intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thuyết minh về quần thể di tích cố đô Huế

Chia sẻ: Lan Zhan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:13

86
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Huế là một thành phố ở miền Trung Việt Nam và là tỉnh lị của tỉnh Thừa Huế. Là kinh đô của Việt Nam dưới triều Nguyễn Huệ nổi tiếng với những đền chùa, thành quách, lăng tẩm, kiến trúc gắn liền với cảnh quan thiên nhiên. Nghiêng mình bên dòng sông xanh hiền hòa của miền Trung. Huế là một di sản văn hoá vật thể và tính thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy, một miền văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Năm 1993, Huế đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới. Cho đến hôm nay, Huế đã đang, và sẽ mãi mãi được giữ gìn, bảo tồn và phát triển, sánh vai với các kỳ quan hàng ngàn năm của nhân loại trong danh mục Di sản Văn hoá Thế giới của UNESCO.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thuyết minh về quần thể di tích cố đô Huế

Đề bài: Thuyết minh về quần thể di tích cố đô Huế <br /> <br /> Bài làm<br /> <br /> Huế là một thành phố ở miền Trung Việt Nam và là tỉnh lị của tỉnh Thừa Huế. Là kinh đô  <br /> của Việt Nam dưới triều Nguyễn Huệ nổi tiếng với những đền chùa, thành quách, lăng <br /> tẩm, kiến trúc gắn liền với cảnh quan thiên nhiên. Nghiêng mình bên dòng sông xanh hiền <br /> hòa của miền Trung. Huế là một di sản văn hoá vật thể  và tính thần mang ý nghĩa quốc  <br /> hồn quốc túy, một miền văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế  giới. Năm 1993, Huế  đã  <br /> được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới. Cho đến hôm nay, Huế đã đang, và <br /> sẽ mãi mãi được giữ gìn, bảo tồn và phát triển, sánh vai với các kỳ  quan hàng ngàn năm  <br /> của nhân loại trong danh mục Di sản Văn hoá Thế giới của UNESCO.<br /> <br /> Quần thể di tích Cố đô Huế hay Quần thể di tích Huế chỉ những di tích lịch sử – văn hoá  <br /> do triều Nguyễn chủ trương xây dựng trong khoảng thời gian  đầu thế kỷ 19 đến nửa đầu <br /> thế  kỷ  20 trên địa bàn kinh đô Huế  xưa; nay thuộc phạm vi thành phố  Huế  và một vài <br /> vùng phụ  cận thuộc tỉnh Thừa Thiên­Huế  Quần thể  di tích Cố  đô Huế  có thể  phân chia  <br /> thành các cụm công trình gồm: Các di tích trong Kinh thành Huế gồm Kinh thành, Hoàng <br /> thành, Tử cấm thành. Các di tích bên ngoài Kinh thành Huế gồm các lăng tẩm, chùa chiền, <br /> cung điện…<br /> <br /> Nằm giữa lòng Huế bên bờ  Bắc của con sông Hương dùng dằng chảy xuyên qua từ  Tây <br /> sang Đông, hệ  thống kiến trúc biểu thị  cho quyền uy của chế độ  trung ương tập quyền <br /> nhà Nguyễn vẫn đang sừng sững trước bao biến động của thời gian. Đó là Kinh thành <br /> Huế  Hoàng thành Huế  Tử  cấm thành Huế, ba tòa thành lồng vào nhau được bố  trí đăng <br /> đối trên một trục dọc xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc. Hệ thống thành quách ở đây là  <br /> một mẫu mực cùng sự  kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn giữa tinh hoa kiến trúc Đông và  <br /> Tây. Đó là Kinh thành Huế được vua Gia Long tiến hành khảo sát từ năm 1803, khởi công  <br /> xây dựng từ  1805 và hoàn chỉnh vào năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng. Kinh thành  <br /> Huế phía nam giáp đường Trần Hưng Đạo; phía tây giáp đường Lê Duẩn; phía bắc giáp  <br /> đường Tăng Bạt Hổ; phía đông giáp đường Phan Đăng Lưu. Kinh thành Huế  gồm: Kỳ <br /> Đài, Trường Quốc Từ Giám, Điện Long An, Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế Đình Phú <br /> Xuân, Hồ  Tịnh Tâm, Tàng thư  lâu Viện Cơ  Mật – Tam Tòa, Đàn Xã Tắc, Cửu vị  thần <br /> công.<br /> <br /> Hoàng Thành nằm bên trong Kinh Thành, có chức năng bảo vệ các cung điện quan trọng <br /> nhất của triều đình, các miếu thờ  tổ  tiên nhà Nguyễn và bảo vệ  Tử  Cấm Thành – nơi <br /> dành riêng cho vua và hoàng gia Hoàng Thành và Tử Cấm Thành thường được gọi chung <br /> là Đại Nội. Các di tích trong Hoàng Thành gồm: Ngọ  Môn, Điện Thái Hoà và sân Đại <br /> Triều Nghi, Triệu Tổ  Miếu, Hưng Tổ  Miếu, Thế  Tổ  Miếu, Thái Tổ  Miếu, Cung Diên  <br /> Thọ, Cung Trường Sanh, Hiển Lâm Các, Cửu Đỉnh, Điện Phụng Tiên. Hoàng Thành giới  <br /> hạn bởi một vòng tường thành gần vuông với mỗi chiều xấp xỉ 600m với 4 cổng ra vào <br /> độc đáo nhất thường được lấy làm biểu tượng của Cố  đô: Ngọ  Môn, chính là khu vực <br /> hành chính tối cao của triều đình Nguyễn.<br /> <br /> Bên trong Hoàng Thành, hơi dịch về phía sau, là Tử Cấm Thành. Từ Cấm Thành là vòng <br /> tường thành thứ ba của Kinh đô Huế giới hạn khu vực làm ăn ở  và sinh hoạt của vua và <br /> hoàng gia. Các di tích trong Tử  Cấm Thành gồm: Tả  Vu và Hữu Vu, Vạc đổng, Điện  <br /> Kiến Trung, Điện Cần Chánh, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường.<br /> <br /> Xuyên suốt cả ba tòa thành, con đường Thần đạo chạy từ bờ sông Hương mang trên mình <br /> những công trình kiến trúc quan yếu nhất của Kinh thành Huế: Nghinh Lương Đình, Phu <br /> Văn Lâu, Kỳ Đài, Ngọ Môn, điện Thái Hòa, Điện Cẩn Chánh, điện Càn Thành, cung Khôn <br /> Thái, lầu Kiến Trung… Hai bên đường Thần đạo này là hàng trăm công trình kiến trúc lớn <br /> nhỏ  bố  trí cân đối đều đặn, đan xen cây cỏ, chập chờn khi  ẩn khi hiện giữa những sắc  <br /> màu thiên nhiên, luôn tạo cho con người một cảm giác nhẹ nhàng thanh thản.<br /> <br /> Các di tích ngoài kinh thành Huế bao gồm Lăng tẩm và một số di tích khác. Về  phía Tây <br /> của Kinh thành, nằm hai bên bờ  sông Hương, lăng tẩm của các vua Nguyễn bao gồm: <br /> Lăng Gia Long – còn gọi là Thiên Thọ Lằng, thực ra là một quần thể nhiều lăng tẩm trong <br /> hoàng quyền. Lăng Minh Mạng còn gọi là Hiếu lăng do vua Thiệu Trị  cho xây dựng đế <br /> chôn cất vua cha Minh Mạng cách cố  đô Huế  12 km. Lăng Tự  Đức được chính vua Tự <br /> Đức cho xây dựng khi còn tại vị, lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ, sau khi <br /> Tự Đức mất, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng, là một trong những lăng tẩm đẹp nhất  <br /> của vua chúa nhà Nguyễn. Lăng Đồng Khánh còn gọi là Tư Lăng xây dựng để thờ cha, khi <br /> Đồng Khánh đột ngột qua đời, Vua Thành Thái (1889 – 1907) kế  vị  trong bối cảnh đất <br /> nước gặp nhiều khó khăn không thể xây cất lăng tấm cho cha, đành đổi làm Ngưng Hy để <br /> thờ vua Đồng Khánh. Lăng Dục Đức tên chữ An Lăng cách trung tâm thành phố chưa đầy <br /> 2km; là nơi an táng của 3 vua nhà Nguyễn: Dục Đức, Thành Thái, Duy Tân. Lăng Khải <br /> Định còn gọi là Ứng Lăng tọa lạc trên triền núi Châu Chữ bên ngoài kinh thành Huế được <br /> xây dựng từ năm 1920 ngay sau khi Khải Định lên ngôi, pha trộn kiến trúc Đông Tây Kim  <br /> cổ  lạ  thường, với các tác phẩm nghệ  thuật ghép tranh sành sứ  độc đáo. Lăng Thiệu Trị <br /> còn gọi là Xương Lăng là nơi chôn cất hoàng đế Thiệu Trị. So với lăng tẩm các vua tiền  <br /> nhiệm và kế  vị, lăng Thiệu Trị  có những nét riêng. Đây là lăng duy nhất quay mặt về <br /> hướng Tây Bắc, một hướng ít được dùng trong kiến trúc cung điện và lăng tẩm thời  <br /> Nguyễn. Mỗi lăng vua Nguyễn đều phản ánh cuộc đời và tính cách của vị chủ nhân đang <br /> yên nghỉ.<br /> <br /> Các di tích khác bao gồm: Trấn Bình Đài và cửa Trấn Bình. Trấn Bình đài nằm  ở  vị  trí  <br /> Đông Bắc kinh thành Huế  Phu Văn Lâu nằm trên trục chính của Hoàng Thành Huế  phía  <br /> trước Kỳ Đài dùng làm nơi niêm yết những chỉ dụ quan trọng của nhà vua và triều đình, <br /> hoặc kết quả các kỳ thi do triều đình tổ chức. Tòa Thương Bạc tọa lạc bên bờ Nam sông <br /> Hương, là trụ  sở  để  đón tiếp các sứ  thần nước ngoài. Văn Miếu còn gọi là Văn Thánh  <br /> Miếu là nơi thờ  Khổng Tử và dựng bia tiến sĩ. Võ Miêu hay Võ Thánh miếu, là nơi thờ <br /> phụng và ghi danh những danh tướng Việt Nam, những tiến sĩ đỗ  trọng ba khoa thi võ <br /> dưới triều Nguyễn.   Đàn Nam Giao triều Nguyễn là nơi các vua Nguyễn tế  trời. Hổ <br /> Quyền còn đọc là Hổ Khuyên là một chuồng nuôi hổ và là một đâu trường độc đáo, đây là  <br /> đấu trường của những cuộc tử chiến giữa voi và hổ nhằm tế thần trong ngày hội và phục  <br /> vụ  nhu cầu giải trí tiêu khiển. Điện Voi Ré để  thờ  các vị  thần bảo vệ  và miếu thờ  bốn  <br /> con voi dũng cảm nhất trong chiến trận của triều Nguyễn. Điện Hòn Chén tọa lạc trên <br /> núi Ngọc Trán, thuộc làng Ngọc Hồ, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên –  <br /> Huế. Ngày xưa người Chăm thờ  nữ  thần PoNagar, sau đó người Việt tiếp tục thờ  bà <br /> xưng Thánh Mẫu Thiên Y A Na. Chùa Thiên Mụ là một ngôi chùa nằm trên đồi Hà Khê, <br /> tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5km về phía tây, là ngôi chùa  <br /> cổ  nhất của Huế. Trấn Hải Thành (Thành trấn giữ  mặt biển) là một thành lũy dùng để <br /> bảo vệ  kinh đô triều Nguyễn được xây dựng  ở  cửa Phía Đông, kinh thành Huế. Nghênh <br /> Lương Đình hay Nghênh Lương Tạ  dùng làm nơi nghỉ  chân của nhà vua trước khi đi  <br /> xuống bên sông để lên thuyền rồng hoặc làm nơi hóng mát. Cung An Định tọa lạc bên bờ <br /> sông An Cựu, là cung điện riêng của vua Khải Định từ khi còn là thái từ đến khi làm vua,  <br /> sau này được Vĩnh Thuỵ thừa kế và từng sống ở đây sau khi thoái vị.<br /> <br /> Tất cả những công trình kiến trúc trên được đặt trong một khung cảnh thiên nhiên kỳ thú <br /> với nhiều yếu tố  biểu tượng sẵn có tự  nhiên đến mức người ta mặc nhiên xem đó là <br /> những bộ  phận của Kinh thành Huế  – đó là núi Ngự  Bình dòng Hương Giang, cồn Giã  <br /> Viên, cồn Bộc Thanh… Nhìn từ phía ngược lại những công trình kiến trúc ở đây như hoà  <br /> lẫn vào thiên nhiên tạo nên những tiết tấu kỳ diệu khiến người ta quên mất bàn tay con  <br /> người đã tác động lên nó. Ngày nay, Huế trở thành một thành phố Festival đặc trưng của <br /> Việt Nam. Cứ hai năm một lần, nhân dân thành phố  Huế  lại đón chào ngày lễ  hội trọng <br /> đại này trong niềm háo hức. Với một di sản văn hoá vật thể  và tinh thần mang ý nghĩa  <br /> quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và <br /> thế giới. Huế sẽ mãi mãi được giữ gìn – cho Việt Nam và cho thế  giới, mãi mãi là niềm  <br /> tự hào của chúng ta. Huế hấp dẫn và chiếm được tình cảm của nhiều người, trong nước  <br /> cũng như quốc tế.<br /> <br /> Bài số 2<br /> <br /> Cố đô Huế là một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng của Việt Nam hàng năm thu hút  <br /> rất nhiều du khách trong và ngoài nước. Huế là vùng đất kinh kỳ  xưa được nhà Nguyễn <br /> xây dựng làm trung tâm chính trị, kinh tế  và văn hóa của cả  nước từ  đầu thế  kỷ  19 đến  <br /> nửa đầu thế kỷ 20.<br /> <br /> Nơi đây từng là kinh đô của triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam, nơi chứng  <br /> kiến biết bao thăng trầm trong một giai đoạn lịch sử  chuyển giao giữa thời kỳ  Phong  <br /> kiến, thuộc địa và thời kỳ xây dựng đất nước trong thời đại mới. Ngày nay, Huế hầu như <br /> còn lưu giữ khá nguyên vẹn các công trình kiến trúc đặc trưng của chế độ phong kiến nhà <br /> Nguyễn trải qua 143 năm từ  năm 1802 đến năm 1945. Một trong những công trình kiến  <br /> trúc đặc trưng tiêu biểu và hoành tráng nhất trong quần thể di tích cố  đô Huế  đó là Kinh <br /> Thành Huế. Hệ thống kinh thành ngày này gồm rất nhiều công trình kiến trúc quan trọng,  <br /> nơi từng là trung tâm chính trị của cả nước và là nơi trị vì của 13 vị vua triều Nguyễn.<br /> <br /> Địa điểm lý tưởng nhất để hướng dẫn viên giới thiệu về Kinh Thành Huế chính là ở lầu  <br /> Ngũ Phụng, nơi du khách có thể nhìn thấy được dòng sông Hương, núi Ngự Bình phía xa  <br /> và Cồn Hến, cồn Dã Viên. Đây chính là một trong những yếu tố  phong thủy cho Kinh <br /> Thành Huế. Kinh thành Huế được xây dựng dưới thời vua Gia Long, là vị vua khai quốc <br /> của triều đại nhà Nguyễn.<br /> <br /> Công cuộc khảo sát để xây dựng Kinh Thành Huế bắt đầu từ năm 1803, chính thức khởi <br /> công vào năm 1805 hoàn chỉnh vào khoảng những năm 1832 dưới thời vua Minh Mạng. <br /> Có thể nói rằng, kinh thành Huế là một trong những thành tựu vĩ đại của vua Gia Long và  <br /> triều Nguyễn.<br /> <br /> Kinh thành Huế được xây dựng trên diện tích khoảng 520 ha có chu vi 10km cao 6,6m dài  <br /> 21m. Thành có kiến trúc hình Vauban được xây khúc khỉu với những pháo đài phòng thủ <br /> được bố trí gần như điều nhau trên mặt thành. Thành ban đầu chỉ đắp bằng đất, mãi đến  <br /> cuối thời vua Gia Long thành mới được cho  ốp gạch như  chúng ta thấy ngày hôm nay. <br /> Bên ngoài vòng thành có một hệ thống hộ thành hào chạy dọc theo chân thành có tác dụng  <br /> như là chướng ngại vật có chức năng phòng thủ vừa có chức năng giao thông thủy.<br /> <br /> Kinh thành Huế  xoay mặt về  hướng Nam theo phong thủy trong K ịch d ịch “Thánh nhân  <br /> nam diện, vi thính thiên hạ” Có nghĩa là “Vua phải quay mặt về hướng nam để trị vì thiên  <br /> hạ”.<br /> <br /> Kinh thành Huế lấy núi ngự bình cao 104m về phía nam làm yếu tố Tiền Án, Sông hương <br /> chảy qua trước mặt kinh thành làm yếu tố Minh Đường. Hai bên tả hữu sông có cồn Hến  <br /> và cồn Dã Viên làm yếu tố  tả Thanh Long và Hữu Bạch Hổ. Tổng cộng kinh thành Huế <br /> có tất cả 13 của ra vào cả đường bộ và đường thủy. Thành có 10 của chính gồm:<br /> <br /> Cửa Chính Bắc (Còn gọi là cửa Hậu, nằm phía sau kinh thành)<br /> <br /> Cửa Tây – Bắc (Cửa An Hòa)<br /> <br /> Cửa Chính Tây<br /> <br /> Cửa Tây – Nam (Cửa Hữu, bên phải Kinh Thành)<br /> <br /> Cửa Chính Nam (Cửa Nhà Đồ)<br /> <br /> Cửa Quảng Đức<br /> <br /> Cửa Thể Nhơn (Cửa Ngăn)<br /> <br /> Cửa Đông Nam (Cửa Thượng Tứ)<br /> <br /> Cửa Chính Đông (Cửa Đông Ba)<br /> <br /> Cửa Đông Bắc (Cửa Kẻ Trài)<br /> <br /> Ngoài ra kinh thành còn 1 cửa thông với Trấn Bình Đài hay còn gọi là đồn Mang Cá một <br /> góc thành nhỏ ở phía Đông Bắc. Đặc biệt kinh thành Huế còn có 2 cửa Thủy được đặt tên <br /> là:<br /> <br /> – Đông thành Thủy Quan hay còn gọi là Cống Lương Y thông giữa sông Ngự Hà và sông  <br /> đào Đông Ba.<br /> <br /> – Tây Thành Thủy quan hay còn gọi là cống Thủy Quan thông giữa sông Ngự Hà và sông  <br /> đào kẻ Vạn ở khu vực Kim Long.<br /> <br /> Phía trước kinh thành Huế  về hướng Nam là hướng quan trọng nhất của Kinh Thành có <br /> Kỳ đài hay còn gọi là Cột Cờ cố đô Huế. Kỳ Đài được xây dựng vào năm 1807 dưới thời  <br /> vua Gia Long. Đến thời vua Minh Mạng, Kỳ  Đài được tu sửa hoàn chỉnh vào các năm <br /> 1829, 1831 và 1840.<br /> Kỳ Đài gồm 2 phần chính là Đài và Cột cờ.<br /> <br /> Đài gồm 3 tầng hình chóp cụt hình chữ nhật chồng lên nhau tượng trưng cho Thiên địa và  <br /> Nhân. Tầng thứ  nhất cao hơn 5,5 m, tầng giữa cao khoảng 6m, tầng trên cùng cao hơn 6  <br /> m. Tổng cộng của ba tầng đài cao khoảng 17,5 m. Từ mặt đất lên tầng dưới bằng một lối <br /> đi nhỏ   ở  phía trái Kỳ  Ðài, tầng dưới thông với tầng giữa bằng một cửa vòm rộng 4 m, <br /> tầng giữa thông với tầng trên cùng cũng bằng một cửa vòm rộng 2 m. Ðỉnh mỗi tầng có  <br /> xây một hệ thống lan can cao 1 m được trang trí bằng gạch hoa đúc rỗng. Nền ba tầng lát  <br /> gạch vuông và gạch vồ, có hệ  thống thoát nước mưa xuống dưới. Trước đây còn có hai  <br /> chòi canh và tám khẩu đại bác.<br /> <br /> Cột cờ  nguyên xưa làm bằng gỗ, gồm hai tầng, cao gần 30 m. Năm Thiệu Trị  thứ  6 <br /> (1846), cột cờ được thay bằng một cây cột gỗ dài hơn 32 m. Đến năm Thành Thái thứ 16 <br /> (1904), cột cờ này bị một cơn bão lớn quật gãy, nên sau phải đổi làm bằng ống gang. Năm  <br /> 1947, khi quân Pháp tái chiếm Huế, cột cờ lại bị pháo bắn gãy một lần nữa. Năm 1948,  <br /> cột cờ bằng bê tông cốt sắt với tổng chiều cao 37m hiện nay mới được xây dựng<br /> <br /> Ngày nay Kỳ Đài Huế được treo Quốc kỳ của nước Việt Nam có diện tích 9 x 12m.<br /> <br /> Cửu vị  Thần Công: Cửu vị  Thần Công là tên gọi của 9 khẩu Đại Bác được đặt hai bên <br /> cửa Quảng Đức và Thể  Nhơn. Hiện nay, du khách khi vào tham quan Hoàng Thành Huế <br /> sẽ  bắt gặp khi đi qua cửa Quảng Đức và Thể  Nhơn. Cửu Vị  thần Công được các nghệ <br /> nhân đúc đồng Huế đúc theo lệnh của vua Gia Long sau khi đánh bại triều Tây Sơn. Năm  <br /> 1803 sau khi chiếm lại kinh đô Phú Xuân, vua Gia Long lên ngôi đã truyền tập hợp tất cả <br /> các binh khí bằng đồng của triều Tây Sơn đúc thành 9 khẩu đại bác và đặt tên là Cửu Vị <br /> Thần Công nhằm kỷ  niệm chiến thắng. Mỗi khẩu  đại bác dài 5,1m và nặng khoảng  <br /> 17,000 kg. Ngày nay chúng ta vẫn còn thấy rõ kích cỡ và trọng lượng được khắc trên mỗi  <br /> khẩu đại bác. Đồng thời còn ghi rõ cách thức sử  dụng súng cũng như  thuốc súng  ở  trên  <br /> mỗi khẩu Đại Bác. Mỗi khẩu thần công được đặt theo Ngũ Hành gồm 5 khẩu hiện nay <br /> để ở cửa Quảng Đức là : Kim, Mộc, thủy, Hỏa, Thổ và 4 khẩu được đặt theo tứ thời là: <br /> Xuân, Hạ, Thu, Đông ngày nay được đặt ở cửa Thể Nhơn.<br /> Hoàng Thành Huế: Hoàng Thành Huế  là vòng thành thứ  2 bên trong Kinh Thành Huế  có <br /> chiều dài mỗi mặt thành khoảng 600m và gần như là vuông. Chiều cao khoảng 4, và dày  <br /> 1m được xây bằng gạch vồ. Hoàng Thành chính là trái tim và là nơi quan trọng nhất của <br /> Kinh thành Huế, nơi đặt các cung điện, ngai vàng, trung tâm chính trị và nơi ở và làm việc  <br /> của Hoàng gia triều Nguyễn. Hoàng Thành và Tử Cấm Thành được gọi chung là Đại Nội. <br /> Hoàng Thành được xây dựng vào năm 1804 dưới thời vua Gia Long nhưng mãi đến năm <br /> 1833 mới hoàn chỉnh hệ  thống cung điện với khoảng 147 công trình lớn nhỏ  khác nhau. <br /> Hoàng Thành được trổ 4 cửa để ra vào gồm: Cửa Ngọ Môn nằm ở phía nam được xem là  <br /> cửa quan trọng nhất nơi đặt lễ đài là lầu Ngũ Phụng được xem như là bộ mặt của Quốc  <br /> gia, nơi đón sứ thần các nước. Cửa phía Bắc được đặt tên là cửa Hòa Bình, tả hữu hai bên  <br /> là cửa Hiển Nhơn và Chương Đức. Các cầu và hồ xung quanh hoàng thành điều có tên gọi  <br /> là Kim Thủy. Hoàng Thành và các Cung điện bên trong điều được bố trí trên một trục đối  <br /> xứng gọi là trục Thần Đạo. Trong đó chính giữa trục Thần Đạo chỉ  bố  trí các công trình <br /> dành cho vua như cửa Ngọ  Môn, cầu Trung Đạo, điện Thái Hòa, điện Cần Chánh, Cửa <br /> Hòa Bình. Hai bên trục thần đạo tính từ  trong ra ngoài được bố  trí tuân theo nguyên tắc:  <br /> Tả Văn Hữu Võ, Nam tả nữ Hữu hay Tả Chiêu Hữu Mục.<br /> <br /> Ngọ Môn – Lầu Ngũ Phụng:<br /> <br /> Cửa Ngọ môn là cửa chính của Hoàng Thành Huế là cửa quan trọng nhất trong 4 cửa của  <br /> Hoàng thành nơi dành để cho vua đi trong các dịp lễ quan trọng và là nơi diễn ra các buổi  <br /> lễ quan trọng như lễ: đón tiếp sứ thần các nước, lễ xướng tên các Tiến Sĩ, lễ Ban Sóc và  <br /> lễ  Duyệt Binh. Vị  trí của cửa Ngọ  Môn trước đây có tên là Nam Khuyết Đài được xây <br /> dựng vào thời vua Gia Long, phía trên đài có điện Càn Nguyên, hai bên có hai cửa tả hữu <br /> Đoan Môn. Đến năm Minh Mạng thứ 14 tức năm 1833 khi vua Minh Mạng cho quy hoạch  <br /> lại toàn bộ kinh thành Huế đã cho phá bỏ Nam Khuyết Đài và xây dựng của Ngọ Môn và  <br /> Lầu Ngũ Phụng như ngày hôm nay. Cửa Ngọ Môn gồm có 2 phần chính là phần Đài Cổng <br /> và Phần lầu Ngũ Phụng. Phần cửa Ngọ Môn hay còn gọi là phần nền đài được xây dựng  <br /> bằng gạch vồ và đá Thánh, móng được gia cố  chịu lực bằng đồng thau. Nền đài có hình <br /> chữ U vuông góc có chiều dài đáy 57,77m chiều dài cánh 27,06m chiều cao 5m với diện  <br /> tích tính phần chữ  U là 1560m2.  Ở  phần giữ  nền đài nhìn từ  ngoài vào có 3 cổng chính:  <br /> Cổng chính giữa đặt tên là Ngọ Môn và chỉ được dành cho Vua, hai cửa hai bên được đặt  <br /> tên là Tả  Giáp Môn và Hữu Giáp Môn dành cho quan văn và quan võ theo nguyên tắc Tả <br /> Văn Hữu Võ.<br /> <br /> Đặc biệt hai bên cánh chữ  U có 2 cửa vòng nhỏ  mà chỉ  được nhìn thấy từ  phía trong ra  <br /> ngoài đó là Tả  Dịch Môn và Hữu Dịch Môn. Hai cửa quanh này chỉ  dành cho voi ngựa,  <br /> quân lính và đoàn tùy tùng khi vua xuất hành qua cửa Ngọ Môn.<br /> <br /> Phần lầu Ngũ Phụng: Công trình kiến trúc đẹp nhất trong quần thể  Hoàng Thành Huế <br /> được xây dựng trên nền đài của cửa Ngọ Môn. Lầu Ngũ Phụng có mặt bằng hình chữ U <br /> dựa theo nền móng của cửa Ngọ  Môn gồm 2 tầng lầu và hai tầng mái. Lầu được dựng <br /> trên nền cao 1,14m xây dựng trên nền đài của cửa Ngọ  Môn. Khung của lầu được dựng  <br /> trên 100 cây cột gỗ Lim tượng trưng cho Bách tính trăm họ trong thiên hạ, trong đó có 48  <br /> cây cột xuyên suốt 2 tầng lầu. Hệ  thống mái dưới chạy quanh lầu xuyên suốt để  che <br /> nắng che mưa cho tất cả các phần lang cang phía dưới. Hệ thống mái tầng trên phức tạp  <br /> hơn được chia làm 9 bộ mái trong đó bộ mái giữa cao hơn 8 bộ mái 2 bên được dành cho  <br /> vua ngự. Bộ mái giữa được lợp bằng ngói Hoàng Lưu Ly màu vàng tượng trưng cho nhà <br /> vua. 8 bộ mái còn lại chia điều cho hai bên được lợp mái Thanh Lưu Ly màu xanh ngọc.<br /> <br /> Chức năng của cửa Ngọ  Môn và Lầu ngũ phụng: Cửa Ngọc Môn và Lầu ngũ phụng là <br /> công trình kiến trúc quan trọng nó được xem như  là một lễ  đài và bộ  mặt của quốc gia.  <br /> Nơi đây một năm chỉ  có vài ngày diễn ra các lễ  lớn quan trọng của đất nước, còn lại <br /> quanh năm cổng chỉnh được đóng kín và chỉ mở ra khi có dịp vua vi hành có đoàn tùy tùng  <br /> hoặc khi vua xuất cung tế đàn Nam Giao.<br /> <br /> Lễ truyền lô: Ngày nay khi tham quan lầu Ngũ Phụng, du khách có cơ hội chiêm ngưỡng  <br /> bức tranh sơn dầu mô tả lại lễ truyền Lô hay còn gọi là lễ xướng tên khác sĩ tử đỗ  Tiến  <br /> Sĩ trong cuộc thi Đình tại Kinh Thành. Vào buổi lễ  truyền lô, đoàn xa giá của vua xuất <br /> phát từ điện Thái Hòa sau đó lên lầu Ngũ Phụng. Vua ngự trên ngai vàng được đặt chính <br /> giữa lầu Ngũ Phụng.<br /> Phí dưới dân Ngọ  Môn. Các sĩ tử  đỗ  Tiến sĩ trong khoa thi Đình đứng lần lượt hai bên <br /> theo nguyên tắc tả văn hữu võ chờ  quan bộ Lễ tuyên đọc sắc phong vua ban. Sau đó lần  <br /> lượt các sĩ tử sẽ nhận ấn tứ Vinh quy và được cưỡi ngựa về làng Vinh Quy Bái Tổ. Theo  <br /> luật lệ triều Nguyễn. Làng nào có sĩ tử đỗ  khoa thi Đình sẽ được miễn thuế 3 năm. Cho <br /> nên nhân gian có câu truyền miệng “Một người làm quan, cả họ được nhờ”.<br /> <br /> Lễ Ban Sóc: Lễ phát lịch hàng năm của nhà vua cho năm mới.<br /> <br /> Lễ tiếp sứ thần các nước: Ngọ Môn cũng là nơi làm lễ tiếp đón các xứ thần các nước lân <br /> ban trong đó có xứ thần Trung Quốc.<br /> <br /> Lễ Duyệt Binh.<br /> <br /> Dấu mốc lịch sử quan trọng đã diễn ra tại Ngọn Môn:<br /> <br /> Trải qua 143 năm trì vị của nhà Nguyễn, chứng kiến biết bao thăng trầm trong tiến trình <br /> lịch sử. Ngọ  môn bản thân nó cũng chứng kiến rất nhiều sự  kiện trọng đại của dân tộc  <br /> Việt Nam mà điển hình là lễ  thoái vị  của vua Bảo Đại, vị  vua cuối cùng của chế  độ <br /> Phong Kiến Việt Nam. Năm 1945, cách mạng tháng 8 thành công vang dội trong cả nước, <br /> vua Bảo Đại lúc đó dưới sự  chứng kiến của đại diện chính phủ  lâm thời cách mạng đã  <br /> trao ấn kiếm của nhà vua là biểu tượng quyền lực của chế độ  phong kiến cho ông Trần  <br /> Huy Liệu và Nguyễn Lương Bằng. Vua Bảo Đại đã đọc chiếu thoái vị  và được ông Cù <br /> Huy Cận gắn huy hiệu công nhân Việt Nam lên áo. Tại đây, vua Bảo Đại đã có một câu  <br /> nói nổi tiếng “Trẫm thà làm dân một nước tự do độc lập còn hơn làm vua của một nước <br /> nô lệ”.<br /> <br /> Điện Thái Hòa: Điện Thái Hòa là công trình kiến trúc quan trọng nhất trong quần thể <br /> Hoàng Thành Huế. Là nơi đặt ngai vàng của các vị vua nhà Nguyễn, là trung tâm chính trị <br /> của cả nước trong 143 năm. Điện Thái hòa được đặt ở Trung Tâm khu vực Hoàng Thành,  <br /> theo phong thủy là nơi trung tâm của vũ trụ. Điện quay mặt về  hướng chánh nam được <br /> nối với cửa Ngọ Môn bằng một cây cầu đá bắc qua hồ Thái Dịch được gọi là cầu Trung <br /> Đạo. Xưa kia cầu Trung Đạo chỉ dành cho vua đi. Các quan văn võ phải đi hai lối hai bên <br /> tả  hữu để  vào sân chầu hay còn gọi là sân Đại Triều Nghi. Phía đầu và cuối cầu Trung  <br /> Đạo được dựng hai chiếc cổng có hình lưỡng long chầu Nhật. Phía trên có khắc 4 chữ “  <br /> Chính đại quang minh” và “Chính trực đẳng bình” có ngụ  ý rằng thiên tử  khi đi qua đây  <br /> để trị vì thiên hạ phải có cái tâm chính trực bình đẳng và quang minh chính đại. Phía trước  <br /> điện Thái Hòa là sân Đại Triều Nghi, nơi thiết hành lễ Đại Triều vào ngày mồng 1 và 15  <br /> hàng tháng.<br /> <br /> Về lịch sử xây dựng: Điện Thái Hòa được xây dựng vào tháng 2 năm 1805 dưới thời vua <br /> Gia Long và hoàn thành vào tháng 10 cùng năm. Năm 1833 khi vua Minh Mạng cho quy  <br /> hoạch lại toàn bộ  Hoàn Thành, điện Thái Hòa được dời về  mé phía Nam của Hoàng  <br /> Thành và cho làm lại quy mô lớn và lộng lẫy hơn. Năm 1923 dưới thời vua Khải Định để <br /> chuẩn bị  cho lễ  Tứ  Tuần của Nhà vua (Mừng vua tròn 40 tuổi) diễn ra vào năm 1924,  <br /> điện Thái Hòa lại được trùng tu thêm lần nữa.<br /> <br /> Về  chức năng của điện Thái Hòa: Điện Thái Hòa là biểu trưng quyền lực của Hoàng  <br /> triều Nguyễn. Điện, cùng với sân chầu, là địa điểm được dùng cho các buổi triều nghi  <br /> quan trọng của triều đình như: lễ  Đăng Quang, sinh nhật vua, những buổi đón tiếp sứ <br /> thần chính thức và các buổi đại triều được tổ chức 2 lần vào ngày mồng 1 và 15 âm lịch  <br /> hàng tháng. Vào những dịp này, nhà vua ngồi uy nghiêm trên ngai vàng. Chỉ  các quan Tứ <br /> trụ  và những hoàng thân quốc thích của nhà vua mới được phép vào điện diện kiến. Các  <br /> quan khác có mặt đông đủ và đứng xếp hàng ở sân Đại triều theo cấp bậc và thứ hạng từ <br /> nhất phẩm đến cửu phẩm, quan văn đứng bên trái, quan võ đứng bên phải. Tất cả các vị <br /> trí đều được đánh dấu trên hai dãy đá đặt trước sân chầu.<br /> <br /> Kiến trúc: Điện Thái Hòa là nơi thể hiện uy quyền của quốc gia, điện được xây trên nền <br /> cao 1 mét, diện tích 1360 m², nguy nga bề thế trông ra một sân rộng.<br /> <br /> Cung điện được xây theo lối trùng thiềm điệp ốc và được chống đỡ  bằng 80 cột gỗ  lim  <br /> được sơn thếp và trang trí hình rồng vờn mây – một biểu tượng về sự gặp gỡ giữa hoàng  <br /> đế  và quần thần đúng như  chức năng vốn có của ngôi điện. Nhà trước và nhà sau của <br /> điện được nối với nhau bằng một hệ thống trần vòm mai cua dưới máng nước nối của <br /> hai mái nhà (thuật ngữ  kiến trúc gọi là máng thừa lưu). Chính trần mai cua này nối với <br /> nửa trong tạo ra một không gian nội thất liên tục, thống nhất, rộng rãi, không còn cảm <br /> giác ghép nối hai tòa nhà. Việc  ứng dụng máng thừa lưu là một sáng tạo của người xây <br /> dựng điện, nó chẳng những che kín được sự  lõm xuống của nơi nối hai mái mà còn tạo  <br /> nên nhịp điệu kiến trúc. Đây cũng là một dụng ý của kiến trúc sư. Do thời tiết và kiến <br /> trúc cổ  truyền Việt Nam mà điện không thể  xây cao như  của Trung Quốc, vì vậy nửa  <br /> ngoài mái cao hơn, nửa trong mài thấp hơn. Mục đích là tạo cảm giác "cao" cho gian  <br /> ngoài­ nơi bá quan hành lễ, bên trong thấp vừa làm nổi bật gian ngoài vừa là nơi vua ngồi <br /> nên kín đáo, uy nghiêm. Hệ  thống vì kèo nóc nhà sau tương đối đơn giản, chỉ  làm theo <br /> kiểu "vì kèo cánh ác", nhưng hệ thống vì kèo nóc nhà trước thì thuộc loại vì kèo "chồng <br /> rường – giả thủ" được cấu trúc tinh xảo. Toàn bộ hệ thống vì kèo, rường cột, ở đây đều  <br /> liên kết với nhau một cách chặt chẽ bằng hệ thống mộng chắc chắn. Mái điện lợp ngói  <br /> hoàng lưu ly, nhưng không phải là một dải liên kết mà được chia làm ba tầng chồng mí <br /> lên nhau theo thứ tự từ cao xuống thấp, gọi là mái "chồng diêm", mục đích là để  tránh đi <br /> sự nặng nề của một tòa nhà quá lớn đồng thời để  tôn cao ngôi điện bằng cách tạo ra ảo  <br /> giác chiều cao cho tòa nhà. Giữa hai tầng mái trên là dải cổ diêm chạy quanh bốn mặt của <br /> tòa nhà. Dải cổ diêm được phân khoảng ra thành từng ô hộc để  trang trí hình vẽ  và thơ <br /> văn (197 bài thơ) trên những tấm pháp lam theo lối nhất thi nhất họa. Trang trí cũng như <br /> kiến trúc của điện Thái Hòa nói chung, có một khái niệm đặc biệt đáng chú ý là con số 5,  <br /> và nhất là con số 9. Hai con số này chẳng những xuất hiện ở trang trí nội ngoại thất của  <br /> tòa nhà mà còn ở trên các bậc thềm của điện. Từ phía Đại Cung Môn của Tử Cấm Thành <br /> đi ra điện Thái Hòa, vua phải bước lên một hệ thống bậc thềm ở tầng nền dưới là 9 cấp <br /> và ở tầng nền trên là 5 cấp. Trước mặt điện số bậc cấp bước lên Đệ nhị Bái đình và Đệ <br /> nhất Bái đình cộng lại là 9. Tiếp đó, hệ thống bậc thềm ở nền điện cũng có 5 cấp. Đứng <br /> ở  sân Đại triều nhìn vào hay từ  phía Tử  Cấm Thành nhìn ra người ta đều thấy trên mỗi  <br /> mái điện đều được đắp nổi 9 con rồng ở trong các tư thế khác nhau: lưỡng long chầu hổ <br /> phù đội bầu rượu, lưỡng long triều nhật, hồi long (rồng quay đầu lại), rồng ngang v.v…<br /> Ở  nội điện cũng thế, từ  ngai vàng, bửu tán, các mặt diềm gỗ  chung quanh cho đến mỗi <br /> mặt của ba tầng bệ mỗi nơi đều trang trí một bộ 9 con rồng.<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2