Thuyết dây và việc giải thích tận
cùng vũ trụ (phần 1)
Trong một số năm gần đây, việc gii thích đến tận cùng của bản chất
vũ trụ, sau những thành ng vang di của thế kỉ 20 là thuyết tương đối,
học lượng tử, các mô hình vũ trụ thì đến nay đã chừng lại do thiếu một
thuyết tổng quát mô tả thống nhất được c vấn đề này. Thuyết y (String
Theory) ra đời và được sự quan m của nhiu người chính vì ý tưởng mới lạ
của dường như đáp ứng đầy đcác yêu cu hiện nay. Bài viết này
tôi thực hiện đã lâu tng trình y trong 1 hi thảo thiên văn của VACA
mấy năm trước, nay xin giới thiệu cùng các độc giả của thienvanvietnam.
Giải quyết mâu thuẫn giữa thuyết tương đối và thuyết lượng tử
Những m đầu thế k 20 đánh dấu một bước phát triển hết sức quan
trọng của vật thiên văn, thay đổi phần lớn nhận thức duy của con
người về thế giới tự nhiên. Toàn bnhững thay đổi đó đã biến tất cả những
thành tu vật của thế kỉ 19 trở vtrước trở thành "Vật cổ điển" và mra
một hướng mới cho Vật hiện đại. Ngành vật hiện đại ra đời và phát trin
tđầu thế k20 đến nay dựa trên 2 nền tảng chính là 2 thuyết ra đời vào
những m 1900-1905 : Thuyết tương đối và thuyết lượng tử. Dù được coi
là 2 thuyết có tầm quan trng nhất trong khoa học thực nghiệm hin đại,
giải tch được nhiều hiện tượng trước đây còn bí n nhưng điều đặc biệt là
2 lí thuyết này đến nay chưa có một giải pháp nào thật sự thích đáng để dung
hoà chúng, các mâu thun giữa 2 thuyết này vẫn luôn tồn tại và người ta
tin rằng một giả thuyết hay một phương trình mi cho phép hợp nhất 2
thuyết này slà cách tốt nhất để tìm hiểu đến tận gốc bản chất của vũ trụ.
thuyết tương đối hẹp do Einstein đề xướng vào m 1905 10
năm sau đó là thuyết tương đi rộng (tổng quát) cho chúng ta một cái nhìn
tổng thể và đúng đắn về vũ trụ vĩ mô (qui mô lớn), hoàn toàn phhợp khi
nghiên cứu các vận tốc lớn, chỉ ra các thiếu sót của cơ học Newton khi áp
dụng cho các thang vn tốc cũng như khi đi u vào bn chất của
chuyển động, thuyết tương đối rộng cho chúng ta một i nhìn tổng quát
vtrụ, giải thích vkhông gian và thi gian, phương trình trường ca
tiên đoán hoàn toàn chính xác về tương lai trụ. Tuy nhiên, thuyết
tương đối không mô tả được chi tiết trcác thang vi mô. Việc đi sâu
vào bn chất của nguyên tử, hạt nhân, các ht cơ bản như electron, proton,
neutron, hay c mezon, neutrino hay c các quark thì thuyết tương
đối Einstein phải nhường chỗ cho các lí thuyết của cơ học lượng tử.
Mọi việc nhìn chung kng khác với việc khi bạn dùng chiếc
kính lúp độ phóng đại cực lớn soi lên một vật thể bất kì hay hướng chiếc
kính thiên n phản xạ lên ngm Mặt Trăng. Khi nhìn bng mắt thường, bạn
đang quan sát Mặt Trăng bằng con mt của vật tương đối tính, bạn xác
định được chính xác vị trí, vận tốc và tiên đoán một cách chính xác vcác
chuyển động ca nó, nhưng khi dùng một i kính thiên n thì điều này
giống như việc bạn đang soi lên b mặt của nó một chiếc kính của học
lượng tử, bạn sthấy không nhn nhụi, trơn tru như khi nhìn bng mắt
thường mà sthấy các lỗi lõm, các núi, thung lũng... . học lượng tcho
chúng ta nhìn sâu vào các hạt cơ bn, vào các thăng giáng lượng tnhỏ nhất
của tnhiên, điều mà thuyết tương đối không làm được. Cái đáng nói là
khi bn dùng kính nhìn u vào Mặt Tng thì bn ththấy các ngọn núi,
thm clà những khối đá của nhưng skhông thể tiên đoán được chuyển
động của - cũng như bạn kng thể biết Trái đất mà bn sống trên
đó đang chuyển động. Còn nếu bỏ chiếc kính ra, bạn nhìn thấy Mặt Trăng
chuyển động, đưa ra các tiên đoán chính xác về chuyển động của nó nhưng
skhông thể một ch gì để dđoán được cấu trúc "gồ ghề" trên bmặt
nó, và thực tế thì việc có tồn tại các gồ gh đó hay không không hề nh
hưởng đến chyển động mô của Mặt Trăng.
Cũng như dnày, thuyết tương đối học tương đi tính chỉ
tác dụng tả qui mô của trmà không nhìn được vào tn bên
trong các hạt nhân, c hạt bản và nhìn chung, các thang mô,
thuyết tương đi cho thấy năng lượng và vật chất dường như k n định.
Trong khi đó thì lí thuyết lượng tử đi sâu vào bên trong bn chất của các hạt,
cho thy thang vi mô, c hạt kng phải là bất biến, chúng có sbiến
đổi về bản chất và bn thân nang lượng của chúng luôn những thăng
giáng nhất định, các thăng giáng này rất nhỏ do đó kng gây nh hưởng
đến các tiên đoán vi mô của cơ học tương đối tính (thăng giáng lượng tử).
Vấn đề của vật bây giờ là làm sao thống nhất 2 thuyết này, tức đưa ra
một thuyết nào đó, mt phương trình cho phép t 2 thuyết này trong
một mệnh đề duy nhất, mô tả trụ mt cách chính xác cả thang vi và
vĩ mô.
Một trong c cố gắng đó người ta cố gắng tìm kiếm một thuyết
hợp nhất 4 loại lực trong tnhiên (gm hấp dẫn, điện từ, tương tác hạt nhân
mạnh tương c yếu) vào một loại trường duy nhất. c cố gắng gần đây
đã thống nhất được 3 loại là điện t2 tương tác mạnh và yếu, chỉ còn hấp
dẫn chưa thể cách nào đưa vào loại trường duy nhất này. Bn tn
trường hấp dẫn được Einstein đưa vào vật lần đầu khi thuyết tương đối
rộng ra đời sau đó Einstein đã cho rng thuyết của mình chưa hoàn hảo