
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 490 - THÁNG 5 - SỐ 2 - 2020
199
nhân suy tim có chức năng co bóp thất trái bảo tồn.
Tương tự, Mutlak và cộng sự [4] ghi nhận
mối liên quan giữa mức độ nặng của hở van 3 lá
cơ năng với các kết cục cộng gộp của bệnh nhân
suy tim gồm tái nhập viện do suy tim và tử vong
chỉ ghi nhận được ở nhóm bệnh nhân có tăng áp
động mạch phổi. Dân số trong nghiên cứu của
chúng tôi có giá trị PAPs trung bình thấp (31,5 ±
17,8 mmHg), điều này có thể góp phần lý giải về
mối liên quan không có ý nghĩa thống kê giữa
mức độ hở van 3 lá cơ năng và dự hậu (Hình 2).
Đặc điểm dân số trong nghiên cứu của chúng
tôi chủ yếu là những bệnh nhân bị suy tim nặng,
có chức năng co bóp thất trái kém, nồng độ BNP
cao nhưng áp lực động mạch phổi không tăng
nhiều. Có lẽ, dân số nghiên cứu này chỉ là đặc
trưng cho một bệnh cảnh nhất định trong rất
nhiều bệnh cảnh khác nhau ở bệnh nhân suy
tim. Và hiện diện các tình trạng khác như cấy
các thiết bị trong tim như máy tạo nhịp tim hoặc
máy khử rung (hay gặp trên bệnh nhân suy tim)
hoặc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính cũng ảnh
hưởng đến tình trạng hở van 3 lá cơ năng và ảnh
hưởng đến tiên lượng của bệnh nhân.
Nghiên cứu này còn tồn tại một số hạn chế.
Thứ nhất, cỡ mẫu của nghiên cứu còn nhỏ. Thứ
2, chúng tôi không đánh giá chi tiết từng nhóm
nguyên nhân gây suy tim cụ thể của bệnh nhân.
Rất có thể những nguyên nhân nền gây suy tim
ảnh hưởng đến khả năng tái nhập viện hoặc tử
vong trong vòng 6 tháng của bệnh nhân. Thứ 3,
chúng tôi không mô tả đầy đủ thông tin về các
loại thuốc bệnh nhân sử dụng. Do đó, cần tiến
hành các nghiên cứu đa trung tâm, với cỡ mẫu
lớn hơn với thời gian theo dõi dài hơn, đánh giá
toàn diện các nguyên nhân gây suy tim và các
yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng hở van 3 lá cơ năng.
V. KẾT LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy mức độ
hở van 3 lá cơ năng không ảnh hưởng đến tiên
lượng 6 tháng sau xuất viện ở bệnh nhân suy tim
cấp. Bệnh nhân bị hở 3 lá trung bình/nặng làm
tăng nguy cơ tái nhập viện hoặc tử vong so với
bệnh nhân không hở 3 lá/hở nhẹ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Gheorghiade M, Vaduganathan M, Fonarow
GC, et al. Rehospitalization for heart failure:
problems and perspectives. J Am Coll Cardiol.
2013;61(4):391-403.
2. Bruce CJ, Connolly HM. Right-sided valve
disease deserves a little more respect. Circulation.
2009;119(20):2726-2734.
3. Nath J, Foster E, Heidenreich PA. Impact of
tricuspid regurgitation on long-term survival. J Am
Coll Cardiol. 2004;43(3):405-409.
4. Mutlak D, Lessick J, Khalil S, et al. Tricuspid
regurgitation in acute heart failure: is there any
incremental risk? Eur Heart J Cardiovasc Imaging.
2018;19(9):993-1001.
5. Santas E, Chorro FJ, Miñana G, et al. Tricuspid
Regurgitation and Mortality Risk Across Left
Ventricular Systolic Function in Acute Heart Failure.
Circ J. 2015;79(7):1526-1533.
6. Ponikowski P, Voors AA, Anker SD, et al. 2016
ESC Guidelines for the diagnosis and treatment of
acute and chronic heart failure: The Task Force for
the diagnosis and treatment of acute and chronic
heart failure of the European Society of Cardiology
(ESC). Developed with the special contribution of
the Heart Failure Association (HFA) of the ESC. Eur
J Heart Fail. 2016;18(8):891-975.
7. Zoghbi WA, Adams D, Bonow RO, et al.
Recommendations for Noninvasive Evaluation of
Native Valvular Regurgitation: A Report from the
American Society of Echocardiography Developed
in Collaboration with the Society for Cardiovascular
Magnetic Resonance. J Am Soc Echocardiogr.
2017;30(4):303-371.
8. Neuhold S, Huelsmann M, Pernicka E, et al.
Impact of tricuspid regurgitation on survival in
patients with chronic heart failure: unexpected
findings of a long-term observational study. Eur
Heart J. 2013;34(11):844-852.
THỰC TRẠNG RỐI LOẠN GIẤC NGỦ
Ở BỆNH NHÂN VIÊM CỘT SỐNG DÍNH KHỚP
Vũ Thị Ngọc*, Nguyễn Thị Phương Thuỷ*
TÓM TẮT55
Mục tiêu: Khảo sát mức độ rối loạn giấc ngủ ở
bệnh nhân viêm cột sống dính khớp. Đối tượng
*Bệnh viện Bạch Mai
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Thị Phương Thủy
Email: phuongthuybm@yahoo.com
Ngày nhận bài: 16.3.2020
Ngày phản biện khoa học: 5.5.2020
Ngày duyệt bài: 15.5.2020
nghiên cứu: Gồm 31 bệnh nhân được chẩn đoán xác
định viêm cột sống dính khớp theo tiêu chuẩn ASAS
2009, điều trị tại khoa Cơ xương khớp – Bệnh viện
Bạch Mai từ tháng 8/2019 đến tháng 2/2020. Phương
pháp: Nghiên cứu tiến cứu,mô tả cắt ngang. Kết quả
và kết luận: Tỉ lệ rối loạn giấc ngủ ở bệnh nhân viêm
cột sống dính khớp theo thang điểm PSQI là rất cao
(67,7%). Mức độ khó ngủ, hiệu quả giấc ngủ, chất
lượng giấc ngủ, số lần tỉnh giấc giữa đêm, mức độ ảnh
hưởng đến hoạt động ban ngày đều tăng lên ở nhóm
có rối loạn giấc ngủ. Có mối tương quan thuận giữa