HUFLIT International Conference On Ensuring A High-Quality Human Resource In The Modern Age - Oct 16, 2020
doi: 10.15625/vap.2020.0068
THC TRNG VÀ GIẢI PHÁP ĐÀO TO NGUN NHÂN LC C TA
TRƯỚC YÊU CU CÁCH MNG CÔNG NGHIP 4.0
Nguyn Duy Quý1, Lê Nguyên Tnh2
1Khoa Giáo dục Chính trị, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
2Khoa Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Kỹ thuật quân sự, Bộ Quốc phòng
nduyquy@gmail.com
TÓM TẮT: Bài viết sử dụng phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp, nghiên cứu về tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
đối với công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao nước ta hiện nay. Kết quả nghiên cứu cho thấy, công tác đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao Việt Nam hiện nay bên cạnh những kết quả đạt được, còn tồn tại nhiều hạn chế. Từ đó, bài viết đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng u cầu cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Ngun nhân lc chất lượng cao; đào tạo ngun nhân lc chất lượng cao; cách mng công nghip 4.0.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cách mạng công nghiệp 4.0 đã đang diễn ra với tốc độ nhanh, nhiều biến động khó lường, tác động đến quá trình
phát triển kinh tế - hội của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó Việt Nam. Dưới c động của ng nghệ thông
tin, trí tuệ nhân tạo, những thách thức đặt ra đối với đời sống hội ngày càng lớn. Những yêu cầu về nguồn nhân lực
đối với từng ngành, từng nh vực đang thay đổi theo hướng ngày ng coi trọng năng lực tự làm việc của người lao
động. Điều này đặt ra yêu cầu cần những chính sách hợp đối với hệ thống giáo dục đào tạo của nước ta để tạo
ra nguồn nhân lực chất lượng cao năng lực chuyên môn, khả năng sử dụng công nghệ tiên tiến nhằm tận dụng
những cơ hội cũng như vượt qua những thách thức mà cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại.
II. NỘI DUNG
A. Bối cảnh lịch sử và đặc trưng của cách mạng công nghiệp 4.0
Trong hơn ba thế kỷ qua, nhân loại đã trải qua nhiều thay đổi sâu sắc về kinh tế - hội, những thay đổi đó đều nhờ
vào các cuộc cách mạng công nghiệp.
Lần thứ nhất, diễn ra tại Tây Âu và Bắc Mỹ từ nửa cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX với thành tựu nổi bật là việc
chế tạo máy móc (đặc biệt đầu máy hơi nước), phát triển giao thông ường sắt đường biển). Đây cuộc cách
mạng công nghiệp hình thành nên chủ nghĩa tư bản.
Lần thứ hai, được bắt đầu từ nửa cuối thế kỷ XIX đến đầu Thế chiến thứ nhất (1914) với thành tựu bản động
đốt trong (gắn với sự hình thành của các xe giới) điện. Phạm vi của cuộc cách mạng công nghiệp lần II diễn ra
rộng hơn so với lần thứ nhất, tuy nhiên trung tâm của nó vẫn nằm tại châu Âu và Bắc Mỹ.
Lần thứ ba, được bắt đầu vào cuối những năm 1960 với sự xuất hiện của ngành điện tử công nghệ thông tin. Cuộc
cách mạng này vẫn còn tiếp diễn hiện chưa xác định được thời điểm kết thúc. Đây cuộc cách mạng gắn với q
trình toàn cầu hóa sâu rộng, với phạm vi ảnh hưởng đến hầu hết mọi quốc gia trên thế giới.
Thuật ngữ cách mạng công nghiệp 4.0 khá mới, lần đầu tiên được đề cập đến tại Hội nghị triển m ng nghệ tại
Hannover, Đức sau đó thuật ngữ công nghiệp 4.0 chính thức được đưa vào Kế hoạch hành động chiến lược công
nghệ cao được Chính phủ Đức thông qua vào năm 2012. Tuy nhiên, tầm quan trọng và cấp bách của cách mạng 4.0
chính phủ nhiều nước đã chiến lược ứng phó, trong đó Nhật Bản với chính sách “Sáng kiến chuỗi giá trị công
nghiệp”, Hàn Quốc với chiến lược “Sáng kiến đổi mới sản xuất 3.0”, Trung Quốc với “Made in China 2025”, Đài Loan
với “Sáng kiến năng suất 4.0”. Những chiến lược nói trên cung cấp cách tiếp cận góp phần xây dựng hệ thống giải
pháp nhằm tận dụng những cơ hội, hạn chế những tác động tiêu cực của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Xuất phát từ sự hiểu biết còn hạn chế của con người về cuộc cách mạng công nghiệp, các tổ chức và cá nhân đã bắt đầu
những nghiên cứu vấn đề này dưới nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trong đó, hầu hết các ng trình tập trung tìm
hiểu về tác động của cuộc cách mạng đối với lĩnh vực sản xuất và vấn đề việc làm của nguời lao động.
Chủ tịch WEF ASEAN Klaus Schwab: “Những ai muốn thành công trong tương lai cần tận dụng lợi thế đến từ cuộc
Cách mạng công nghiệp 4.0. Đầu tiên, họ cần nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng của sự chuyển mình này. Sự kết hợp
của ng nghệ trong các lĩnh vực vật lý, số hóa sinh học, tạo ra những khả năng hoàn toàn mới tác động sâu
sắc đối với các hệ thống chính trị, hội, kinh tế của thế giới. Khi đó, một thế giới chạy bằng rôbốt máy tính trí
tuệ nhân taọ sẽ phát triển tới mức thay thế con người trong việc phán đoán và quản lý các hệ thống phức tạp” [6].
108 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC Ở NƯỚC TA TRƯỚC YÊU CẦU CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Hình 1. Tiến trình các cuộc cách mạng công nghiệp. (Nguồn: Nguyễn Hoàng Hà, 2017)
Theo Nguyễn Hoàng Hà, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ sẽ 03 đặc trưng nổi trội gắn với những đột phá
công nghệ trong 03 thế giới: “Thứ nhất, những tiến bcăn bản trong thế giới thực (vật lý) với sự phát triển của c
thiết bị tự động hóa, công nghệ in 3D, -bốt hiện đại các dạng vật liệu mới. Thứ hai, nhân loại đạt được những
bước tiến vượt bậc về thế giới số (ảo) làm ng khả năng tương tác với thế giới thực nhờ phát triển của Internet of
Things IoT (Mọi vật kết nối) sự ra đời của các cảm biến hiện đại. Thứ ba, những đột phá về thế giới sinh vật với
việc xây dựng biểu đồ gen tiết kiệm rất nhiều nguồn lực tài chính và thời gian so với trước” [5, tr. 405-415].
Bên cạnh đó, cách mạng công nghiệp 4.0 sẽm cho sự kết nối giữa con người vày móc trở nên chặt chẽ, máy móc
sẽ trở nên thông minh hơn dẫn đến mối quan hệ giữa con người và máy móc trở thành mối quan hệ cộng tác chứ không
đơn thuần sự điều khiển. Sự cộng tác dựa trên nền tảng công nghệ thông tin được gọi internet kết nối vạn vật
(IoT).
Ngoài ra, năng lực sản xuất của hội xét về mặt thời gian sẽ được rút ngắn bởi quy trình sản xuất được thực hiện
thông minh, các vấn đề phát sinh được giải quyết nhanh chóng. Đồng thời, sự hao phí trong quá trình sản xuất sẽ được
hạn chế tối đa góp phần tiết kiệm chi phí, nguyên, nhiên liệu.
Từ những đặc trưng nói trên thể nhận thấy sự tác động mạnh mẽ của cách mạng công nghiệp lần thứ đến toàn bộ
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
B. Các yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam trong cách mạng công nghiệp 4.0
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tác động mạnh mẽ đến toàn bộ nền kinh tế - hội và văn hóa của nhân loại
nói chung và Việt Nam nói riêng. Đối diện với những thời cơ, thách thức đó, Việt Nam cần đáp ứng đầy đủ những yêu
cầu mà cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra trên một số phương diện sau:
Thứ nhất, cách mạng ng nghiệp lần thứ đòi hỏi Việt Nam cần quyết liệt hơn trong việc tích hợp công nghệ thông
tin, đẩy mạnh hoạt động khoa học phân tích và quản lý d liệu, ứng dụng công nghệ điện toán đám mây, nâng cao hiệu
quả hoạt động không ngừng học hỏi, tiếp thu ng nghệ mới vào quá trình quản lý, điều hành các hoạt động liên
quan đến đời sống hội. Cụ thể Việt Nam cần triển khai đưa vào hoạt động các giải pháp công nghệ thông tin
mới như: cảm biến, hệ thống kết nối, hệ thông điều khiển các ứng dụng kinh doanh, chăm sóc khách hàng. Những
giải pháp nâng cấp hệ thống thông tin sẽ góp phần tạo ra nguồn dliệu lớn đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với công
tác thu thập, phân tích và xử lý để đưa ra những quyết định tạo lợi thế cạnh tranh cho nền kinh tế Việt Nam. Do đó, vấn
đề lưu giữ sử dụng hiệu quả các dữ liệu nói trên cần những ng dụng điện toán đám mây. Nguồn thông tin chất
lượng từ việc phân tích dữ liệu lớn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động bằng việc rút ngắn thời gian đưa ra các
các quyết định chính xác nhằm cải thiện an toàn lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, hoàn thiện dịch vụ bảo trì. Vì
vậy để tận dụng tốt các nguồn lực sẵn tiếp thu các thành tựu khoa học tiên tiến của cách mạng công nghiệp lần
thứ tư, Việt Nam cần không ngừng ng cường ng tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong nước, thu hút
nguồn nhân lực chất lượng từ thị trường lao động quốc tế.
Thứ hai, ch mạng công nghiệp lần thứ đòi hỏi Việt Nam cần tối ưu hóa hình kinh doanh trong doanh nghiệp,
xây dựng chuỗi cung ứng, hậu cần thông minh, tăng cường quản an ninh mạng, triển khai hình Chính phủ điện
tử, thay đổi hệ thống quản lý sở hữu trí tuệ mới phù hợp với xu thế phát triển của nhân loại.
Tóm lại, những yêu cầu bản cuộc cách mạng lần thứ đặt ra đối với Việt Nam là: (1) giải pháp thiết thực
tăng cường hợp tác giữa khoa học công nghệ sản xuất kinh doanh; (2) Đẩy mạnh đổi mới ng nghệ trong khu vực
doanh nghiệp tư nhân; (3) Ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất, kinh doanh; (4) Hợp tác quốc tế trong nghiên cứu và
chuyển giao công nghệ; (5) Ưu tiên tài trợ cho các tổ chức, nhân thành tích trong lĩnh vực khoa học ng nghệ
xuất sắc.
Nguyễn Duy Quý, Lê Nguyên Tịnh 109
Dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, những công việc truyền thống sẽ được đảm nhận bởi người máy,
thiết bị thông minh. Do đó, nguồn nhân lực trong tương lai phải sở hữu nhiều năng lực ưu việt máy móc không thể
có. Khả năng sáng tạo, linh hoạt trong nhận thức, cảm xúc, khả năng ra quyết định sẽ chìa khóa để con người nắm
bắt được những xu thế chuyển dịch lao động.
Trong thời gian vừa qua thực trạng giáo dục đào tạo Việt Nam đã những chuyển biến tích cực, góp phần vào
việc đào tạo nguồn nhân lực phục vcho nhiệm vụ phát triển kinh tế - hội. Theo Tổng cục Thống kê, tính đến năm
2016, cả nước hiện 229 trường đại học, trong đó bao gồm 169 trường ng lập 60 trường ngoài công lập. Số
lượng giảng viên đại học là 72,3 nghìn người với quy mô đào tạo số sinh viên là 1,8 triệu người.
Trong những năm qua Đảng Nnước luôn nhất quán thực hiện công bằng trong giáo dục góp phần phát triển trí
tuệ con người Việt Nam, ng bằng hội trong giáo dục luôn được coi một nội dung quan trọng của chính sách
giáo dục. Điều 10 Luật Giáo dục (2005) xác định: “Học tập quyền nghĩa vụ của ng dân. Mọi công dân không
phân biệt dân tộc,n giáo, tín ngưỡng, nam nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị hội, hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng v
cơ hội học tập. Nhà nước thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Nhà nước
cộng đồng giúp đđể người nghèo được học tập, tạo điều kiện để những người năng khiếu phát triển tài năng.
Nhà nước ưu tiên, tạo điều kiện cho con em n tộc thiểu số, con em gia đình vùng điều kiện kinh tế - hội đặc
biệt khó khăn, đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi, người tàn tật, khuyết tật đối tượng được hưởng chính sách
xã hội khác thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập của mình”. Trong định hướng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Văn kiện hội nghị Ban chấp nh Trung ương Đảng chỉ :
“Thực hiện công bằng hội trong giáo dục đào tạo. Tạo điều kiện để ai cũng được học. Người nghèo được Nhà
nước cộng đồng giúp đỡ để học tập. Bảo đảm cho những người học giỏi phát triển tài năng”. Tnăm 2012, chi cho
giáo dục 20 % tổng chi ngân sách. Đây mức đầu cao so với nhiều ớc trong khu vực trên thế giới. Do đó,
quy mô, hình thức giáo dục đào tạo không ngừng được mở rộng, tạo ra hội học tập cho mọi người dân. Hệ thống
giáo dục quốc dân hiện nay khoàn chỉnh, bao gồm cấp học, bậc học, trình độ đào tạo, loại hình trường lớp, từng
bước hội nhập với xu thế phát triển giáo dục chung của thế giới.
Với những hành động cụ thể, kịp thời đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam hướng tới mục
tiêu phát triển kinh tế bền vững, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Theo báo cáo Vốn con người năm
2016 của Diễn đàn Kinh tế thế giới, Việt Nam hiện đứng thứ 68 trên tổng số 130 nước tham gia khảo sát về chỉ số vốn
con người. Bên cạnh đó, sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong lĩnh vực giáo dục Việt
Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tlệ người dân biết chng cao đạt trên 95 % dân số, Việt Nam đã
hoàn thành 3/8 Mục tiêu thiên nhiên kỷ trước thời hạn, trong đó có mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học.
Tuy nhiên, hiện nay các chỉ số giáo dục của Việt Nam vẫn được đánh giá là chậm chuyển biến, nặng về lý thuyết, chưa
coi trọng đào tạo knăng lao động, sở vật chất n lạc hậu. “Theo báo cáo của Ngân hành Thế giới m 2012, chỉ
số giáo dục và nguồn nhân lực Việt Nam đạt 2,99 điểm đứng thứ 106 trong tổng số 146 quốc gia và vùng lãnh thổ tham
gia khảo sát. khu vực châu Á Thái Bình Dương, Việt Nam đứng thứ 15 trong tổng số 18 nước tham gia xếp hạng,
riêng khu vực Đông Nam Á, Việt Nam xếp thứ 6, chỉ trên Lào, Campuchia, Mianma. Cũng theo báo cáo của Ngân
hàng Thế giới, năm 2012 chỉ số đổi mới công nghệ của Việt Nam đạt 2,8 điểm, đứng thứ 113 trong 146 nước tham gia
xếp hạng. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương Việt Nam xếp thứ 15 trong tổng số 18 nước, khoảng cách chênh lệch về
chỉ số đổi mới công nghệ cuả nước ta so với Singapo (1), Malaixia (8) và Thái Lan (10) còn quá lớn” [7].
Có thể khẳng định rằng, Việt Nam cần phải chuẩn bị rất nhiều điều kiện để ứng phó với cách mạng công nghiệp lần thứ
tư, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Trong thời gian tới, năng lực m việc, k
năng sử dụng công nghệ thông minh của đội ngũ lao động sẽ trụ cột của nền kinh tế. Nhu cầu sử dụng nguồn nhân
lực tay nghề cao, ng lực ng tạo, khả ng ngoại ngữ, tin học sẽ ngày ng tăng. Điều y đặt ra cho ngành
giáo dục đào tạo cần đổi mới chính sách hợp nhằm tận dụnghội vượt qua thách thức cuộc cách mạng y
mang lại. thể nhận thấy, cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tác động đến lĩnh vực giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực dưới nhiều góc độ, cụ thể là:
Một là, việc ứng dụng rộng rãi những công nghệ mới trong quá trình giáo dục, làm cho hoạt động dạy, học nhiều
thay đổi, đòi hỏi hoạt động quản lý điều hành, tổ chức thực thi của quan quản lý, cơ sở giáo dục, của người dạy
người học cũng thay đổi theo sao cho phù hợp. Xu hướng học qua mạng sẽ ngày càng phát triển, tính tự chủ trong học
tập sẽ tăng lên, góp phần tích cực vào mục tiêu hoàn thiện nhân cách của bản thân người học.
Hai là, do những yêu cầu của thị trường lao động trong tương lai dưới sự tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 dẫn
đến sự thay đổi trong xác định cấu ngành nghề nội dung chương trình đào tạo. Xu hướng đào tạo theo hình
STEM ra đời và phát triển mạnh, đây là mô hình đào tạo tích hợp 4 môn học riêng biệt Khoa học (Science), Công nghệ
(Technogogy), Kỹ thuật (Engineering) và Toán (Mathematics). Bên cạnh đó, nhu cầu đào tạo cho người lao động về kỹ
năng công nghệ thông tin, giao tiếp bằng nhiều ngôn ngữ và xử lý dữ liệu cũng cần được chú trọng.
Thứ ba, vấn đề đổi mới phương thức quản trị trong các cơ sở giáo dục là yêu cầu cấp bách do sự tác động từ hai yếu tố
nói trên. Ngành giáo dục và đào tạo là ngành có tác động trực tiếp đến nguồn nhân lực thông qua các hoạt động đào tạo
110 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC Ở NƯỚC TA TRƯỚC YÊU CẦU CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
cung cấp kiến thức, rèn luyện kỹ năng và giáo dục thái độ làm việc cho người lao động. Do đó, hệ thống giáo dục quốc
dân cần thay đổi toàn diện, từ nhà quản đến nhà giáo dục để thể tạo ra được lực lượng lao động năng lực làm
việc đáp ứng yêu cầu của sự phát triển.
Cách mạng công nghiệp lần thứ đang đặt ra những yêu cầu mới cho nguồn nhân lực trong tương lai. Điều này đòi
hỏi hệ thống giáo dục Việt Nam cần đổi mới để đào tạo được nguồn nhân lực trình độ chuyên môn cao, năng lực
làm việc vượt trội, khả năng làm việc trong môi trường công nghệ thông minh, giao tiếp tốt để tận dụng hội của
cuộc cách mạng này, đưa nước ta phát triển mạnh hơn trong tương lai.
C. Một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay
Chủ trương xây dựng đất nước trở thành nước công nghiệp Việt Nam đã được nhất quán trong đường lối chiến
lược phát triển đất nước qua nhiều kỳ đại hội Đảng cụ thể là: Tại Đại hội VIII (1996), “… y dựng nước ta thành một
nước công nghiệp sở vật chất kỹ thuật hiện đại” [1, tr.18]. Đại hội X của Đảng (2006) khẳng định: “Đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại a phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020” [2, tr.186]. Đến Đại hội XII của Đảng (2016), mục tiêu y tiếp tục
được xác định: “Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ ng cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm
đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [3, tr.76].
Mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại đã đang chịu tác động của xu thế toàn cầu
hóa, biến đổi khi hậu cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Sự thay đổi về địa chính trị, xu thế công nghệ trên thế giới
đều tạo ra những hội thách thức đặt ra cho nền kinh tế, đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách cần nhạy bén để
xây dựng, điều chỉnh chiến lược phát triển sao cho phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Nhận thấy tầm quan trọng của cách mạng ng nghệp 4.0 đối với sự phát triển quốc gia, ngày 04 tháng 05 năm 2017,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg “về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ 4”. Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ chỉ rõ: “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với xu hướng phát
triển dựa trên nền tảng tích hợp cao độ của hệ thống kết nối số hóa vật sinh học với sự đột phá của Internet vạn
vật và Trí tuệ nhân tạo đang làm thay đổi căn bản nền sản xuất của thế giới. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với đặc
điểm tận dụng một ch triệt để sức mạnh lan tỏa của số hóa công nghệ thông tin. n sóng công nghệ mới nay
đang diễn ra với tốc độ khác nhau ở các quốc gia trên thế giới, nhưng đang tạo ra tác động mạnh mẽ, ngày một gia tăng
tới mọi mặt của đời sống kinh tế - hội, dẫn đến việc thay đổi phương thức lực ợng sản xuất của hội”, với
nhận định “Việt Nam quốc gia đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập quốc tế, cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư mở ra nhiều cơ hội trong việc nâng cao trình đ công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và
cạnh tranh trong chuỗi sản phẩm” [8].
Bên cạnh hội thì nhiều thách thức cũng đặt ra đối với nước ta “sự tụt hậu về công nghệ, suy giảm sản xuất, kinh
doanh; dư thừa lao động có kỹ năng trình độ thấp gây pvthị trường lao động truyền thống, ảnh hưởng đến tình
hình kinh tế - hội đất nước; mất an toàn, an ninh thông tin, xâm phạm bản quyền, thếu hụt nguồn nhân lực trình độ
cao. Mặt khác, khả năng xuất hiện n sóng đẩy công nghệ lạc hậu từ các nước phát triển sang các nước đang phát
triển chậm phát triển. Cách mạng ng nghiệp 4.0 sẽ c động mạnh đến một số ngành, lĩnh vực: công nghệ thông
tin, phân tích và xử lý dữ liệu lớn, mô hình quản lý sản xuất, yêu cầu mới về sở hữu trí tuệ, an toàn, an ninh mạng” [8].
1. Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, giáo dục nghề nghiệp để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
Từ Trung ương đến các địa phương, từ cơ sở giáo dục đến các doanh nghiệp cần quán triệt và thực hiện đầy đủ, nghiêm
túc Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Muốn vậy, phải xác định rõ mục tiêu đào tạo đối
với từng cấp học, bậc học, trên sở đó, phân luồng, định hướng nghề nghiệp cho học sinh theo nhu cầu nhân lực của
hội yêu cầu phát triển kinh tế - hội trong tương lai. Cùng với đó, đổi mới cách dạy, cách học theo tiếp cận
năng lực, tăng cường quản lý quá trình giáo dục và đào tạo theo tiếp cận năng lực, thực hiện đổi mới kiểm tra, đánh giá
chất lượng đào tạo.
Với giáo dục đại học, cần tiến hành đổi mới từ khâu xây dựng chương trình đào tạo, tổ chức tuyển sinh đến quản
hoạt động đào tạo, tăng cường sở vật chất, thiết bị để đổi mới phương pháp dạy học, gắn dạy lý thuyết với thực
hành, đổi mới ng tác kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo và kiểm định chất lượng để những sản phẩm đào tạo
giá trị và phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động. Cùng với đó, nên rà soát lại năng lực đào tạo của các trường đại
học, cao đẳng; quan tâm cải thiện chế độ lương, thu nhập khác, đãi ngộ đối với đội ngũ cán b quản lý giáo dục, giảng
viên, giáo viên cho phù hợp với tình hình thực tế và yêu cầu công việc; tạo cơ chế và động lực để họ yên tâm cống hiến
cho sự nghiệp đào tạo. Đồng thời, chế độ chính sách phù hợp để thu hút sinh viên học sau khi tốt nghiệp yên
tâm làm việc trong các ngành kinh tế, xã hội tại các vùng miền mà nhà nước đang có nhu cầu.
Các trường đại học, cao đẳng cần chú trọng vào công tác đào tạo thực hành thực tế, các kỹ năng chuyên môn cũng như
kỹ năng mềm. Nhà trường cần phân tích định hướng các luồng hướng nghiệp, giúp sinh viên xác định được hướng
nghề nghiệp phù hợp với năng lực. Từ đó đảm bảo chất lượng cho giải pháp đào tạo nhân sự trước khi đi xin việc, giảm
Nguyễn Duy Quý, Lê Nguyên Tịnh 111
thiểu tình trạng thất nghiệp. Để làm được điều đó, thay đổi phương pháp đào tạo nhân lực, hướng tới việc phát triển
năng lực và bổ sung đầy đủ kiến thức theo phương pháp tiên tiến là việc cần phải làm.
2. Chiến lược đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
Một giải pháp quan trọng tập trung gắn kết việc xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực gắn với chiến lược
phát triển kinh tế, hội, ng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế; gắn quy hoạch phát triển
nhân lực của mỗi bộ, ngành, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đồng bộ với chiến lược, kế hoạch phát triển chung
của đất nước.
Nên tổ chức điều tra khảo sát nhân lực hiện đang làm việc nhu cầu nhân lực trong các năm tới của các ngành kinh
tế, vùng miền để có định hướng trong việc phân bnhân lực hợp lý về trình độ, cơ cấu ngành nghề phù hợp quy hoạch
phát triển nhân lực của địa phương, đất nước trong các giai đoạn.
3. Đẩy mạnh sự liên kết giữa nhà trường và nhà doanh nghiệp trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
Cần xây dựng vận nh cơ chế hợp tác giữa ntrường doanh nghiệp trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực. Đây làchế rất quan trọng, phù hợp với việc đào tạo, phát triển nhân lực trong nền kinh tế thị
trường đã được nhiều nước trên thế giới thực hiện thành công. Các quan quản phát triển nhân lực thông qua
chế này để gắn kết nhà trường, người học doanh nghiệp trong đào tạo, cung cầu nhân lực theo nhu cầu của thị
trường lao động. Đồng thời, qua đó đánh giá thực trạng nguồn nhân lực để phối hợp tổ chức bồi dưỡng, nâng cao kiến
thức nghề nghiệp và kỹ năng cho người lao động.
sở đào tạo cần sự nghiên cứu hợp tác với các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - hội trong việc biên soạn
chương trình đào tạo để tiến hành đào tạo cung cấp nguồn nhân lực theo yêu cầu hội. Đồng thời, sở đào tạo
cần lắng nghe, tiếp nhận sự đánh giá, góp ý từ các cơ sở sử dụng lao động cả về việc xây dựng mục tiêu, chương trình,
nội dung đào tạo chất lượng của nguồn nhân lực do sở đào tạo cung cấp. Tđó bổ sung, điều chỉnh kiến thức
chuyên môn, rèn kỹ năng, nghiệp vụ cho sinh viên sau đào tạo nhằm đáp ứng tốt nhất ng việc. Thông qua các nh
thức liên kết đào tạo giữa nhà trường với các sở, doanh nghiệp đchương trình đào tạo của nhà trường luôn được
điều chỉnh, cập nhật cái mới, hiện đại hơn, thích ứng hơn với trình độ công nghệ mới.
4. Coi trọng việc phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng hợp nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài và nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực phải gắn với phát triển xã hội học
Cụ thể, tiến hành phát hiện, bồi dưỡng, tuyển dụng, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, nhân tài, phải vừa khai thác
được chất xám của họ trong nghiên cứu, chế tạo, ng dụng thành quả nghiên cứu, vừa khuyến khích họ tranh thủ học
tập, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng; từ đó, xây dựng đội ngũ cán bộ đầu ngành, chuyên gia giỏi ở các lĩnh vực,
tổ chức, doanh nghiệp. Bên cạnh đó, phương châm học tập suốt đời phải làm cho mỗi lao động thấu hiểu, tự giác, chủ
động học tập; tạo điều kiện cho người lao động học tập, bồi dưỡng thường xuyên. Đồng thời, thông qua các hình thức
đào tạo không chính quy, tạo điều kiện để người lao động giao lưu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, cập nhật kiến thức
và kỹ thuật công nghệ mới ở các trung tâm đào tạo trong nước và trên thế giới.
5. Cùng với việc coi trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cần đặt ra yêu cầu phải gắn kết chặt chẽ với
phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ
Đây là hai trụ cột, đồng thời là động lực mới cho sự phát triển đất nước. Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học - công
nghệ cũng phải thật sự quốc sách hàng đầu, động lực quan trọng nhất để phát triển đất nước. Tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ đồng bộ về hệ thống tổ chức các quan khoa học, chế đầu tư, chế quản hoạt động khoa học -
ng nghệ; nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của nguồn nhân lực khoa học - công nghệ, coi đây là nhân tố quyết định
đối với sự nghiệp phát triển khoa học - công nghệ và là nhân tố giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước.
6. Tăng cường đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng
Đây cũng là knăng cần thiết để Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong xu thế toàn cầu hóa thì việc
biết chia sẻ, hợp tác, biết phối hợp, biết giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quan hệ điều bản quyết định thành
công trong công việc. Thực tế trong các trường đại học, cao đẳng hầu như ít quan tâm tới việc giáo dục kỹ ng
mềm cho sinh viên, cái các nhà tuyển dụng đang rất quan tâm và ngày càng đánh giá cao, nhất những công ty có
vốn đầu tư nước ngoài. Chính vậy, việc m cần thiết lúc này cả hệ thống giáo dục từ phổ thông cho đến bậc đại
học, cao đẳng cần sửa đổi chương trình đào tạo, chú trọng hơn đến rèn luyện các kỹ năng mềm cho sinh viên. Bản thân
mỗi sinh viên cũng cần nỗ lực phấn đấu, trau dồi các kỹ năng cần thiết, để khi bước vào cuộc sống, mỗi sinh viên có đủ
tự tin làm chủ bản thân, đáp ứng được yêu cầu của công việc và xã hội.