
Thị Trường Chứng Khoán Việt-Nam :
Nguyên Nhân và Hậu Quả của Sự Bất
Ổn ( Vietnam stock markets: causes and
effects of unstability )
GS Nguyễn Quốc Khải
Thị trường chứng khoán là một phần của khu vực tài chánh của một quốc
gia. Đây là một nguồn vốn dài hạn quan trọng đối với sự phát triển kinh tế
của một nước. Trong thời gian gần đây, thị trường chúng khoán non trẻ của
Việt Nam liên tục biến động theo chiều hướng không mấy thuận lợi. Để tìm
hiểu thêm, Đỗ Hiếu trao đổi cùng giáo sư Nguyễn Quốc Khải, chuyên gia
kinh tế-tài chính Việt Nam từng cộng tác với Ngân hàng Thế giới và giảng
dạy tại đại học Johns Hopkins.
Thưa giáo sư, tin tức cho biết trong những tuần qua chỉ số Vn Index của thị
trường chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh biến động không ngừng, và
có chiều hướng suy giảm hơn là tăng trưởng. Giáo sư có nhận xét gì về thị
trường chứng khoán Việt Nam nói chung ?
Người Việt trước đây có tiền thường theo thói quen mua vàng, ngoại tệ,
hoặc bất động sản để tiết kiệm và kiếm lời đồng thời giảm ảnh hưởng của
lạm phát. Số tiền này là tiền chết, không lưu hành được trong thị trường,
không sản xuất gì được. Ngày nay người dân Việt Nam có thêm một môi
trường để đầu tư Thị trường chứng khoán thu hút một phần nào món tiền
chết khổng lồ kia và làm giảm bớt gánh nặng của hệ thống ngân hàng về

nguồn vốn.
Chỉ số của thị trường chứng khoán Việt-Nam tăng 85% trong hai năm
2004-2005 và tăng vọt 145% vào năm 2006. Nhưng trong 6 tháng đầu của
năm 2007 chỉ số này chỉ tăng được 35%. Phân tách kỹ lưỡng hơn, người ta
thấy rằng vào cuối tháng 1 và đầu tháng 2 năm 2007, chỉ số của thị trường
chứng khoán Việt-Nam trong vòng một tuần lễ đã tăng gần 100 điểm từ
974,76 vào ngày 26-01-2007 nhẩy vọt lên đến 1.074,55 vào ngày 02-02-
2007. Đây là một mức gia tăng cao nhất từ khi thị trường chứng khoán
được thiết lập vào tháng 7 năm 2000 với chỉ số đầu tiên là 100.
Thưa giáo sư, chính phủ Việt Nam từng nêu lên quan ngại về tình trạng
"bùng nổ" ở thị trường chứng khoán và đã có áp dụng một số biện pháp "hạ
nhiệt", kết quả ra sao, thưa giáo sư ?
Vào đầu năm nay Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước (UBCKNN) đã thi
hành một số biện pháp để minh bạch hóa thị trường chứng khoán và làm
giảm con sốt của thị trường này.
Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước tiếp tục duy trì mức đầu tư ngoại quốc tối
đa là 49% của tổng số cổ phần của mỗi công ty. Trong khi đó Ngân Hàng
Nhà Nước chỉ cho phép các ngân hàng được sử dụng tối đa 20% vốn để
mua chứng khoán. Đối với tư nhân muốn vay tiền để mua cổ phiếu họ phải
dùng đất, nhà, hoặc dụng cụ để bảo đảm món tiền nợ. Những biện pháp này
nhắm làm giảm sức mua trên thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên đây cũng là những dấu hiệu của một chính sách quản trị thị
trường một cách vá víu, thiếu chặt chẽ, làm giảm sự tin cậy. Đây cũng
chính là một số những lý do khiến cho tập đoàn tài chánh Hoa-Kỳ Merrill
Lynch phải rút ra khỏi thị trường chứng khoán Việt-Nam.
Từ mấy tháng nay thị trường chứng khoán Việt Nam ở cả hai sàn Sàigòn và
Hà Nội đều có dấu hiệu suy yếu, hiện trạng ra sao thưa giáo sư ?
Hồi giữa năm nay thị trường chứng khoán đã nguội bớt. Chỉ số vẫn tăng
nhưng mức tăng ít hơn. Người ta không thấy hiện nay thị trường có khả
năng vượt lên quá xa mức tâm lý 1.000 điểm. Trong khi đó vào tháng 5 và
tháng 6, chỉ số chứng khoán của Việt-Nam đã có lúc giảm dưới 1.000 điểm.

Chỉ số này xuống còn 883,9 vào ngày 6-8-2007.
Người ta hi vọng kế hoạch cổ phần hóa một số công ty quốc doanh lớn sẽ
có thể đẩy chỉ số của Việt-Nam lên cao trở lại. Nhưng vì trạng thị trường
chứng khoán suy yếu, nhà nước đã xếp kế hoạch này lại.
Theo các chuyên gia chứng khoán quốc tế thì do đâu mà có tình trạng đó ?
Phần đông những tư nhân mua chứng khoán lại không hiểu biết về thị
trường và chỉ nhắm vào lợi nhuận trong ngắn hạn. Đây cũng là một trong
những nguyên nhân làm giá cả lên xuống thất thường. Mặt khác, những báo
cáo tài chánh của các công ty cổ phiếu vừa dài vừa phức tạp với những
danh từ chuyên môn khó hiểu và mức tin cậy không bảo đảm còn rất xa lạ
với quần chúng Việt-Nam.
Ngoài ra, những công ty ghi danh bán chứng khoán chỉ đệ nạp phúc trình
tài chánh cho Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước. Phải mất vài ngày những
phúc trình này mới được phổ biến ra ngoài. Trong thời gian chờ đợi những
nhân viên phụ trách môi giới chứng khoán này có thể sử dụng tin tức trong
các bản phúc trình để mua bán chứng khoán cho chính mình. Trên thực tế
đây chính là một hình thức mua bán nhờ thông tin nội bộ.
Trầm trọng hơn là hiện tượng lũng đoạn thị trường chứng khoán bởi những
“đại gia” từ cuối năm 2005. Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước chỉ ghi nhận
sự kiện này mà không đưa ra biện pháp nào cả.
Một yếu điểm khác của thị trường chứng khoán Việt-Nam là các công ty
Việt Nam có thói quen phát hành quá nhiều cổ phiếu làm cho tỉ lệ lợi nhuận
trên trị giá cổ phiếu ( earnings per share - EPS ) thấp xuống đến 10% mà
không cân nhắc lợi hại. Nguyên tắc là các công ty chỉ nên phát hành thêm
cổ phiếu, khi việc kinh doanh phát triển tốt đẹp.
Hiện nay tại Việt-Nam không một công ty nào ghi danh với thị trường
chứng khoán được kiểm toán bởi một công ty quốc tế. Việt-Nam chỉ có 11
công ty kiểm toán địa phương được phép hoạt động mà phần lớn còn yếu
kém và mức tin cậy và minh bạch của những báo cáo tài chánh do những
công ty soạn thảo còn là một vấn đề cần được bàn thảo.