TIỂU LUẬN:
Một số giải pháp đầu tư nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của chi nhánh Ngân
hàng No&PTNT Thủ Đô
LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế con đường tất yếu bắt buộc đối với Việt Nam trên
con đường phát triển. Chúng ta đang tham gia vào các tổ chức Hiệp hội Kinh tế trên thế
giới như :APEC, ASEAN, Hiệp định thương mại Việt –Mỹ và nhất WTO. Hội nhập
sẽ mở ra cho chúng ta không ít hội nhưng cũng đầy cam go thách thức ngành ngân
hàng nói chung và NHNo&PNTN Việt Nam nói riêng cũng không thóat khỏi xu thế đó.
Truớc tình hình đó, NHNo&PTNT Thủ Đô –nằm trong h thống chi nhánh của
NHNo&PTNT Việt Nam đặt ra mục tiêu phải đầu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
của mình trên thị trường. Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng, được việc trực tiếp với
các anh chị cán bộ Ngân hàng, đã giúp em hiểu n về tình hình họat động cũng n
những kkhăn, hạn chế còn vướng mắc trong quá trình đầu nâng cao năng lựuc cạnh
tranh của Ngân hàng. Với những kiến thức đã được trang bị xin góp một vài ý kiến
trong quá trình đầu nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng, em đã lựa chọn đề
tài:”Một số giải pháp đầu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh
Ngân hàng No&PTNT Thủ Đô”.
Kết cấu của chuyên đề bao gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận về đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại các NHTM.
Chương II: Thực trạng đầu nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh
Ngân hàng No&PTNT Thủ Đô
Chương III:Giải pháp đầu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của chi
nhánh Ngân hàng No&PTNT Thủ Đô
CHƯƠNG I:LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung và Ngân hàng nói riêng
1.1.1.Khái niệm cạnh tranh:
Trong thế kXX, nhiều thuyết cạnh tranh hiện đại đã ra đời như thuyết của
Micheal Porter,J.B.Barney,… Trong đó phải kể đến thuyết “lợi thế cạnh tranh”của
Micheal Porter, ông giải thích hiện tượng khi doanh nghiệp tham gia cạnh tranh thương
mại quốc tế cần phải “lợi thế cạnh tranh “và “lợi thế so sánh”. Ông phân tích lợi thế
cạnh tranh tức sức mạnh nội sinh của doanh nghiệp, của quốc gia, còn lợi thế so sánh
điều kiện tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, môi trường tạo cho doanh nghiệp, quốc
gia thuận lợi trong sản xuất cũng như trong thương mại. Ông cho rằng lợi thế cạnh tranh
và lợi thế so sánh quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau, lợi thế cạnh tranh phát triển
dựa trên lợi thế so sánh, lợi thế so sánh phát huy nhờ lợi thế cạnh tranh.
Qua những quan điểm của các thuyết cạnh tranh trên cho thấy, cạnh tranh
không phải striệt tiêu của các chủ thể tham gia cạnh tranh động lực phát triển
của các doanh nghiệp. Cạnh tranh góp phần cho sự tiến bộ của khoa học, cạnh tranh giúp
cho các chủ thể tham gia biết quý trọng n những hội và lợi thế mình được,
cạnh tranh mang lại sự phồn thịnh cho đất nước,…thông qua cạnh tranh chủ thể xác định
cho mình những điểm mạnh, điểm yếu cùng với nhữnghội và thách thức trước mắt
trong tương lai, để từ đó những hướng đi có lợi nhất cho mình khi tham gia quá trình
cạnh tranh.
Vậy cạnh tranh sự ganh đua giữa những cá nhân, tập thể, đơn vị kinh tế chức
năng như nhau thông qua các hành động, nỗ lực các biện pháp để giành phần thắng
trong cuộc đua để thỏa mãn các mục tiêu của mình. Các mục tiêu này thể thị phần, lợi
nhuận, hiệu quả, an toàn,
Tuy nhiên, không phải tất cả các hành vi cạnh tranh lành mạnh, hoàn hảo
giúp các chthể tham gia đạt được tất cả cái mình mong muốn. Thực tế để lợi thế
trong kinh doanh các chủ thể tham gia đã sử dụng những hành vi cạnh tranh không lành
mạnh để làm tổn hại đến đối thủ. Cạnh tranh không mang ý nghĩa triệt tiêu lẫn nhau
nhưng kết quả cạnh tranh mang lại là hoàn toàn trái ngược.
1.1.2.Các loại hình cạnh tranh:
Căn cứ vào tính chất cạnh tranh:
Cạnh tranh được chia thành 3 loại:
-Cạnh tranh không hoàn hảo: hình thức cạnh tranh giữa những người bán
các sản phẩm không đồng nhất với nhau. Mỗi sản phẩm đều mang hình ảnh hay uy n
khác nhau cho nên để giành được ưu thế trong cạnh tranh, người bán phải sử dụng các
công cụ hỗ trợ bán như :Quảng cáo, khuyến mại, cung cấp dịch vụ, ưu đãi giá bán, đây
loại hình cạnh tranh phổ biến trong giai đoạn hiện nay.
-Cạnh tranh hoàn hảo: hình thức cạnh tranh giữa nhiều người bán trên thị
trường trong đó không người nào đủ ưu thế khống chế giá cả trên thị trường. Các sản
phẩm bán ra đều được người mua xem đồng thức, tức không khác nhau về quy
cách, phẩm chất mẫu mã. Để chiến thắng trong cuộc cạnh tranh các doanh nghiệp buộc
phải tìm cách giảm chi phí, hạ giá thành hoặc làm khác biệt các sản phẩm của mình so
với các đối thủ cạnh tranh.
-Cạnh tranh độc quyền: trên thị trường ch một hoặc một số ít người bán một
sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó trên thị trường sẽ do họ quyết định không phụ thuộc vào
quan hệ cung cầu.
Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế:
Cạnh tranh được phân thành hai loại:
-Cạnh tranh trong nội bộ ngành: cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hóa hoặc dịch vụ. Kết quả của cuộc cạnh
tranh này làm cho kỹ thuật phát triển.
-Cạnh tranh giữa các ngành: là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong các
ngành kinh tế với nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình này sự
phân bvốn đầu một cách tnhiên giữa các ngành, kết quả hình thành tỷ suất lợi
nhuận bình quân.
Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường:
Cạnh tranh được chia làm 3 loại:
- Cạnh tranh giữa người mua nời bán: người bán muốn bán hàng hóa của
mình với giá cao nhất, còn nời mua muốn mua với giá thấp nhất. Giá cả cuối cùng
được hình thành sau quá trình thương lượng giữa hai bên.
-Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: mức độ cạnh tranh phụ thuộc vào
quan hệ cung cầu trên thị trường. Khi cung nhỏ n cầu thì cuộc cạnh tranh trở nên gay
gắt, giá chàng hóa dịch vụ sẽ tăng n, người mua phải chấp nhận gcao để mua
được hàng hóa mà họ cần.
-Cạnh tranh giữa những người bán với nhau: cuộc cạnh tranh nhằm giành giật
khách hàng và thị trường, kết qủa gcgiảm xuống lợi cho người mua. Trong
cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp nào tỏ ra yếu đuối, không chịu được sức ép sẽ phải rút
lui khỏi thị trường, nhường thị phần của mình cho các đối thủ mạnh hơn.
1.1.3.Năng lực cạnh tranh của NHTM:
1.1.3.1.Khái niệm về NHTM:
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế.
Ngân hàng thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò chúng
thực hiện trong nền kinh tế.Ví dụ, Luật các tchức tín dụng do kỳ họp thứ 2 Quốc hội
khóa X thông qua ngày 12/12/1997 tuy không nêu riêng khái niệm NHTM, nhưng cũng
chỉ ra “Ngân hàng loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân
hàng các hoạt động kinh doanh khác liên quan. Theo tính chất mục tiêu hoạt
động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân
hàng chính sách, ngân hàng hợp tác các loại hình ngân hàng khác” iều20, mục2),
khái niệm này cũng được Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng
do kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XI thông qua ngày 15/06/2004 khẳng định lại. Điều 1
Nghị định 48/2000/ND-CP ngày 12/09/2000 do Thtướng Chính phủ ban hàng thì định
nghĩa hơn:”Ngân hàng thương mại ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng các hoạt động kinh doanh khác liên quan mục tiêu lợi nhuận, góp
phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước”.