
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 490 - THÁNG 5 - SỐ 2 - 2020
199
nhân suy tim có chức năng co bóp thất trái bảo tồn.
Tương tự, Mutlak và cộng sự [4] ghi nhận
mối liên quan giữa mức độ nặng của hở van 3 lá
cơ năng với các kết cục cộng gộp của bệnh nhân
suy tim gồm tái nhập viện do suy tim và tử vong
chỉ ghi nhận được ở nhóm bệnh nhân có tăng áp
động mạch phổi. Dân số trong nghiên cứu của
chúng tôi có giá trị PAPs trung bình thấp (31,5 ±
17,8 mmHg), điều này có thể góp phần lý giải về
mối liên quan không có ý nghĩa thống kê giữa
mức độ hở van 3 lá cơ năng và dự hậu (Hình 2).
Đặc điểm dân số trong nghiên cứu của chúng
tôi chủ yếu là những bệnh nhân bị suy tim nặng,
có chức năng co bóp thất trái kém, nồng độ BNP
cao nhưng áp lực động mạch phổi không tăng
nhiều. Có lẽ, dân số nghiên cứu này chỉ là đặc
trưng cho một bệnh cảnh nhất định trong rất
nhiều bệnh cảnh khác nhau ở bệnh nhân suy
tim. Và hiện diện các tình trạng khác như cấy
các thiết bị trong tim như máy tạo nhịp tim hoặc
máy khử rung (hay gặp trên bệnh nhân suy tim)
hoặc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính cũng ảnh
hưởng đến tình trạng hở van 3 lá cơ năng và ảnh
hưởng đến tiên lượng của bệnh nhân.
Nghiên cứu này còn tồn tại một số hạn chế.
Thứ nhất, cỡ mẫu của nghiên cứu còn nhỏ. Thứ
2, chúng tôi không đánh giá chi tiết từng nhóm
nguyên nhân gây suy tim cụ thể của bệnh nhân.
Rất có thể những nguyên nhân nền gây suy tim
ảnh hưởng đến khả năng tái nhập viện hoặc tử
vong trong vòng 6 tháng của bệnh nhân. Thứ 3,
chúng tôi không mô tả đầy đủ thông tin về các
loại thuốc bệnh nhân sử dụng. Do đó, cần tiến
hành các nghiên cứu đa trung tâm, với cỡ mẫu
lớn hơn với thời gian theo dõi dài hơn, đánh giá
toàn diện các nguyên nhân gây suy tim và các
yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng hở van 3 lá cơ năng.
V. KẾT LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy mức độ
hở van 3 lá cơ năng không ảnh hưởng đến tiên
lượng 6 tháng sau xuất viện ở bệnh nhân suy tim
cấp. Bệnh nhân bị hở 3 lá trung bình/nặng làm
tăng nguy cơ tái nhập viện hoặc tử vong so với
bệnh nhân không hở 3 lá/hở nhẹ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Gheorghiade M, Vaduganathan M, Fonarow
GC, et al. Rehospitalization for heart failure:
problems and perspectives. J Am Coll Cardiol.
2013;61(4):391-403.
2. Bruce CJ, Connolly HM. Right-sided valve
disease deserves a little more respect. Circulation.
2009;119(20):2726-2734.
3. Nath J, Foster E, Heidenreich PA. Impact of
tricuspid regurgitation on long-term survival. J Am
Coll Cardiol. 2004;43(3):405-409.
4. Mutlak D, Lessick J, Khalil S, et al. Tricuspid
regurgitation in acute heart failure: is there any
incremental risk? Eur Heart J Cardiovasc Imaging.
2018;19(9):993-1001.
5. Santas E, Chorro FJ, Miñana G, et al. Tricuspid
Regurgitation and Mortality Risk Across Left
Ventricular Systolic Function in Acute Heart Failure.
Circ J. 2015;79(7):1526-1533.
6. Ponikowski P, Voors AA, Anker SD, et al. 2016
ESC Guidelines for the diagnosis and treatment of
acute and chronic heart failure: The Task Force for
the diagnosis and treatment of acute and chronic
heart failure of the European Society of Cardiology
(ESC). Developed with the special contribution of
the Heart Failure Association (HFA) of the ESC. Eur
J Heart Fail. 2016;18(8):891-975.
7. Zoghbi WA, Adams D, Bonow RO, et al.
Recommendations for Noninvasive Evaluation of
Native Valvular Regurgitation: A Report from the
American Society of Echocardiography Developed
in Collaboration with the Society for Cardiovascular
Magnetic Resonance. J Am Soc Echocardiogr.
2017;30(4):303-371.
8. Neuhold S, Huelsmann M, Pernicka E, et al.
Impact of tricuspid regurgitation on survival in
patients with chronic heart failure: unexpected
findings of a long-term observational study. Eur
Heart J. 2013;34(11):844-852.
THỰC TRẠNG RỐI LOẠN GIẤC NGỦ
Ở BỆNH NHÂN VIÊM CỘT SỐNG DÍNH KHỚP
Vũ Thị Ngọc*, Nguyễn Thị Phương Thuỷ*
TÓM TẮT55
Mục tiêu: Khảo sát mức độ rối loạn giấc ngủ ở
bệnh nhân viêm cột sống dính khớp. Đối tượng
*Bệnh viện Bạch Mai
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Thị Phương Thủy
Email: phuongthuybm@yahoo.com
Ngày nhận bài: 16.3.2020
Ngày phản biện khoa học: 5.5.2020
Ngày duyệt bài: 15.5.2020
nghiên cứu: Gồm 31 bệnh nhân được chẩn đoán xác
định viêm cột sống dính khớp theo tiêu chuẩn ASAS
2009, điều trị tại khoa Cơ xương khớp – Bệnh viện
Bạch Mai từ tháng 8/2019 đến tháng 2/2020. Phương
pháp: Nghiên cứu tiến cứu,mô tả cắt ngang. Kết quả
và kết luận: Tỉ lệ rối loạn giấc ngủ ở bệnh nhân viêm
cột sống dính khớp theo thang điểm PSQI là rất cao
(67,7%). Mức độ khó ngủ, hiệu quả giấc ngủ, chất
lượng giấc ngủ, số lần tỉnh giấc giữa đêm, mức độ ảnh
hưởng đến hoạt động ban ngày đều tăng lên ở nhóm
có rối loạn giấc ngủ. Có mối tương quan thuận giữa

vietnam medical journal n02 - MAY - 2020
200
mức độ rối loạn giấc ngủ với mức độ hoạt động của
bệnh viêm cột sống dính khớp theo ASDAS-CRP (r =
0,481, p < 0,01). Có mối tương quan nghịch giữa chất
lượng cuộc sống theo SF-36 và mức độ rối loạn giấc
ngủ (r = -0,645, p < 0,001).
Từ khoá:
Viêm cột sống dính khớp, rối loạn giấc
ngủ, BASDAI, ASDAS-CRP, PSQI, SF-36
SUMMARY
ACTUAL STATE SLEEP DISORDERS IN
ALKYLOSING SPONDYLITIS PATIENTS
Objectives: To investigate the degree of sleep
disorders in patients with alkylosing spondylitis.
Subjects: 31 patients, dignosed alkylosing spondylitis
following ASAS 2009 criteria, hospitalized in
Rheumatology department, Bach Mai hospital, from
August 2019 to February 2020. Methods: Cross –
sectional study. Results and conclusion: The
prevalence of sleep disorders in patients with
alkylosing spondylitis using the PSQI was very high
(67,7%). Sleep latency, habittual sleep efficiency,
sleep quality, sleep disturbances, daytime dysfuntion
increased in the group with sleep disorders. There was
a positive correlation between the degree of sleep
disorders and the activity level of alkylosing spondylitis
folowing ASDAS-CRP (r = 0,481, p < 0,01). There was
a negative correlation between the degree of sleep
disorders and the quality of life following SF-36 (r = -
0,645, p < 0,001).
Keywords:
Alkylosing spondylitis, sleep disorders,
BASDAI, ASDAS-CRP, PSQI, SF-36.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh viêm cột sống dính khớp (VCSDK) là
một bệnh khớp viêm mạn tính, chưa rõ nguyên
nhân và thuộc nhóm bệnh lý viêm khớp cột sống
huyết thanh âm tính. Tổn thương cơ bản của
bệnh gồm lúc đầu là xơ teo, sau đó dẫn đến
calci hoá dây chằng, bao khớp và huỷ sụn khớp.
Biểu hiện lâm sàng của bệnh là đau kiểu viêm
các khớp cột sống và khớp ngoại vi kéo dài dai
dẳng, tăng dần, kèm theo hạn chế vận động cột
sống và dấu hiệu cứng khớp buổi sáng. Các tổn
thương thường xuất hiện sớm, dẫn đến tàn phế
do dính- biến dạng khớp, teo cơ và làm chất
lượng cuộc sống của các bệnh nhân VCSDK bị
giảm sút nhiều. Hiện nay, trong điều trị VCSDK,
bên cạnh phương pháp vật lí trị liệu, phục hồi
chức năng, chế độ tập luyện, bảo vệ các tư thế
cơ năng của khớp cũng như cột sống, các
phương pháp điều trị nội khoa đặc biệt với sự ra
đời của thuốc sinh học có một vai trò rất quan
trọng trong kiểm soát chặt sự tiến triển của bệnh.
Rối loạn giấc ngủ (RLGN) là một vấn đề
thường gặp ở các bệnh nhân có bệnh lý viêm
khớp mạn tính nói chung và bệnh nhân VCSDK
nói riêng. Trong các nghiên cứu gần đây, tỷ lệ
rối loạn giấc ngủ ở bệnh nhân VCSDK lên tới 58-
68% [1], [2], [3]. Khi làm các xét nghiệm đánh
giá giấc ngủ, thấy có sự giảm sút đáng kể về
chất lượng giấc ngủ, thời gian ngủ và RLGN của
bệnh nhân VCSDK so với người khoẻ mạnh. Các
bệnh nhân VCSDK có mức độ hoạt động bệnh
mạnh cũng có tỷ lệ rối loạn giấc ngủ cao hơn so
với bệnh nhân VCSDK thể không hoạt động. Một
nghiên cứu gần đây cho thấy, tình trạng rối loạn
giấc ngủ ở bệnh nhân VCSDK có thể làm nặng
thêm mức độ hoạt động của bệnh, mệt mỏi,
trầm cảm và ảnh hưởng xấu đến chất lượng
cuộc sống của người bệnh [4]. Chất lượng giấc
ngủ kém có sự liên quan chặt chẽ với thời gian
phát hiện bệnh muộn, các chỉ số đánh giá mức
độ hoạt động bệnh như BASDAI, BASFI cao hơn
và mức độ đau khớp cũng nhiều hơn [5]. Hiện
nay, các xét nghiệm để chẩn đoán RLGN gồm:
kỹ thuật đa ký giấc ngủ, kỹ thuật đa ký hô hấp,
thử nghiệm độ trễ nhiều giấc ngủ, thử nghiệm
duy trì độ tỉnh táo, chỉ số mức độ nghiêm trọng
của mất ngủ (ISI), chỉ số chất lượng giấc ngủ
Pittsburgh (The Pittsburgh Sleep Quality Index -
PSQI). Trong đó, kỹ thuật đa ký giấc ngủ được
coi là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán RLGN. Tuy
nhiên, tại Việt Nam, trong thực hành lâm sàng,
các bác sĩ thường dùng chỉ số chất lượng giấc
ngủ Pittsburgh để đánh giá RLGN. Chỉ số này có
độ nhạy và độ đặc hiệu cao, dễ sử dụng, không
yêu cầu trang thiết bị đặc biệt. Kết quả của
nhiều nghiên cứu cho thấy, có mối tương quan
chặt chẽ giữa chỉ số PSQI và kỹ thuật đa ký giấc
ngủ [6]. Chỉ số PSQI đã được ứng dụng rộng rãi
trong các nghiên cứu đánh giá RLGN ở những
bệnh nhân có các bệnh lý mạn tính tại nhiều
nước trên thế giới như viêm khớp dạng thấp,
lupus ban đỏ hệ thống. Tại Việt Nam, chưa có
nhiều nghiên cứu tìm hiểu về mức độ RLGN ở
bệnh nhân VCSDK và sự liên quan của RLGN với
mức độ hoạt động bệnh. Vì vậy, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu với mục tiêu:
Khảo sát mức độ
rối loạn giấc ngủ ở bệnh nhân VCSDK.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu
được thực hiện tại Khoa Cơ xương khớp, Bệnh
viện Bạch Mai từ tháng 8/2019 đến tháng
2/2020, gồm 31 bệnh nhân được chẩn đoán xác
định bệnh VCSDK theo tiêu chuẩn ASAS 2009
(The Assessment of Spondyloathritis
international Society).
2.2 Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang. Tất
cả các bệnh nhân VCSDK đủ tiêu chuẩn được hỏi
bệnh, khám lâm sàng và làm các xét nghiệm cần
thiết. Số liệu thu thập được ghi theo một mẫu
bệnh án nghiên cứu thống nhất.

TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 490 - THÁNG 5 - SỐ 2 - 2020
201
-
Biến số nghiên cứu gồm:
• Nhóm biến số về RLGN: Điểm PSQI, mức
độ khó ngủ, thời gian ngủ, hiệu suất giấc ngủ, số
lần trung bình tỉnh giấc giữa đêm, số lần sử
dụng thuốc ngủ, mức độ ảnh hưởng đến hoạt
động ban ngày, chất lượng giấc ngủ.
• Nhóm biến số các yếu tố liên quan đến
RLGN: tuổi, giới, thời gian mắc bệnh, thời gian trì
hoãn chẩn đoán, các chỉ số viêm trong máu (tốc
độ máu lắng, protein C phản ứng), các chỉ số
đánh giá mức độ hoạt động của bệnh VCSDK
(The Bath Ankylosing Spondylitis Disease Activity
Index - BASDAI, The Ankylosing Spondylitis
Disease Activity Score - ASDAS), độ giãn lồng
ngực, độ giãn cột sống thắt lưng, mức độ đau
lưng về đêm, số khớp ngoại vi sưng/đau, triệu
chứng ngoài khớp (hội chứng bám tận, tổn
thương mắt), các thuốc điều trị bệnh VCSDK
(thuốc NSAIDs, thuốc DMARDs kinh điển, thuốc
DMARDs sinh học), đánh giá chất lượng cuộc
sống theo bộ câu hỏi SF-36.
- Bệnh nhân được đánh giá RLGN theo thang
điểm PSQI bởi bác sĩ chuyên khoa Tâm thần tại
Viện Sức khoẻ tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai. Kết
quả điểm PSQI ≥ 5 điểm là có rối loạn giấc ngủ.
-
Xử lý số liệu:
bằng phần mềm SPSS 20.0
với các test thống kê thường dùng trong y học.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1 Đặc điểm của nhóm bệnh nhân
nghiên cứu
Bảng 3.1: Đặc điểm chung của nhóm
bệnh nhân nghiên cứu, n=31
Các chỉ số
X ± SD
Giới (nam/nữ)
27/4
Tuổi (năm)
31,8 ± 14,3
(16÷61)
Thời gian mắc bệnh (năm)
8,5 ± 9,9 (0÷41)
Thời gian trì hoãn chẩn
đoán bệnh (năm)
5,4 ± 7,2 (0÷31)
Nhận xét:
Nhóm bệnh nhân nghiên cứu có
tuổi trung bình là 31,8 ± 14,3 tuổi và chủ yếu là
nam giới, chiếm tỉ lệ 87,1%. Thời gian mắc bệnh
trung bình là 8,5 ± 9,9 năm, trong đó bệnh nhân
có thời gian mắc bệnh dài nhất là 41 năm. Thời
gian trì hoãn chẩn đoán bệnh VCSDK trung bình
là 5,4 ± 7,2 năm, trong đó dài nhất là 31 năm.
Bảng 3.2: Đặc điểm lâm sàng và cận lâm
sàng của nhóm BN nghiên cứu, n= 31
Triệu chứng
X± SD
Triệu
chứng
tại
khớp
Độ giãn lồng ngực (cm)
3,6 ± 1,9
Độ giãn cột sống thắt
lưng (cm)
2,3 ± 1,5
Mức độ đau lưng về
đêm (VAS)
2,3 ± 2,9
Số khớp ngoại vi sưng/
đau
0,7 ± 1,5
Triệu
chứng
ngoài
khớp
Hội chứng bám tận
10/31(32,3%)
Tổn thương mắt (viêm
màng bồ đào)
6/31 (19,4%)
Mức
độ
hoạt
động
bệnh
BASDAI
2,4 ± 1,6
ASDAS – CRP
2,6 ± 1,1
Không hoạt động
4/31 (12,9%)
Hoạt động vừa
11/31 (35,5%)
Hoạt động cao
7/31 (22,6%)
Hoạt động rất cao
9/31 (29,0%)
SF-36
Chất lượng cuộc sống
chung
45,4 ± 20,3
Sức khoẻ thể chất
42,3 ± 22,0
Sức khoẻ tâm thần
50,3 ± 20,5
Điều
trị
hiện
tại
NSAIDs
28/31 (90,3%)
Thuốc DMARDs sinh học
21/31 (67,7%)
Thuốc DMARDs kinh
điển
24/31(77,4%)
NSAIDs và DMARDs sinh
học
18/31(58,1%)
NSAIDs và DMARDs
kinh điển
22/31(71,0%)
NSAIDs, DMARDs kinh
điển và DMARDs sinh học
14/31 (45,2%)
Nhận xét:
- Trong nhóm BN nghiên cứu, mức độ hoạt
động bệnh trung bình theo ASDAS-CRP là 2,6 ±
1,1; trong đó tỉ lệ BN có mức độ hoạt động bệnh
rất cao, cao, vừa và không hoạt động lần lượt là
29,0%; 22,6%; 35,5% và 12,9%.
- Chất lượng cuộc sống chung theo thang
điểm SF-36 là: 45,4 ± 20,3; tương đương với
chất lượng cuộc sống trung bình và thấp, trong
đó sức khoẻ thể chất bị ảnh hưởng nhiều hơn.
- Trong nhóm BN nghiên cứu: 90,3% bệnh
nhân có sử dụng thuốc NSAIDs; 67,7% bệnh
nhân có sử dụng thuốc DMARDs sinh học;
77,4% bệnh nhân có sử dụng thuốc DMARDs
kinh điển. Trong đó 45,2% bệnh nhân sử dụng
kết hợp cả 3 nhóm thuốc trên.
3.2 Tình trạng rối loạn giấc ngủ ở bệnh
nhân VCSDK
Trong nghiên cứu, 21/31 bệnh nhân (67,7%)
có rối loạn giấc ngủ khi đánh giá theo thang
điểm PSQI. Điểm PSQI trung bình của nhóm
bệnh nhân nghiên cứu là 5,7 ± 2,8.
Bảng 3.3: Đặc điểm rối loạn giấc ngủ
của nhóm bệnh nhân nghiên cứu (n=31)
Đặc điểm
Có
RLGN
Không
RLGN
p
Thời gian ngủ
1,0±0,9
0,5±0,7
0,133
Hiệu quả giấc ngủ
0,5±0,8
0
0,014

vietnam medical journal n02 - MAY - 2020
202
Số lần trung bình tỉnh
giấc giữa đêm
1,2±0,4
0,7±0,5
0,004
Mức độ khó ngủ
1,8±0,8
0,5±0,7
0,000
Mức độ ảnh hưởng đến
hoạt động ban ngày
1,1±0,9
0,1±0,3
0,000
Mức độ hài lòng về
giấc ngủ
1,4±0,7
0,8±0,4
0,004
Số lần phải sử dụng
thuốc ngủ
0
0
-
Nhận xét:
- Có sự khác biệt về hiệu quả giấc ngủ, mức
độ khó ngủ, số lần trung bình tỉnh giấc giữa
đêm, mức độ ảnh hưởng đến hoạt động ban
ngày và mức độ hài lòng về giấc ngủ giữa nhóm
bệnh nhân có rối loạn giấc ngủ so với nhóm
không có rối loạn giấc ngủ (p< 0,05).
- Thời gian ngủ của nhóm có rối loạn giấc
ngủ thấp hơn so với nhóm không có rối loạn giấc
ngủ, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê với p > 0,05.
3.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến rối loạn giấc ngủ ở bệnh nhân viêm cột sống dính khớp
Bảng 3.4: Các yếu tố ảnh hưởng đến rối loạn giấc ngủ ở bệnh nhân VCSDK
Các yếu tố
Có RLGN
n = 21
Không RLGN
n = 10
p
Tuổi (năm), trung bình ± SD
30,3 ± 12,7
34,8 ± 17,7
0,427
Giới
Nam, n (%)
18 (85,7%)
9 (90%)
1,0
Nữ, n (%)
3 (14,3%)
1 (10%)
Thời gian khởi phát (năm)
21,7 ± 8,3
26,6 ± 13,2
0,213
Thời gian mắc bệnh (năm)
8,7 ± 8,8
8,2 ± 12,2
0,904
Thời gian trì hoãn chẩn đoán bệnh (năm), trung bình ± SD
5,6 ± 7,4
4,2 ± 6,9
0,533
Độ giãn lồng ngực (cm), trung bình ± SD
3,5 ± 1,9
3,8 ± 2,0
0,641
Độ giãn cột sống thắt lưng (cm), trung bình ± SD
2,0 ± 1,3
3,0 ± 1,7
0,089
Mức độ đau lưng về đêm (VAS), trung bình ± SD
3,1 ± 3,0
0,8 ± 1,8
0,014
Thời gian cứng khớp buổi sáng (phút), trung bình ± SD
7,2 ± 7,0
7,5 ± 18,7
0,947
Điểm BASDAI, trung bình ± SD
2,9 ± 1,4
1,4 ± 1,6
0,014
Điểm ASDAS – CRP, trung bình ± SD
2,9 ± 1,1
1,9 ± 0,8
0,019
Chất lượng cuộc sống chung, trung bình ± SD
36,3 ± 14,7
64,5 ± 17,0
0,000
Sức khoẻ thể chất, trung bình ± SD
34,1 ± 18,3
59,3 ± 20,0
0,002
Sức khoẻ tinh thần, trung bình ± SD
39,7 ± 12,4
72,6 ± 15,8
0,000
Điều trị
hiện tại
Có NSAIDs, n (%)
20 (95,2%)
8 (80%)
0,237
Có DMARDs sinh học, n (%)
13 (61,9%)
8 (80%)
0,428
Có DMARDs kinh điển, n (%)
18 (85,7%)
6 (60%)
0,172
NSAIDs và DMARDs kinh điển, n (%)
17 (81,0%)
5 (50%)
0,105
NSAIDs và DMARDs sinh học, n (%)
12 (57,1%)
6 (60%)
1,000
NSAIDs, DMARDs kinh điển và DMARDs sinh
học, n (%)
11 (52,4%)
3 (30%)
0,280
Nhận xét:
-
Không có sự khác biệt về tuổi,
giới, thời gian khởi phát, thời gian mắc bệnh,
thời gian trì hoãn chẩn đoán bệnh VCSDK, độ
giãn lồng ngực, độ giãn cột sống thắt lưng, các
thuốc điều trị hiện tại giữa 2 nhóm bệnh nhân có
RLGN và nhóm không có RLGN (p>0,05).
- Ở nhóm có RLGN, mức độ đau lưng về đêm,
mức độ hoạt động bệnh theo BASDAI, ASDAS-
CRP cao hơn so với nhóm không có RLGN có ý
nghĩa thống kê với p < 0.05.
- Chất lượng cuộc sống, sức khoẻ thể chất,
sức khoẻ tinh thần theo chỉ số SF-36 ở nhóm có
RLGN thấp hơn đáng kể so với nhóm không có
RLGN với ý nghĩa thống kê p < 0,01.
Biểu đồ 1: Mức độ tương quan tuyến tính
giữa mức độ rối loạn giấc ngủ theo PSQI và
mức độ hoạt động bệnh theo ASDAS-CRP và
chất lượng cuộc sống theo SF-36
r = 0,481; y = 1,222*x + 2,428
r = -0,645; y = -0,089*x + 9,611

TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 490 - THÁNG 5 - SỐ 2 - 2020
203
Nhận xét:
- Có mối tương quan thuận giữa mức độ RLGN
theo thang điểm PSQI với mức độ hoạt động bệnh
theo ASDAS-CRP (r = 0,481, p < 0,01)
- Có mối tương quan nghịch giữa mức độ rối
loạn giấc ngủ theo thang điểm PSQI với chất lượng
cuộc sống theo SF-36 (r = -0,645, p < 0,001).
IV. BÀN LUẬN
1. Tình trạng rối loạn giấc ngủ ở bệnh
nhân viêm cột sống dính khớp theo thang
điểm PSQI. Giấc ngủ đóng một vai trò rất quan
trọng trong khả năng học tập và củng cố trí nhớ.
RLGN làm giảm chất lượng cuộc sống của các
bệnh nhân VCSDK do làm suy giảm khả năng
nhận thức, tinh thần và các hoạt động thể lực
của bệnh nhân. Trong một nghiên cứu cho thấy,
những bệnh nhân có RLGN nhiều, thời gian ngủ
ban đêm ngắn dưới 4 tiếng sẽ làm tăng nguy cơ
bị stress, gặp khó khăn trong học tập và khả
năng nhận thức cũng giảm sút nhiều. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, tình trạng RLGN đánh
giá theo thang điểm PSQI gặp ở 21/31 bệnh
nhân VCSDK, chiếm tỉ lệ 67,7%. Kết quả nghiên
cứu của chúng tôi tương tự với một số nghiên
cứu đã công bố trước đây trên thế giới: 67,6%
trong nghiên cứu của Anliu Nie [1], 64,5% trong
nghiên cứu của Jinane Hakkou [2] và 58,1 %
trong nghiên cứu của Elif Aydin [3]. Như vậy,
RLGN là một vấn đề thường gặp ở những bệnh
nhân VCSDK. Khi chất lượng giấc ngủ giảm sút,
sẽ làm giảm các hoạt động chức năng và hành vi
liên quan đến thần kinh - tâm thần, có thể dẫn
đến lo lắng, rối loạn cảm xúc và trầm cảm. Chất
lượng giấc ngủ thấp làm giảm lưu lượng máu lên
não và giảm quá trình chuyển hóa tại thùy đỉnh,
thùy trán và vùng dưới đồi của vỏ não. Trong
nghiên cứu, chất lượng cuộc sống chung của
nhóm bệnh nhân VCSDK trung bình là 45,4 ±
20,3, tương đương với chất lượng cuộc sống ở
mức độ trung bình và thấp. RLGN cũng làm tăng
hoạt động của các hệ thống gây stress như trục
dưới đồi – tuyến yên- tuyến thượng thận và hệ
thần kinh giao cảm. Nhiều nghiên cứu lâm sàng
cho thấy, giấc ngủ kém cũng làm tăng cảm giác
đau tại tất cả các vị trí của cơ thể. Ở các bệnh
nhân VCSDK, RLGN sẽ làm giảm khả năng thực
hiện các hoạt động thể lực và vật lý trị liệu của
bệnh nhân. Vì vậy, với mục tiêu nâng cao hiệu
quả điều trị và chất lượng cuộc sống cho người
bệnh thì việc phát hiện sớm RLGN và có những
biện pháp điều trị tích cực nhằm cải thiện tình
trạng giấc ngủ của người bệnh là một vấn đề rất
quan trọng trong điều trị lâm sàng.
Trong nhóm bệnh nhân có RLGN, điểm PSQI
về mức độ khó ngủ, hiệu quả giấc ngủ, số lần
tỉnh giấc giữa đêm, chất lượng giấc ngủ chủ
quan và mức độ ảnh hưởng đến các hoạt động
ban ngày cao hơn nhiều so với nhóm bệnh nhân
không có RLGN. Những bệnh nhân có giấc ngủ
kém thường có biểu hiện mệt mỏi nhiều, giảm
khả năng tập trung, hay bị quên, khó khăn trong
ra quyết định và khó đi vào giấc ngủ. Vì vậy,
bệnh nhân sẽ gặp nhiều khó khăn trong các
công việc thường ngày cũng như trong học tập.
2. Một số yếu tố liên quan đến rối loạn
giấc ngủ ở bệnh nhân viêm cột sống dính
khớp. Theo nghiên cứu của chúng tôi, ở nhóm
bệnh nhân có RLGN, mức độ hoạt động bệnh
VCSDK theo thang điểm BASDAI và ASDAS-CRP
cao hơn nhiều so với nhóm bệnh nhân không có
RLGN (p < 0,05). Kết quả của chúng tôi cũng
tương tự với nhiều nghiên cứu trước đây [1],
[3]. Mức độ đau lưng về đêm khi đánh giá theo
thang điểm VAS ở nhóm bệnh nhân có RLGN
cũng cao hơn so với nhóm bệnh nhân không có
RLGN (3,1 ± 3,0 so với 0,8 ± 1,8, p=0,014). Dấu
hiệu đau lưng về đêm là do bệnh VCSDK hoạt
động, gây tổn thương viêm tại các khớp của cột
sống và hệ thống dây chằng cạnh cột sống. Tình
trạng đau lưng về đêm làm bệnh nhân khó ngủ,
tăng số lần thức giấc trong đêm, giảm thời gian
và chất lượng giấc ngủ. Vì vậy, các biện pháp
điều trị tích cực và toàn diện nhằm kiểm soát
chặt sự tiến triển của bệnh VCSDK sẽ giúp cải
thiện chất lượng giấc ngủ cho người bệnh.
Đặc biệt, chúng tôi thấy chất lượng cuộc sống
chung, điểm sức khoẻ thể chất và sức khoẻ tinh
thần khi đánh giá theo bộ câu hỏi SF-36 của
nhóm có RLGN thấp hơn nhiều so với nhóm
không có RLGN (p<0,01). Chất lượng cuộc sống
của nhóm bệnh nhân có RLGN chủ yếu ở mức độ
trung bình và thấp. Trong nghiên cứu, mặc dù
trên 60% bệnh nhân có RLGN nhưng không gặp
bệnh nhân nào sử dụng thuốc ngủ. Nguyên nhân
có thể do các bệnh nhân không quan tâm nhiều
đến tình trạng RLGN mạn tính. Một số bệnh nhân
cũng lo lắng việc sử dụng thuốc ngủ sẽ dẫn đến
tình trạng phụ thuộc vào thuốc. Vì vậy, các biện
pháp can thiệp điều trị không dùng thuốc như liệu
pháp ánh sáng nhẹ, tập thiền và liệu pháp thay
đổi hành vi- nhận thức rất quan trọng, giúp nâng
cao chất lượng giấc ngủ cho người bệnh.
Theo kết quả nghiên cứu, có mối tương quan
thuận giữa mức độ rối loạn giấc ngủ theo thang
điểm PSQI với mức độ hoạt động bệnh theo
thang điểm ASDAS-CRP (r = 0,481, p < 0,01) và
có mối tương quan nghịch giữa mức độ rối loạn
giấc ngủ theo thang điểm PSQI với chất lượng

