Đề bài: Thuyết minh về quần thể di tích cố đô Huế <br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Huế là một thành phố ở miền Trung Việt Nam và là tỉnh lị của tỉnh Thừa Huế. Là kinh đô <br />
của Việt Nam dưới triều Nguyễn Huệ nổi tiếng với những đền chùa, thành quách, lăng <br />
tẩm, kiến trúc gắn liền với cảnh quan thiên nhiên. Nghiêng mình bên dòng sông xanh hiền <br />
hòa của miền Trung. Huế là một di sản văn hoá vật thể và tính thần mang ý nghĩa quốc <br />
hồn quốc túy, một miền văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Năm 1993, Huế đã <br />
được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới. Cho đến hôm nay, Huế đã đang, và <br />
sẽ mãi mãi được giữ gìn, bảo tồn và phát triển, sánh vai với các kỳ quan hàng ngàn năm <br />
của nhân loại trong danh mục Di sản Văn hoá Thế giới của UNESCO.<br />
<br />
Quần thể di tích Cố đô Huế hay Quần thể di tích Huế chỉ những di tích lịch sử – văn hoá <br />
do triều Nguyễn chủ trương xây dựng trong khoảng thời gian đầu thế kỷ 19 đến nửa đầu <br />
thế kỷ 20 trên địa bàn kinh đô Huế xưa; nay thuộc phạm vi thành phố Huế và một vài <br />
vùng phụ cận thuộc tỉnh Thừa ThiênHuế Quần thể di tích Cố đô Huế có thể phân chia <br />
thành các cụm công trình gồm: Các di tích trong Kinh thành Huế gồm Kinh thành, Hoàng <br />
thành, Tử cấm thành. Các di tích bên ngoài Kinh thành Huế gồm các lăng tẩm, chùa chiền, <br />
cung điện…<br />
<br />
Nằm giữa lòng Huế bên bờ Bắc của con sông Hương dùng dằng chảy xuyên qua từ Tây <br />
sang Đông, hệ thống kiến trúc biểu thị cho quyền uy của chế độ trung ương tập quyền <br />
nhà Nguyễn vẫn đang sừng sững trước bao biến động của thời gian. Đó là Kinh thành <br />
Huế Hoàng thành Huế Tử cấm thành Huế, ba tòa thành lồng vào nhau được bố trí đăng <br />
đối trên một trục dọc xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc. Hệ thống thành quách ở đây là <br />
một mẫu mực cùng sự kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn giữa tinh hoa kiến trúc Đông và <br />
Tây. Đó là Kinh thành Huế được vua Gia Long tiến hành khảo sát từ năm 1803, khởi công <br />
xây dựng từ 1805 và hoàn chỉnh vào năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng. Kinh thành <br />
Huế phía nam giáp đường Trần Hưng Đạo; phía tây giáp đường Lê Duẩn; phía bắc giáp <br />
đường Tăng Bạt Hổ; phía đông giáp đường Phan Đăng Lưu. Kinh thành Huế gồm: Kỳ <br />
Đài, Trường Quốc Từ Giám, Điện Long An, Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế Đình Phú <br />
Xuân, Hồ Tịnh Tâm, Tàng thư lâu Viện Cơ Mật – Tam Tòa, Đàn Xã Tắc, Cửu vị thần <br />
công.<br />
<br />
Hoàng Thành nằm bên trong Kinh Thành, có chức năng bảo vệ các cung điện quan trọng <br />
nhất của triều đình, các miếu thờ tổ tiên nhà Nguyễn và bảo vệ Tử Cấm Thành – nơi <br />
dành riêng cho vua và hoàng gia Hoàng Thành và Tử Cấm Thành thường được gọi chung <br />
là Đại Nội. Các di tích trong Hoàng Thành gồm: Ngọ Môn, Điện Thái Hoà và sân Đại <br />
Triều Nghi, Triệu Tổ Miếu, Hưng Tổ Miếu, Thế Tổ Miếu, Thái Tổ Miếu, Cung Diên <br />
Thọ, Cung Trường Sanh, Hiển Lâm Các, Cửu Đỉnh, Điện Phụng Tiên. Hoàng Thành giới <br />
hạn bởi một vòng tường thành gần vuông với mỗi chiều xấp xỉ 600m với 4 cổng ra vào <br />
độc đáo nhất thường được lấy làm biểu tượng của Cố đô: Ngọ Môn, chính là khu vực <br />
hành chính tối cao của triều đình Nguyễn.<br />
<br />
Bên trong Hoàng Thành, hơi dịch về phía sau, là Tử Cấm Thành. Từ Cấm Thành là vòng <br />
tường thành thứ ba của Kinh đô Huế giới hạn khu vực làm ăn ở và sinh hoạt của vua và <br />
hoàng gia. Các di tích trong Tử Cấm Thành gồm: Tả Vu và Hữu Vu, Vạc đổng, Điện <br />
Kiến Trung, Điện Cần Chánh, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường.<br />
<br />
Xuyên suốt cả ba tòa thành, con đường Thần đạo chạy từ bờ sông Hương mang trên mình <br />
những công trình kiến trúc quan yếu nhất của Kinh thành Huế: Nghinh Lương Đình, Phu <br />
Văn Lâu, Kỳ Đài, Ngọ Môn, điện Thái Hòa, Điện Cẩn Chánh, điện Càn Thành, cung Khôn <br />
Thái, lầu Kiến Trung… Hai bên đường Thần đạo này là hàng trăm công trình kiến trúc lớn <br />
nhỏ bố trí cân đối đều đặn, đan xen cây cỏ, chập chờn khi ẩn khi hiện giữa những sắc <br />
màu thiên nhiên, luôn tạo cho con người một cảm giác nhẹ nhàng thanh thản.<br />
<br />
Các di tích ngoài kinh thành Huế bao gồm Lăng tẩm và một số di tích khác. Về phía Tây <br />
của Kinh thành, nằm hai bên bờ sông Hương, lăng tẩm của các vua Nguyễn bao gồm: <br />
Lăng Gia Long – còn gọi là Thiên Thọ Lằng, thực ra là một quần thể nhiều lăng tẩm trong <br />
hoàng quyền. Lăng Minh Mạng còn gọi là Hiếu lăng do vua Thiệu Trị cho xây dựng đế <br />
chôn cất vua cha Minh Mạng cách cố đô Huế 12 km. Lăng Tự Đức được chính vua Tự <br />
Đức cho xây dựng khi còn tại vị, lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ, sau khi <br />
Tự Đức mất, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng, là một trong những lăng tẩm đẹp nhất <br />
của vua chúa nhà Nguyễn. Lăng Đồng Khánh còn gọi là Tư Lăng xây dựng để thờ cha, khi <br />
Đồng Khánh đột ngột qua đời, Vua Thành Thái (1889 – 1907) kế vị trong bối cảnh đất <br />
nước gặp nhiều khó khăn không thể xây cất lăng tấm cho cha, đành đổi làm Ngưng Hy để <br />
thờ vua Đồng Khánh. Lăng Dục Đức tên chữ An Lăng cách trung tâm thành phố chưa đầy <br />
2km; là nơi an táng của 3 vua nhà Nguyễn: Dục Đức, Thành Thái, Duy Tân. Lăng Khải <br />
Định còn gọi là Ứng Lăng tọa lạc trên triền núi Châu Chữ bên ngoài kinh thành Huế được <br />
xây dựng từ năm 1920 ngay sau khi Khải Định lên ngôi, pha trộn kiến trúc Đông Tây Kim <br />
cổ lạ thường, với các tác phẩm nghệ thuật ghép tranh sành sứ độc đáo. Lăng Thiệu Trị <br />
còn gọi là Xương Lăng là nơi chôn cất hoàng đế Thiệu Trị. So với lăng tẩm các vua tiền <br />
nhiệm và kế vị, lăng Thiệu Trị có những nét riêng. Đây là lăng duy nhất quay mặt về <br />
hướng Tây Bắc, một hướng ít được dùng trong kiến trúc cung điện và lăng tẩm thời <br />
Nguyễn. Mỗi lăng vua Nguyễn đều phản ánh cuộc đời và tính cách của vị chủ nhân đang <br />
yên nghỉ.<br />
<br />
Các di tích khác bao gồm: Trấn Bình Đài và cửa Trấn Bình. Trấn Bình đài nằm ở vị trí <br />
Đông Bắc kinh thành Huế Phu Văn Lâu nằm trên trục chính của Hoàng Thành Huế phía <br />
trước Kỳ Đài dùng làm nơi niêm yết những chỉ dụ quan trọng của nhà vua và triều đình, <br />
hoặc kết quả các kỳ thi do triều đình tổ chức. Tòa Thương Bạc tọa lạc bên bờ Nam sông <br />
Hương, là trụ sở để đón tiếp các sứ thần nước ngoài. Văn Miếu còn gọi là Văn Thánh <br />
Miếu là nơi thờ Khổng Tử và dựng bia tiến sĩ. Võ Miêu hay Võ Thánh miếu, là nơi thờ <br />
phụng và ghi danh những danh tướng Việt Nam, những tiến sĩ đỗ trọng ba khoa thi võ <br />
dưới triều Nguyễn. Đàn Nam Giao triều Nguyễn là nơi các vua Nguyễn tế trời. Hổ <br />
Quyền còn đọc là Hổ Khuyên là một chuồng nuôi hổ và là một đâu trường độc đáo, đây là <br />
đấu trường của những cuộc tử chiến giữa voi và hổ nhằm tế thần trong ngày hội và phục <br />
vụ nhu cầu giải trí tiêu khiển. Điện Voi Ré để thờ các vị thần bảo vệ và miếu thờ bốn <br />
con voi dũng cảm nhất trong chiến trận của triều Nguyễn. Điện Hòn Chén tọa lạc trên <br />
núi Ngọc Trán, thuộc làng Ngọc Hồ, xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – <br />
Huế. Ngày xưa người Chăm thờ nữ thần PoNagar, sau đó người Việt tiếp tục thờ bà <br />
xưng Thánh Mẫu Thiên Y A Na. Chùa Thiên Mụ là một ngôi chùa nằm trên đồi Hà Khê, <br />
tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5km về phía tây, là ngôi chùa <br />
cổ nhất của Huế. Trấn Hải Thành (Thành trấn giữ mặt biển) là một thành lũy dùng để <br />
bảo vệ kinh đô triều Nguyễn được xây dựng ở cửa Phía Đông, kinh thành Huế. Nghênh <br />
Lương Đình hay Nghênh Lương Tạ dùng làm nơi nghỉ chân của nhà vua trước khi đi <br />
xuống bên sông để lên thuyền rồng hoặc làm nơi hóng mát. Cung An Định tọa lạc bên bờ <br />
sông An Cựu, là cung điện riêng của vua Khải Định từ khi còn là thái từ đến khi làm vua, <br />
sau này được Vĩnh Thuỵ thừa kế và từng sống ở đây sau khi thoái vị.<br />
<br />
Tất cả những công trình kiến trúc trên được đặt trong một khung cảnh thiên nhiên kỳ thú <br />
với nhiều yếu tố biểu tượng sẵn có tự nhiên đến mức người ta mặc nhiên xem đó là <br />
những bộ phận của Kinh thành Huế – đó là núi Ngự Bình dòng Hương Giang, cồn Giã <br />
Viên, cồn Bộc Thanh… Nhìn từ phía ngược lại những công trình kiến trúc ở đây như hoà <br />
lẫn vào thiên nhiên tạo nên những tiết tấu kỳ diệu khiến người ta quên mất bàn tay con <br />
người đã tác động lên nó. Ngày nay, Huế trở thành một thành phố Festival đặc trưng của <br />
Việt Nam. Cứ hai năm một lần, nhân dân thành phố Huế lại đón chào ngày lễ hội trọng <br />
đại này trong niềm háo hức. Với một di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa <br />
quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và <br />
thế giới. Huế sẽ mãi mãi được giữ gìn – cho Việt Nam và cho thế giới, mãi mãi là niềm <br />
tự hào của chúng ta. Huế hấp dẫn và chiếm được tình cảm của nhiều người, trong nước <br />
cũng như quốc tế.<br />
<br />
Bài số 2<br />
<br />
Cố đô Huế là một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng của Việt Nam hàng năm thu hút <br />
rất nhiều du khách trong và ngoài nước. Huế là vùng đất kinh kỳ xưa được nhà Nguyễn <br />
xây dựng làm trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của cả nước từ đầu thế kỷ 19 đến <br />
nửa đầu thế kỷ 20.<br />
<br />
Nơi đây từng là kinh đô của triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam, nơi chứng <br />
kiến biết bao thăng trầm trong một giai đoạn lịch sử chuyển giao giữa thời kỳ Phong <br />
kiến, thuộc địa và thời kỳ xây dựng đất nước trong thời đại mới. Ngày nay, Huế hầu như <br />
còn lưu giữ khá nguyên vẹn các công trình kiến trúc đặc trưng của chế độ phong kiến nhà <br />
Nguyễn trải qua 143 năm từ năm 1802 đến năm 1945. Một trong những công trình kiến <br />
trúc đặc trưng tiêu biểu và hoành tráng nhất trong quần thể di tích cố đô Huế đó là Kinh <br />
Thành Huế. Hệ thống kinh thành ngày này gồm rất nhiều công trình kiến trúc quan trọng, <br />
nơi từng là trung tâm chính trị của cả nước và là nơi trị vì của 13 vị vua triều Nguyễn.<br />
<br />
Địa điểm lý tưởng nhất để hướng dẫn viên giới thiệu về Kinh Thành Huế chính là ở lầu <br />
Ngũ Phụng, nơi du khách có thể nhìn thấy được dòng sông Hương, núi Ngự Bình phía xa <br />
và Cồn Hến, cồn Dã Viên. Đây chính là một trong những yếu tố phong thủy cho Kinh <br />
Thành Huế. Kinh thành Huế được xây dựng dưới thời vua Gia Long, là vị vua khai quốc <br />
của triều đại nhà Nguyễn.<br />
<br />
Công cuộc khảo sát để xây dựng Kinh Thành Huế bắt đầu từ năm 1803, chính thức khởi <br />
công vào năm 1805 hoàn chỉnh vào khoảng những năm 1832 dưới thời vua Minh Mạng. <br />
Có thể nói rằng, kinh thành Huế là một trong những thành tựu vĩ đại của vua Gia Long và <br />
triều Nguyễn.<br />
<br />
Kinh thành Huế được xây dựng trên diện tích khoảng 520 ha có chu vi 10km cao 6,6m dài <br />
21m. Thành có kiến trúc hình Vauban được xây khúc khỉu với những pháo đài phòng thủ <br />
được bố trí gần như điều nhau trên mặt thành. Thành ban đầu chỉ đắp bằng đất, mãi đến <br />
cuối thời vua Gia Long thành mới được cho ốp gạch như chúng ta thấy ngày hôm nay. <br />
Bên ngoài vòng thành có một hệ thống hộ thành hào chạy dọc theo chân thành có tác dụng <br />
như là chướng ngại vật có chức năng phòng thủ vừa có chức năng giao thông thủy.<br />
<br />
Kinh thành Huế xoay mặt về hướng Nam theo phong thủy trong K ịch d ịch “Thánh nhân <br />
nam diện, vi thính thiên hạ” Có nghĩa là “Vua phải quay mặt về hướng nam để trị vì thiên <br />
hạ”.<br />
<br />
Kinh thành Huế lấy núi ngự bình cao 104m về phía nam làm yếu tố Tiền Án, Sông hương <br />
chảy qua trước mặt kinh thành làm yếu tố Minh Đường. Hai bên tả hữu sông có cồn Hến <br />
và cồn Dã Viên làm yếu tố tả Thanh Long và Hữu Bạch Hổ. Tổng cộng kinh thành Huế <br />
có tất cả 13 của ra vào cả đường bộ và đường thủy. Thành có 10 của chính gồm:<br />
<br />
Cửa Chính Bắc (Còn gọi là cửa Hậu, nằm phía sau kinh thành)<br />
<br />
Cửa Tây – Bắc (Cửa An Hòa)<br />
<br />
Cửa Chính Tây<br />
<br />
Cửa Tây – Nam (Cửa Hữu, bên phải Kinh Thành)<br />
<br />
Cửa Chính Nam (Cửa Nhà Đồ)<br />
<br />
Cửa Quảng Đức<br />
<br />
Cửa Thể Nhơn (Cửa Ngăn)<br />
<br />
Cửa Đông Nam (Cửa Thượng Tứ)<br />
<br />
Cửa Chính Đông (Cửa Đông Ba)<br />
<br />
Cửa Đông Bắc (Cửa Kẻ Trài)<br />
<br />
Ngoài ra kinh thành còn 1 cửa thông với Trấn Bình Đài hay còn gọi là đồn Mang Cá một <br />
góc thành nhỏ ở phía Đông Bắc. Đặc biệt kinh thành Huế còn có 2 cửa Thủy được đặt tên <br />
là:<br />
<br />
– Đông thành Thủy Quan hay còn gọi là Cống Lương Y thông giữa sông Ngự Hà và sông <br />
đào Đông Ba.<br />
<br />
– Tây Thành Thủy quan hay còn gọi là cống Thủy Quan thông giữa sông Ngự Hà và sông <br />
đào kẻ Vạn ở khu vực Kim Long.<br />
<br />
Phía trước kinh thành Huế về hướng Nam là hướng quan trọng nhất của Kinh Thành có <br />
Kỳ đài hay còn gọi là Cột Cờ cố đô Huế. Kỳ Đài được xây dựng vào năm 1807 dưới thời <br />
vua Gia Long. Đến thời vua Minh Mạng, Kỳ Đài được tu sửa hoàn chỉnh vào các năm <br />
1829, 1831 và 1840.<br />
Kỳ Đài gồm 2 phần chính là Đài và Cột cờ.<br />
<br />
Đài gồm 3 tầng hình chóp cụt hình chữ nhật chồng lên nhau tượng trưng cho Thiên địa và <br />
Nhân. Tầng thứ nhất cao hơn 5,5 m, tầng giữa cao khoảng 6m, tầng trên cùng cao hơn 6 <br />
m. Tổng cộng của ba tầng đài cao khoảng 17,5 m. Từ mặt đất lên tầng dưới bằng một lối <br />
đi nhỏ ở phía trái Kỳ Ðài, tầng dưới thông với tầng giữa bằng một cửa vòm rộng 4 m, <br />
tầng giữa thông với tầng trên cùng cũng bằng một cửa vòm rộng 2 m. Ðỉnh mỗi tầng có <br />
xây một hệ thống lan can cao 1 m được trang trí bằng gạch hoa đúc rỗng. Nền ba tầng lát <br />
gạch vuông và gạch vồ, có hệ thống thoát nước mưa xuống dưới. Trước đây còn có hai <br />
chòi canh và tám khẩu đại bác.<br />
<br />
Cột cờ nguyên xưa làm bằng gỗ, gồm hai tầng, cao gần 30 m. Năm Thiệu Trị thứ 6 <br />
(1846), cột cờ được thay bằng một cây cột gỗ dài hơn 32 m. Đến năm Thành Thái thứ 16 <br />
(1904), cột cờ này bị một cơn bão lớn quật gãy, nên sau phải đổi làm bằng ống gang. Năm <br />
1947, khi quân Pháp tái chiếm Huế, cột cờ lại bị pháo bắn gãy một lần nữa. Năm 1948, <br />
cột cờ bằng bê tông cốt sắt với tổng chiều cao 37m hiện nay mới được xây dựng<br />
<br />
Ngày nay Kỳ Đài Huế được treo Quốc kỳ của nước Việt Nam có diện tích 9 x 12m.<br />
<br />
Cửu vị Thần Công: Cửu vị Thần Công là tên gọi của 9 khẩu Đại Bác được đặt hai bên <br />
cửa Quảng Đức và Thể Nhơn. Hiện nay, du khách khi vào tham quan Hoàng Thành Huế <br />
sẽ bắt gặp khi đi qua cửa Quảng Đức và Thể Nhơn. Cửu Vị thần Công được các nghệ <br />
nhân đúc đồng Huế đúc theo lệnh của vua Gia Long sau khi đánh bại triều Tây Sơn. Năm <br />
1803 sau khi chiếm lại kinh đô Phú Xuân, vua Gia Long lên ngôi đã truyền tập hợp tất cả <br />
các binh khí bằng đồng của triều Tây Sơn đúc thành 9 khẩu đại bác và đặt tên là Cửu Vị <br />
Thần Công nhằm kỷ niệm chiến thắng. Mỗi khẩu đại bác dài 5,1m và nặng khoảng <br />
17,000 kg. Ngày nay chúng ta vẫn còn thấy rõ kích cỡ và trọng lượng được khắc trên mỗi <br />
khẩu đại bác. Đồng thời còn ghi rõ cách thức sử dụng súng cũng như thuốc súng ở trên <br />
mỗi khẩu Đại Bác. Mỗi khẩu thần công được đặt theo Ngũ Hành gồm 5 khẩu hiện nay <br />
để ở cửa Quảng Đức là : Kim, Mộc, thủy, Hỏa, Thổ và 4 khẩu được đặt theo tứ thời là: <br />
Xuân, Hạ, Thu, Đông ngày nay được đặt ở cửa Thể Nhơn.<br />
Hoàng Thành Huế: Hoàng Thành Huế là vòng thành thứ 2 bên trong Kinh Thành Huế có <br />
chiều dài mỗi mặt thành khoảng 600m và gần như là vuông. Chiều cao khoảng 4, và dày <br />
1m được xây bằng gạch vồ. Hoàng Thành chính là trái tim và là nơi quan trọng nhất của <br />
Kinh thành Huế, nơi đặt các cung điện, ngai vàng, trung tâm chính trị và nơi ở và làm việc <br />
của Hoàng gia triều Nguyễn. Hoàng Thành và Tử Cấm Thành được gọi chung là Đại Nội. <br />
Hoàng Thành được xây dựng vào năm 1804 dưới thời vua Gia Long nhưng mãi đến năm <br />
1833 mới hoàn chỉnh hệ thống cung điện với khoảng 147 công trình lớn nhỏ khác nhau. <br />
Hoàng Thành được trổ 4 cửa để ra vào gồm: Cửa Ngọ Môn nằm ở phía nam được xem là <br />
cửa quan trọng nhất nơi đặt lễ đài là lầu Ngũ Phụng được xem như là bộ mặt của Quốc <br />
gia, nơi đón sứ thần các nước. Cửa phía Bắc được đặt tên là cửa Hòa Bình, tả hữu hai bên <br />
là cửa Hiển Nhơn và Chương Đức. Các cầu và hồ xung quanh hoàng thành điều có tên gọi <br />
là Kim Thủy. Hoàng Thành và các Cung điện bên trong điều được bố trí trên một trục đối <br />
xứng gọi là trục Thần Đạo. Trong đó chính giữa trục Thần Đạo chỉ bố trí các công trình <br />
dành cho vua như cửa Ngọ Môn, cầu Trung Đạo, điện Thái Hòa, điện Cần Chánh, Cửa <br />
Hòa Bình. Hai bên trục thần đạo tính từ trong ra ngoài được bố trí tuân theo nguyên tắc: <br />
Tả Văn Hữu Võ, Nam tả nữ Hữu hay Tả Chiêu Hữu Mục.<br />
<br />
Ngọ Môn – Lầu Ngũ Phụng:<br />
<br />
Cửa Ngọ môn là cửa chính của Hoàng Thành Huế là cửa quan trọng nhất trong 4 cửa của <br />
Hoàng thành nơi dành để cho vua đi trong các dịp lễ quan trọng và là nơi diễn ra các buổi <br />
lễ quan trọng như lễ: đón tiếp sứ thần các nước, lễ xướng tên các Tiến Sĩ, lễ Ban Sóc và <br />
lễ Duyệt Binh. Vị trí của cửa Ngọ Môn trước đây có tên là Nam Khuyết Đài được xây <br />
dựng vào thời vua Gia Long, phía trên đài có điện Càn Nguyên, hai bên có hai cửa tả hữu <br />
Đoan Môn. Đến năm Minh Mạng thứ 14 tức năm 1833 khi vua Minh Mạng cho quy hoạch <br />
lại toàn bộ kinh thành Huế đã cho phá bỏ Nam Khuyết Đài và xây dựng của Ngọ Môn và <br />
Lầu Ngũ Phụng như ngày hôm nay. Cửa Ngọ Môn gồm có 2 phần chính là phần Đài Cổng <br />
và Phần lầu Ngũ Phụng. Phần cửa Ngọ Môn hay còn gọi là phần nền đài được xây dựng <br />
bằng gạch vồ và đá Thánh, móng được gia cố chịu lực bằng đồng thau. Nền đài có hình <br />
chữ U vuông góc có chiều dài đáy 57,77m chiều dài cánh 27,06m chiều cao 5m với diện <br />
tích tính phần chữ U là 1560m2. Ở phần giữ nền đài nhìn từ ngoài vào có 3 cổng chính: <br />
Cổng chính giữa đặt tên là Ngọ Môn và chỉ được dành cho Vua, hai cửa hai bên được đặt <br />
tên là Tả Giáp Môn và Hữu Giáp Môn dành cho quan văn và quan võ theo nguyên tắc Tả <br />
Văn Hữu Võ.<br />
<br />
Đặc biệt hai bên cánh chữ U có 2 cửa vòng nhỏ mà chỉ được nhìn thấy từ phía trong ra <br />
ngoài đó là Tả Dịch Môn và Hữu Dịch Môn. Hai cửa quanh này chỉ dành cho voi ngựa, <br />
quân lính và đoàn tùy tùng khi vua xuất hành qua cửa Ngọ Môn.<br />
<br />
Phần lầu Ngũ Phụng: Công trình kiến trúc đẹp nhất trong quần thể Hoàng Thành Huế <br />
được xây dựng trên nền đài của cửa Ngọ Môn. Lầu Ngũ Phụng có mặt bằng hình chữ U <br />
dựa theo nền móng của cửa Ngọ Môn gồm 2 tầng lầu và hai tầng mái. Lầu được dựng <br />
trên nền cao 1,14m xây dựng trên nền đài của cửa Ngọ Môn. Khung của lầu được dựng <br />
trên 100 cây cột gỗ Lim tượng trưng cho Bách tính trăm họ trong thiên hạ, trong đó có 48 <br />
cây cột xuyên suốt 2 tầng lầu. Hệ thống mái dưới chạy quanh lầu xuyên suốt để che <br />
nắng che mưa cho tất cả các phần lang cang phía dưới. Hệ thống mái tầng trên phức tạp <br />
hơn được chia làm 9 bộ mái trong đó bộ mái giữa cao hơn 8 bộ mái 2 bên được dành cho <br />
vua ngự. Bộ mái giữa được lợp bằng ngói Hoàng Lưu Ly màu vàng tượng trưng cho nhà <br />
vua. 8 bộ mái còn lại chia điều cho hai bên được lợp mái Thanh Lưu Ly màu xanh ngọc.<br />
<br />
Chức năng của cửa Ngọ Môn và Lầu ngũ phụng: Cửa Ngọc Môn và Lầu ngũ phụng là <br />
công trình kiến trúc quan trọng nó được xem như là một lễ đài và bộ mặt của quốc gia. <br />
Nơi đây một năm chỉ có vài ngày diễn ra các lễ lớn quan trọng của đất nước, còn lại <br />
quanh năm cổng chỉnh được đóng kín và chỉ mở ra khi có dịp vua vi hành có đoàn tùy tùng <br />
hoặc khi vua xuất cung tế đàn Nam Giao.<br />
<br />
Lễ truyền lô: Ngày nay khi tham quan lầu Ngũ Phụng, du khách có cơ hội chiêm ngưỡng <br />
bức tranh sơn dầu mô tả lại lễ truyền Lô hay còn gọi là lễ xướng tên khác sĩ tử đỗ Tiến <br />
Sĩ trong cuộc thi Đình tại Kinh Thành. Vào buổi lễ truyền lô, đoàn xa giá của vua xuất <br />
phát từ điện Thái Hòa sau đó lên lầu Ngũ Phụng. Vua ngự trên ngai vàng được đặt chính <br />
giữa lầu Ngũ Phụng.<br />
Phí dưới dân Ngọ Môn. Các sĩ tử đỗ Tiến sĩ trong khoa thi Đình đứng lần lượt hai bên <br />
theo nguyên tắc tả văn hữu võ chờ quan bộ Lễ tuyên đọc sắc phong vua ban. Sau đó lần <br />
lượt các sĩ tử sẽ nhận ấn tứ Vinh quy và được cưỡi ngựa về làng Vinh Quy Bái Tổ. Theo <br />
luật lệ triều Nguyễn. Làng nào có sĩ tử đỗ khoa thi Đình sẽ được miễn thuế 3 năm. Cho <br />
nên nhân gian có câu truyền miệng “Một người làm quan, cả họ được nhờ”.<br />
<br />
Lễ Ban Sóc: Lễ phát lịch hàng năm của nhà vua cho năm mới.<br />
<br />
Lễ tiếp sứ thần các nước: Ngọ Môn cũng là nơi làm lễ tiếp đón các xứ thần các nước lân <br />
ban trong đó có xứ thần Trung Quốc.<br />
<br />
Lễ Duyệt Binh.<br />
<br />
Dấu mốc lịch sử quan trọng đã diễn ra tại Ngọn Môn:<br />
<br />
Trải qua 143 năm trì vị của nhà Nguyễn, chứng kiến biết bao thăng trầm trong tiến trình <br />
lịch sử. Ngọ môn bản thân nó cũng chứng kiến rất nhiều sự kiện trọng đại của dân tộc <br />
Việt Nam mà điển hình là lễ thoái vị của vua Bảo Đại, vị vua cuối cùng của chế độ <br />
Phong Kiến Việt Nam. Năm 1945, cách mạng tháng 8 thành công vang dội trong cả nước, <br />
vua Bảo Đại lúc đó dưới sự chứng kiến của đại diện chính phủ lâm thời cách mạng đã <br />
trao ấn kiếm của nhà vua là biểu tượng quyền lực của chế độ phong kiến cho ông Trần <br />
Huy Liệu và Nguyễn Lương Bằng. Vua Bảo Đại đã đọc chiếu thoái vị và được ông Cù <br />
Huy Cận gắn huy hiệu công nhân Việt Nam lên áo. Tại đây, vua Bảo Đại đã có một câu <br />
nói nổi tiếng “Trẫm thà làm dân một nước tự do độc lập còn hơn làm vua của một nước <br />
nô lệ”.<br />
<br />
Điện Thái Hòa: Điện Thái Hòa là công trình kiến trúc quan trọng nhất trong quần thể <br />
Hoàng Thành Huế. Là nơi đặt ngai vàng của các vị vua nhà Nguyễn, là trung tâm chính trị <br />
của cả nước trong 143 năm. Điện Thái hòa được đặt ở Trung Tâm khu vực Hoàng Thành, <br />
theo phong thủy là nơi trung tâm của vũ trụ. Điện quay mặt về hướng chánh nam được <br />
nối với cửa Ngọ Môn bằng một cây cầu đá bắc qua hồ Thái Dịch được gọi là cầu Trung <br />
Đạo. Xưa kia cầu Trung Đạo chỉ dành cho vua đi. Các quan văn võ phải đi hai lối hai bên <br />
tả hữu để vào sân chầu hay còn gọi là sân Đại Triều Nghi. Phía đầu và cuối cầu Trung <br />
Đạo được dựng hai chiếc cổng có hình lưỡng long chầu Nhật. Phía trên có khắc 4 chữ “ <br />
Chính đại quang minh” và “Chính trực đẳng bình” có ngụ ý rằng thiên tử khi đi qua đây <br />
để trị vì thiên hạ phải có cái tâm chính trực bình đẳng và quang minh chính đại. Phía trước <br />
điện Thái Hòa là sân Đại Triều Nghi, nơi thiết hành lễ Đại Triều vào ngày mồng 1 và 15 <br />
hàng tháng.<br />
<br />
Về lịch sử xây dựng: Điện Thái Hòa được xây dựng vào tháng 2 năm 1805 dưới thời vua <br />
Gia Long và hoàn thành vào tháng 10 cùng năm. Năm 1833 khi vua Minh Mạng cho quy <br />
hoạch lại toàn bộ Hoàn Thành, điện Thái Hòa được dời về mé phía Nam của Hoàng <br />
Thành và cho làm lại quy mô lớn và lộng lẫy hơn. Năm 1923 dưới thời vua Khải Định để <br />
chuẩn bị cho lễ Tứ Tuần của Nhà vua (Mừng vua tròn 40 tuổi) diễn ra vào năm 1924, <br />
điện Thái Hòa lại được trùng tu thêm lần nữa.<br />
<br />
Về chức năng của điện Thái Hòa: Điện Thái Hòa là biểu trưng quyền lực của Hoàng <br />
triều Nguyễn. Điện, cùng với sân chầu, là địa điểm được dùng cho các buổi triều nghi <br />
quan trọng của triều đình như: lễ Đăng Quang, sinh nhật vua, những buổi đón tiếp sứ <br />
thần chính thức và các buổi đại triều được tổ chức 2 lần vào ngày mồng 1 và 15 âm lịch <br />
hàng tháng. Vào những dịp này, nhà vua ngồi uy nghiêm trên ngai vàng. Chỉ các quan Tứ <br />
trụ và những hoàng thân quốc thích của nhà vua mới được phép vào điện diện kiến. Các <br />
quan khác có mặt đông đủ và đứng xếp hàng ở sân Đại triều theo cấp bậc và thứ hạng từ <br />
nhất phẩm đến cửu phẩm, quan văn đứng bên trái, quan võ đứng bên phải. Tất cả các vị <br />
trí đều được đánh dấu trên hai dãy đá đặt trước sân chầu.<br />
<br />
Kiến trúc: Điện Thái Hòa là nơi thể hiện uy quyền của quốc gia, điện được xây trên nền <br />
cao 1 mét, diện tích 1360 m², nguy nga bề thế trông ra một sân rộng.<br />
<br />
Cung điện được xây theo lối trùng thiềm điệp ốc và được chống đỡ bằng 80 cột gỗ lim <br />
được sơn thếp và trang trí hình rồng vờn mây – một biểu tượng về sự gặp gỡ giữa hoàng <br />
đế và quần thần đúng như chức năng vốn có của ngôi điện. Nhà trước và nhà sau của <br />
điện được nối với nhau bằng một hệ thống trần vòm mai cua dưới máng nước nối của <br />
hai mái nhà (thuật ngữ kiến trúc gọi là máng thừa lưu). Chính trần mai cua này nối với <br />
nửa trong tạo ra một không gian nội thất liên tục, thống nhất, rộng rãi, không còn cảm <br />
giác ghép nối hai tòa nhà. Việc ứng dụng máng thừa lưu là một sáng tạo của người xây <br />
dựng điện, nó chẳng những che kín được sự lõm xuống của nơi nối hai mái mà còn tạo <br />
nên nhịp điệu kiến trúc. Đây cũng là một dụng ý của kiến trúc sư. Do thời tiết và kiến <br />
trúc cổ truyền Việt Nam mà điện không thể xây cao như của Trung Quốc, vì vậy nửa <br />
ngoài mái cao hơn, nửa trong mài thấp hơn. Mục đích là tạo cảm giác "cao" cho gian <br />
ngoài nơi bá quan hành lễ, bên trong thấp vừa làm nổi bật gian ngoài vừa là nơi vua ngồi <br />
nên kín đáo, uy nghiêm. Hệ thống vì kèo nóc nhà sau tương đối đơn giản, chỉ làm theo <br />
kiểu "vì kèo cánh ác", nhưng hệ thống vì kèo nóc nhà trước thì thuộc loại vì kèo "chồng <br />
rường – giả thủ" được cấu trúc tinh xảo. Toàn bộ hệ thống vì kèo, rường cột, ở đây đều <br />
liên kết với nhau một cách chặt chẽ bằng hệ thống mộng chắc chắn. Mái điện lợp ngói <br />
hoàng lưu ly, nhưng không phải là một dải liên kết mà được chia làm ba tầng chồng mí <br />
lên nhau theo thứ tự từ cao xuống thấp, gọi là mái "chồng diêm", mục đích là để tránh đi <br />
sự nặng nề của một tòa nhà quá lớn đồng thời để tôn cao ngôi điện bằng cách tạo ra ảo <br />
giác chiều cao cho tòa nhà. Giữa hai tầng mái trên là dải cổ diêm chạy quanh bốn mặt của <br />
tòa nhà. Dải cổ diêm được phân khoảng ra thành từng ô hộc để trang trí hình vẽ và thơ <br />
văn (197 bài thơ) trên những tấm pháp lam theo lối nhất thi nhất họa. Trang trí cũng như <br />
kiến trúc của điện Thái Hòa nói chung, có một khái niệm đặc biệt đáng chú ý là con số 5, <br />
và nhất là con số 9. Hai con số này chẳng những xuất hiện ở trang trí nội ngoại thất của <br />
tòa nhà mà còn ở trên các bậc thềm của điện. Từ phía Đại Cung Môn của Tử Cấm Thành <br />
đi ra điện Thái Hòa, vua phải bước lên một hệ thống bậc thềm ở tầng nền dưới là 9 cấp <br />
và ở tầng nền trên là 5 cấp. Trước mặt điện số bậc cấp bước lên Đệ nhị Bái đình và Đệ <br />
nhất Bái đình cộng lại là 9. Tiếp đó, hệ thống bậc thềm ở nền điện cũng có 5 cấp. Đứng <br />
ở sân Đại triều nhìn vào hay từ phía Tử Cấm Thành nhìn ra người ta đều thấy trên mỗi <br />
mái điện đều được đắp nổi 9 con rồng ở trong các tư thế khác nhau: lưỡng long chầu hổ <br />
phù đội bầu rượu, lưỡng long triều nhật, hồi long (rồng quay đầu lại), rồng ngang v.v…<br />
Ở nội điện cũng thế, từ ngai vàng, bửu tán, các mặt diềm gỗ chung quanh cho đến mỗi <br />
mặt của ba tầng bệ mỗi nơi đều trang trí một bộ 9 con rồng.<br />