩm quyền thi hành kỷ luật và thủ trưởng cơ quan (nếu có) nơi có đảng
viên phạm sai lầm để nắm nội dung vi phạm của đảng viên đó, tình hình chung trong chi bộ,
đảng bộ và bàn kế hoạch xem xét.
Gặp đảng viên phạm sai lầm để động viên, hướng dẫn làm kiểm điểm, đồng thời gặp
những tổ chức và những người biết sự việc để nghiên cứu, xem xét thêm.
Họp tổ đảng, chi bộ để đảng viên phạm sai lầm trình bày kiểm điểm.
Nếu có điểm nào chưa rõ có thể hỏi thêm hoặc gởi ý bổ sung khi cần thiết, phải tiếp tục
thẩm tra, xác minh. Nếu bản kiểm điểm đã nêu đầy đủ thì tập thể chi bộ thảo luận, góp ý
kiến, kết luận và biểu quyết hình thức kỷ luật. Nếu hình thức kỷ luật là khiển trách hoặc cảnh
cáo đối với đảng viên thì nghị quyết của chi bộ là có hiệu lực ngay.
Nếu có những hình thức kỷ luật khác thì chi bộ, cấp ủy đề nghị lên tổ chức đảng có thẩm
quyền quyết định. Sau khi có quyết định kỷ luật của cấp trên, đại diện của cấp ủy gặp người
phạm sai lầm để công bố quyết định thi hành kỷ luật và động viên người phạm kỷ luật chấp
hành nghiêm, đồng thời công bố cho chi bộ, đảng bộ biết trong một cuộc họp gần nhất.
Hoàn thành hồ sơ kỷ luật, cấp nào ra quyết định kỷ luật thì cấp đó lập và lưu trữ hồ sơ.
Câu hỏi ôn tập:
1/ Trình bày mục đích, tính chất, nội dung, phương châm kỷ luật của Đảng.
2/ Trình bày các hình thức kỷ luật và thẩm quyền thi hành kỷ luật trong Đảng.
3/ Trình bày một số vấn đề về nguyên tắc, thủ tục tiến hành kỷ luật trong Đảng.
91
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu Nghị quyết
Hội nghị VI (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1999.
2. Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng tại Đại hội VII, Nxb Sự thật, Hà Nội,
1991.
3. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1991.
4. Lê Duẩn, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên
giành những thắng lợi mới, Nxb Tiền phong, 1970.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001.
6. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội. 1996.
7. Lê Mậu Hãn, Đảng Cộng sản Việt Nam - các Đại hội và Hội nghị Trung ương, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
8. Hoàng Văn Hảo, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới – Sự hình thành và phát
triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
9. Lê Văn Lý (chủ biên), Xây dựng Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội,
1995.
10. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
11. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1985.
12. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987.
13. Hồ Chí Minh, Về xây dựng Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980.
14. Mạch Quang Thắng, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1995.
92
15. Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc, Trích tác phẩm kinh điển về xây dựng Đảng,
Nxb Sách giáo khoa Mác – Lênin, Hà Nội, 1984.
16. N.A.PÊ-TƠ-RÔ-VI-TRÉP… Xây dựng Đảng (Sách giáo khoa), Nxb Sự thật, Hà Nội,
1995.
17. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1996.
18. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991.
93
94