intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận về kinh tế vĩ mô

Chia sẻ: Nguyễn Bá Long Vũ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:17

94
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong cơ cấu nợ của một quốc gia, nợ công là danh mục nợ lớn nhất. Đây là một cơ cấu tài chính rất phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn ảnh hưởng đến sự ổn định tài chính trong nước. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả quản lý nợ công được Chính phủ Việt Nam rất quan tâm. Một nền kinh tế lành mạnh bao gồm rất nhiều yếu tố lành mạnh, trong đó có vấn đề nợ công. Cùng với Ban Quản lý nợ, mỗi người dân cần làm tròn nghĩa vụ đóng thuế cho nhà nước.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận về kinh tế vĩ mô

  1. Đại học Huế Đại học Kinh tế Nguyễn Bá Long Vũ K52 Rennes CHƯƠNG 1.VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 1. Mở đầu  1.1.Tính cấp thiết của vốn đầu tư phát triển kinh tế   Kinh tế xã hội tiếp tục ổn định và phát triển, tuy nhiên cũng còn những hạn chế. Một  trong đó những nguyên nhân cơ bản đó là thu hút vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư  còn chưa hiệu quả. Vì vậy có thể phát huy tiềm năng và lợi thế trong phát triển kinh  tế xã hội thì vấn đề đầu tư, thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư cho  phát triển kinh tế xã hội luôn quan  tâm. Chính vì vậy việc thực hiện nghiên cứu đề tài  là hết sức cần thiết.  1.2. Mục tiêu nghiên cứu  ­ Trình bày có hệ thống để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về thu hút  vốn đầu tư. ­ Đánh giá phân tích thực trạng và rút ra những nguyên nhân tác động đến việc thu  hút vốn đầu tư. ­ Đề xuất những giải pháp, cơ chế, chính sách phù hợp với điều kiện của Nhà  nước; kiến nghị, đề xuất.  1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ­ Đối tượng nghiên cứu là vấn đề thu hút và sử dụng vốn đầu tư các nguồn đầu tư. ­ Phạm vi nghiên cứu giới hạn trong lĩnh vực vốn đầu tư với phát triển kinh tế ­ xã  hội, tập trung nghiên cứu thu hút vốn đầu tư ngoài ngân sách Nhà nước.  1.4. Phương pháp nghiên cứu  ­ Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, sử dụng số liệu thống  kê và phương pháp dự báo, phân tích thống kê, phương pháp so sánh tổng hợp  trong xử lí thông tin. 2. Nội dung nghiên cứu  2.1. Tổng quan và lý luận về vốn đầu tư phát triển kinh tế   2.1.1. Khái niệm về đầu tư   ­ Qua nghiên cứu các quan niệm về đầu tư của các Nhà kinh tế học và 1 số từ điển  tài chính, có thể phân biệt 1 số loại đầu tư sau: ­ Thứ nhất là đầu tư tài chính: là bỏ tiền ra vay hoặc mua các chứng chỉ có giá  để hưởng lãi suất.
  2. ­ Thứ hai là đầu tư thương mại: là bỏ tiền ra để mua hàng hóa và sau đó bán với   giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận. ­ Thứ ba là đầu tư tài sản vật chất và sức lao động: là bỏ tiền ra để tiến hành  các hoạt động nhằm duy trì và tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng  năng lực sản xuất, kinh doanh. Đó là đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế ­ xã hội.   2.1.2. Khái niệm về vốn đầu tư ­ Vốn đầu tư là tiền tích lũy của xã hội, của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch  vụ, tiết kiệm của dân cư và vốn thu hút từ các nguồn khác đưa vào sử dụng  trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì và tạo năng lực mới nền kinh tế  ­ xã hội.   2.1.3. Các hình thức đầu tư ­ Hoạt động đầu tư thường được tiến hành dưới 2 hình thức: Đầu tư trực tiếp và  Đầu tư gián tiếp.  2.2. Thu hút vốn đầu tư ­ Thu hút vốn đầu tư là hoạt động nhằm tới việc khai thác, thu hút các nguồn vốn  đầu tư, làm cho lượng vốn đầu tư tăng lên nhằm thỏa mãn nhu cầu đầu tư  (gồm tiết kiệm từ trong nước và nước ngoài).  ­  Thu hút vốn đầu tư được luôn được quan tâm, là sự cần thiết khách quan, vì: ­ Thứ nhất, thu hút vốn đầu tư góp phần tăng trưởng kinh tế. ­ Thứ hai, thu hút vốn đầu tư góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. ­ Thứ ba, thu hút vốn đầu tư góp phần tăng cường khoa học kỹ thuật, công nghệ.  2.3. Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế ­ Đầu tư tác động lên tăng trưởng kinh tế ở cả 2 mặt: đầu tư là 1 thành phần  tổng cầu, khi đầu tư tăng lên thì trực tiếp làm cho thu nhập quốc dân tăng lên;  Vốn là yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình sản xuất, kết hợp với các yếu tố  khác tạo ra của cải vật chất trong xã hội. Do vậy vốn là nhân tốc quan trọng  nhất tạo ra tăng trưởng kinh tế.  2.4. Vai trò của vốn đầu tư đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế  Trong quá trình đầu tư vốn là một nhân tố đặc biệt quan trọng, là chìa khóa của sự  thành công về tăng trưởng và phát triển kinh tế.   2.4.1. Đối với các đơn vị kinh tế    Vốn là nhân tố tiền đề cho ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi đơn vị kinh tế; vốn  không thể mất đi mà vẫn được bảo tồn và phát triển.   2.4.2. Đối với nền kinh tế quốc dân ­ Tác động của vốn đến cân bằng kinh tế vĩ mô. ­ Vốn tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. ­ Tác động của vốn đến việc phát triển cơ sở hạ tầng và sự chuyển dịch cơ  cấu kinh tế. ­ Vốn chính là nhân tố tạo ra động lực đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu theo  hướng tối ưu.
  3.  2.5. Nguồn vốn đầu tư   2.5.1. Nguồn vốn đầu tư trong nước ­ Nguồn vốn đầu tư trong nước hình thành từ tiết kiệm của Ngân sách nhà  nước, tiết kiệm của các doanh nghiệp và tiết kiệm của khu vực dân cư.   Tóm lại, tiết kiệm là quá trình nền kinh tế dành ra 1 phần thu nhập ở hiện tại để tạo   ra nguồn vốn cung ứng cho đầu tư phát triển. Tuy vậy, do nguồn tiết kiệm trong nước   thấp nên cần phải thu hút vốn đầu tư nước ngoài.   2.5.2. Nguồn vốn nước ngoài Vốn đầu tư nước ngoài bao gồm vốn đầu tư gián tiếp và vốn đầu tư trực tiếp: ­ Viện trợ phát triển chính thức : (ODA) ­ Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGO) ­ Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI)  2.5.3. Thu hút thông qua thị trường vốn ­ Phát hành chứng khoán trong nước, chứng khoán trên thị trường tài chính quốc  tế. ­ Thu hút vốn nước ngoài thông qua các hoạt động thuê tài chính, tín dụng thương  mại, tín dụng ngân hàng. Tóm lại, vốn đầu tư phát triển nền kinh tế được thu hút từ nguồn vốn trong nước và  nguồn vốn nước ngoài. 2.6. Thực trạng huy động vốn đầu tư  2.6.1. Nguồn vốn của khu vực Nhà nước ­ Nguồn lực tài chính nhà nước dành cho đầu tư phát triển thường được tập trung  cho          các dự án trọng điểm, là động lực cho sự phát triển và tăng trưởng của  nền kinh tế quốc dân. Sử dụng hiệu quả nguồn vốn này sẽ khơi thông các  nguồn vốn đầu tư khác trong quá trình phát triển kinh tế ­ xã hội từ các thành  phần kinh tế khác, giúp cho phát triển cân đối ngành, vùng kinh tế. ­ Tỷ trọng nguồn vốn khu vực nhà nước trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã  hội có xu hướng giảm nhanh: Giai đoạn 1996­2000 chiếm gần 54,3%, đến  2001­2005 chỉ còn 51,8% và giai đoạn 2011­2015 là 39,1%, riêng năm 2013 là  40,4%. Xu hướng giảm này là phù hợp với quá trình thực hiện chủ trương cấu  trúc lại nền kinh tế và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường. Điều này cũng phù  hợp với định hướng chiến lược của Đảng ta, Nhà nước là chỉ nắm giữ những  lĩnh vực có vị trí chiến lược quốc gia, có vai trò then chốt của nền kinh tế quốc  dân mà không đầu tư tràn lan, mặt khác Nhà nước sẽ chuyển dần nguồn vốn  sang các lĩnh vực, vùng mà khu vực tư nhân ít đầu tư hoặc không đủ khả năng,  tiềm lực để đầu tư, đảm bảo tính cân đối nền kinh tế quốc dân. ­ Thực tế cho thấy, nguồn vốn đầu tư nhà nước đóng vai trò quan trọng đối với  phát triển kinh tế, có tác dụng định hướng và tạo môi trường thuận lợi trong  việc thu hút các nguồn vốn khác, có ý nghĩa quyết định đến quá trình tăng  trưởng kinh tế. Tỷ trọng của nguồn vốn từ khu vực Nhà nước giảm trong khi 
  4. vẫn bảo đảm được tốc độ tăng trưởng (ICOR giảm) cũng cho thấy tính hiệu  quả đầu tư của khu vực này được nâng lên. ­ Quy mô nguồn vốn khu vực nhà nước phụ thuộc lớn vào thu ngân sách nhà  nước.Tuy nhiên, nguồn thu ngân sách của nước ta hiện nay còn một số yếu tố  thiếu vững chắc .Trong cơ cấu tổng thu ngân sách nhà nước, thu nội địa chiếm  tỷ lệ thấp, chủ yếu thu từ dầu thô và từ thuế nhập khẩu. Khoản thu này không  trực tiếp phản ánh hiệu quả của sản xuất kinh doanh, đồng thời các nội dung  thu này sẽ bị ảnh hưởng bởi nguồn dầu thô ngày càng cạn kiệt và lộ trình cắt  giảm thuế quan.  2.6.2. Nguồn vốn từ khu vực ngoài nhà nước ­  Tỷ lệ nguồn vốn từ khu vực ngoài Nhà nước trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng  dần qua các giai đoạn. Giai đoạn 1996­2000 chiếm 24,1%, đến giai đoạn 2001­2005 là  32,5%, giai đoạn 2006­2010 là 36,1% và giai đoạn 2011­2015 là 38,3%(2). Điều này cho  thấy, kinh tế ngoài nhà nước ngày càng phát triển và có vai trò quan trọng trong nền  kinh tế nhiều thành phần, đã phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các thành  phần kinh tế cho sự phát triển chung của đất nước. Đó là kết quả của cơ chế thị  trường đã khai thông các nguồn vốn nói chung và vốn ngoài nhà nước nói riêng. Hiệu  quả sử dụng nguồn vốn này rất cao vì tính linh hoạt và thận trọng trong sử dụng đồng  vốn. Tuy quy mô vốn của các doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước còn nhỏ nhưng  tính linh hoạt trong điều kiện nền kinh tế mở đã góp phần giúp nền kinh tế quốc dân  thích nghi nhanh với những thay đổi của kinh tế toàn cầu.  2.6.3. Nguồn vốn khu vực nước ngoài   Viện trợ phát triển chính thức (ODA) :  ­ Nguồn vốn ODA tại Việt Nam được thực hiện dưới 3 hình thức chủ yếu gồm  nguồn vốn ODA viện trợ không hoàn lại (chiếm khoảng 10%­12%), nguồn vốn  ODA vay ưu đãi (chiếm khoảng 80%) và nguồn vốn ODA hỗn hợp (chiếm  khoảng 8%­10%)(3). Trong những năm qua, ODA cho Việt Nam không ngừng  tăng lên cả về số vốn cam kết cũng như vốn giải ngân. ­ Giai đoạn 1993 ­ 1995, cộng đồng quốc tế cam kết dành ODA cho Việt Nam  khoảng 6,01 tỷ USD, tỷ lệ giải ngân đạt gần 32% vốn cam kết. Giai đoạn 1996­ 2000, các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt Nam 12,28%, gấp đôi giai đoạn  trước. ­ Giai đoạn 2001­2005, Việt Nam khẳng định với thế giới về khả năng tăng  trưởng kinh tế và giảm nghèo, trong khi dòng vốn này trên thế giới có xu hướng  giảm thì đối với Việt Nam lại tiếp tục tăng, kết quả trong giai đoạn này thu hút  được 14,96 tỷ USD. ­ Giai đoạn 2006­2010, đây là giai đoạn Việt Nam hội nhập ngày càng sâu vào  nền kinh tế thế giới, trở thành thành viên chính thức của WTO, vốn ODA đạt  được 28,05 tỷ USD vốn cam kết và tỷ lệ giải ngân đạt 44,21%.
  5. ­ Giai đoạn 2011­2015, tỷ lệ giải ngân được cải thiện đáng kể, tuy nhiên tổng  vốn đã ký kết của giai đoạn này chuyển sang giai đoạn 2016­2020 khoảng 22 tỷ  USD(4). ­ Kết quả này có ý nghĩa sâu sắc, bởi nó đạt được trong bối cảnh khối lượng vốn  ODA trên thế giới đang có xu hướng giảm sút, một số đối tác vẫn gia tăng viện  trợ cho Việt Nam như: WB, ADB, Nhật Bản, EU. Điều này khẳng định uy tín  và vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng lên, bởi tốc độ tăng trưởng cao và  thành công trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo...(5). Hơn 80 tỷ USD mà các nhà  tài trợ đã cam kết dành cho Việt Nam trong gần 20 năm qua không chỉ mang đến  cho Việt Nam nguồn vốn bổ sung quan trọng, phục vụ quá trình phát triển kinh  tế, xóa đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp, nông thôn, xây dựng hạ tầng,  đào tạo phát triển nguồn nhân lực... mà quan trọng hơn là sự cam kết này cũng  đồng thời khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế đối với công  cuộc đổi mới và chính sách phát triển đúng đắn của Đảng và Chính phủ Việt  Nam, sự tin tưởng của các nhà tài trợ vào hiệu quả tiếp nhận và sử dụng nguồn  vốn ODA của Việt Nam(6). Tuy nhiên, tình hình giải ngân của các dự án ODA trong gần 25 năm qua chậm. Đặc  biệt, quy mô nguồn vốn này có xu hướng giảm do hiện nay Việt Nam là nước đang  phát triển có mức thu nhập trung bình, các quan hệ kinh tế chuyển đổi cơ bản từ quan   hệ viện trợ phát triển sang quan hệ đối tác.   Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) :  ­ Tính đến hết năm 2016, cả nước có 22.509 dự án còn hiệu lực với tổng vốn  đăng ký đạt gần 293,25 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án FDI đạt  hơn 154,54 tỷ USD (bằng gần 53% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực). Khu vực  FDI đã đầu tư vào 19 trong tổng số 21 ngành, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế  biến và chế tạo chiếm tỷ trọng lớn nhất (58,8% tổng vốn đăng ký), kinh doanh  bất động sản đứng thứ hai (17,7% tổng vốn đăng ký). Có 116 quốc gia và vùng  lãnh thổ đã đầu tư vào Việt Nam, trong đó Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với  5.747 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50,7 tỷ USD (chiếm 17,3% tổng  vốn đầu tư); đứng thứ 2 là Nhật Bản với 3.280 dự án còn hiệu lực, tổng vốn  đăng ký hơn 42 tỷ USD (chiếm 14,3% tổng vốn đầu tư). ­ Đến nay, FDI đã có mặt tại 63 tỉnh, thành phố trên cả nước, trong đó tập trung  chủ yếu tại các địa bàn trọng điểm, có lợi thế. Xếp theo quy mô vốn, thành phố  Hồ Chí Minh dẫn đầu với 6.737 dự án còn hiệu lực, vốn đăng ký hơn 44,82 tỷ  USD, chiếm 15,3% tổng vốn đăng ký cả nước; thứ hai là Bà Rịa ­ Vũng Tàu với  342 dự án, vốn đăng ký 26,86 tỷ USD, chiếm 9,2%; thứ ba là Bình Dương với  3.035 dự án, vốn đăng ký 26,96 tỷ USD, chiếm 9,1%(7). ­ Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã không ngừng được mở rộng và phát  triển, trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế, giải quyết việc làm và  nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện trình độ công nghệ, nâng cao 
  6. khả năng xuất khẩu và hội nhập, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh  tế, góp phần tích cực vào công cuộc CNH, HĐH.  Nguồn vốn kiều hối :  ­ Hiện nay có khoảng 4,5 triệu người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài,  đây là nguồn lực to lớn xét cả về tiềm năng vốn đầu tư cũng như năng lực sáng  tạo. Nguồn vốn kiều hối tăng dần qua các năm: Giai đoạn 1996­2000 là: 4,8 tỷ  USD, giai đoạn 2001­2005 đạt 13,7 tỷ USD, giai đoạn 2006­2010 là 31,6 tỷ USD,  giai đoạn 2011­2015 là 54,7 tỷ USD, đây là lượng vốn lớn, có ý nghĩa quan trọng  đối với nước ta trong quá trình phát triển. Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam  lớn, đáp ứng nhu cầu đầu tư trong nước, giúp cân bằng cán cân thanh toán  ngoại tệ. Nếu so với các nguồn thu ngoại tệ khác, lượng kiều hối mang về cho  đất nước cao hơn hoạt động xuất nhập khẩu (thường là nhập siêu). Nếu tính  lượng kiều hối so với GDP, Việt Nam đứng thứ 5 trên thế giới (khoảng 6%  GDP, sau Bănglađét, Philippines, Ai Cập và Pakixtan(8)). 2.7.  Kết quả và tồn tại của thực hiện chính sách của Chính phủ Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình huy động và hiệu quả sử dụng vốn đầu  tư cho tăng trưởng kinh tế của nước ta còn những tồn tại sau: ­ Thứ nhất, khả năng giải ngân các dự án ODA còn chậm tiến độ và kém hiệu  quả. Trong dài hạn, nguồn vốn này không được quản lý chặt chẽ sẽ để lại  gánh nặng về nợ nước ngoài của quốc gia. Khung pháp lý còn nhiều khác biệt  với thông lệ quốc tế và các nhà tài trợ. ­ Thứ hai, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc nhiều vào vốn đầu tư, nhưng hiệu quả  sử dụng vốn từ các nguồn đầu tư thấp. Điều này thể hiện rõ ở một số công  trình, dự án không phát huy được công năng một cách hiệu quả; hệ số ICOR  của Việt Nam ở mức cao và có xu hướng tăng lên. ­ Thứ ba, quá trình tái cơ cấu đầu tư công tuy đạt được một số kết quả bước đầu  nhưng tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả còn phổ biến, đặc biệt là nguồn  vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, số lượng dự án duyệt chờ ngân sách cấp  vốn ngày càng có xu hướng tăng, trên thực tế đã không còn phù hợp với khả  năng cân đối vốn hàng năm. Thực hiện các quy định về quản lý đầu tư và xây  dựng ở các ngành, các địa phương, các chủ đầu tư chưa nghiêm đã dẫn đến thất  thoát trong xây dựng cơ bản. ­ Thứ tư, việc huy động nguồn vốn đầu tư trong những năm qua gặp nhiều khó  khăn, nguyên nhân là do thị trường nội địa kém phát triển, thu nhập và “cầu”  của dân cư còn rất thấp; quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tiến  hành chậm; các chính sách về huy động nguồn lực từ các thành phần kinh tế  cho đầu tư chưa đủ sức hấp dẫn; môi trường đầu tư chưa tốt; bộ máy hành  chính nhà nước chưa thật sự là bạn đồng hành của các nhà đầu tư. ­ Thứ năm, chất lượng nguồn vốn FDI còn nhiều hạn chế, chưa thu hút được  nhiều dự án có hàm lượng công nghệ cao, có tác động lan tỏa, lôi kéo các ngành 
  7. công nghiệp hiện đại. Tỷ lệ vốn FDI thực hiện so với vốn đăng ký còn thấp,  tính đến hết năm 2016 chỉ đạt gần 46%. ­ Thứ sáu, chưa khai thác hết tiềm năng nguồn vốn khu vực ngoài nhà nước, chưa  huy động vào đầu tư trực tiếp cho quá trình sản xuất kinh doanh. Dòng vốn  chảy vào các lĩnh vực, ngành mang tính ngắn hạn, thiếu bền vững do yếu tố  tâm lý chi phối mà ít tuân theo các quy luật của thị trường nên đôi khi tăng  trưởng quá nóng hay quá lạnh. Số doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước phá  sản hoặc dừng sản xuất tăng lên trong những năm gần đây. Cụ thể, năm 2010  số doanh nghiệp phá sản, dừng hoạt động là 43 nghìn, 2011 là 53 nghìn, 2012 là  54 nghìn, 2013 là 60,8 nghìn, 2014 là 67,8 nghìn và 2015 là 71,4 nghìn 2.7. Giải pháp của Chính phủ về giải quyết vốn đầu tư ­ Đại hội XII của Đảng đề ra kế hoạch 5 năm 2016­2020: “Tốc độ tăng trưởng  kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5­7%/năm. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình  quân 5 năm bằng khoảng 32­34% GDP”(10). Mặc dù, Chính phủ đã có nhiều cố  gắng huy động tối đa các nguồn vốn cho đầu tư phát triển, nhưng nhu cầu đầu  tư của nền kinh là rất lớn. Do đó, để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế,  cần thực hiện các nhóm giải pháp có tính định hướng sau đây: ­ Một là, tạo lập môi trường đầu tư, xây dựng hệ thống pháp lý tiệm cận với  quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư. Đây là giải pháp trung tâm trong việc  huy động các nguồn vốn, vì nơi nào hiệu quả đầu tư càng cao thì nơi đó có khả  năng huy động vốn càng lớn. ­ Hai là, tổ chức đánh giá tiềm năng về vốn đầu tư của các thành phần kinh tế,  trong đó đặc biệt quan tâm đến khu vực tư nhân, từ đó có chính sách phù hợp  nhằm khuyến khích, khơi dậy các nguồn vốn. Đồng thời, Nhà nước có chính  sách mang tính định hướng để tạo sự liên kết giữa các nguồn đầu tư với nhau,  để cùng phát triển. ­ Ba là, tăng cường thu hút nguồn vốn từ bên ngoài. Đối với nguồn vốn ODA,  nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ 2016 ­ 2020 là phải tập trung hoàn thành các  chương trình, dự án này theo đúng tiến độ và thời hạn cam kết, đưa các công  trình vào khai thác, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế ­ xã hội của đất nước.  Cần nâng cao chất lượng các dự án FDI, vừa đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư, vừa  hiện đại hóa được nền sản xuất trong nước. Tiếp tục khuyến khích người Việt  Nam ở nước ngoài đầu tư về nước bằng những chính sách ưu đãi hợp lý. ­ Bốn là, phát triển thị trường vốn, mà cốt lõi là thị trường chứng khoán, đây là  trung tâm huy động mọi nguồn vốn tiết kiệm từ dân cư, vốn nhàn rỗi của doanh  nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ... hình thành một khối lượng vốn lớn.  So với hình thức huy động vốn qua ngân hàng, thị trường chứng khoán là  phương thức huy động vốn hiệu quả, tín dụng linh hoạt, đa dạng, đáp ứng  nhanh nhu cầu về vốn của xã hội. ­ Năm là, tăng cường chức năng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong khai thông  những ách tắc các dòng vốn đầu tư, trước hết là nghiên cứu, hoàn thiện các 
  8. chính sách vĩ mô có liên quan đến việc huy động các nguồn lực thuộc các thành  phần kinh tế, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư. Với quyết tâm cao của Chính phủ và môi trường đầu tư của Việt Nam ngày càng tốt  hơn, hứa hẹn sẽ đạt được mục tiêu phát triển kinh tế ­ xã hội giai đoạn 2016­2020 mà   Đại hội XII đề ra. 2.8. Giải pháp của tác giả về giải quyết vấn đề vốn đầu tư phát triển kinh tế ­ Thứ nhất: Tăng cường nguồn vốn từ ngân sách Trung ương ­ Thứ hai: Tăng cường nguồn vốn từ tư nhân ­ Thứ ba: Tăng cường nguồn vốn từ nước ngoài ­ Thứ tư: Tăng cường nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng ­ Thứ năm: Nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng nguồn vốn đầu tư ­ Thứ sáu: Nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng nguồn vốn đầu tư 3. Kết luận ­  Như đã trình bày ở trên vốn và hoạt động huy động vốn cho sự nghiệp phát triển  kinh tế xã hội đất nước là rất quan trọng. Nhưng một phần cũng không kém phần  quan trọng đó là hoạt động sử dụng vốn huy động này sao cho có hiệu quả để đảm  đem lại lợi ích và hiệu quả cao nhất. Nếu chúng ta sử dụng vốn hiệu quả thì các  nguồn lực dành cho đầu tư xẽ phát huy được tối đa lợi ích cho chủ đầu tư nói riêng và   nền kinh tế nói chung và ngược lại nếu chúng ta sử dụng vốn đầu tư không hiệu quả  thì các kết quả của những đồng vốn mà chúng ta bỏ ra sẽ không phát huy được tối đa  cho nền kinh tế. Để làm được vấn này đòi hỏi chúng ta phải làm tốt các chiến lược sử   dụng vốn cho đầu tư như: quản lý đầu tư, kế hoạch hoá đầu tư, cũng như các công  tác thẩm định dự án và quản lý dự án đầu tư. CHƯƠNG 2: NỢ CÔNG 1. Mở đầu: 1.1. Tính cấp thiết của đề tài  ­ ­ Trong chính sách tài khóa của Chính phủ, việc quản lí nợ công là vấn đề quan  trọng luôn được xem xét dưới nhiều góc độ nhằm đảm bảo khả năng phát triển  đồng thời giữ độ an toàn cần thiết cho nền tài chính quốc gia. Số liệu  thống kê cho thấy những nền kinh tế lớn nhất trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản,  Trung Quốc,..cũng chính là những con nợ kếch xù. Nợ công, dùng để phục vụ  cho các nhu cầu chi tiêu và sử dụng của Chính phủ nhằm các mục đích khác  nhau, chiếm một phần trong những khoản vay đó. Tuy nhiên, thực tế các nước  cho thấy, việc vay nợ và chi tiêu lãng phí, sử dụng kém hiệu quả đồng nợ của  Chính phủ đã khiến cho nhiều nước rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ công mà  các nước Châu Âu, điển hình là Hy Lạp là ví dụ. Đây cũng là vấn đề thời sự,  đang được quan tâm đặc biệt ở Việt Nam hiện nay.Do vậy yêu cầu đổi mới  cách thức quản lí nợ công là khách quan để một bước đệm tốt giúp nâng cao  hiệu quả của hoạt động tài chính công nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng.  Tính cấp thiết  của việc đổi mới này còn xuất phát từ việc tăng cường hội 
  9. nhập của nền kinh tế Việt Nam vào quá trình toàn cầu hóa như gia nhập Tổ  chức Thương mại Thế giới năm 2006,là thành viên của WB và IMF...tạo cơ hội  hội nhập với kinh tế toàn cầu đặc biệt cam kết mở cửa thị trường tài Chính  phủ đem lại khả năm tiếp cận vốn nước nhiều cho nước ta.Do kinh nghiệm  thực tiễn quản lý nợ công kinh tế thị trường nước ta chưa nhiều hệ thống quản  lý nợ công nhiều hạn chế nên việc tiếp tục hoàn thiện kỹ thuật phân tích để  cập nhật giám sát nợ đảm bảo an toàn cần thiết nước nói chung , với Việt Nam  nói riêng tương lai. 1.2. Mục tiêu của đề tài Đề tài nhằm ba mục tiêu sau: ­ Thứ nhất là hệ thống hóa những vấn đề lý thuyết về nợ công và quản lý nợ  công, xem xét 1 số bài học kinh nghiệm về quản lý nợ công các quốc gia trên  thế giới. ­ Thứ hai là đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng quản lý nợ công Việt Nam  giai đoạn hiện nay, rút hạn chế tìm nguyên nhân. ­ Cuối cùng là trên cơ sở phân tích thực trạng quản lý nợ nước của Việt Nam  hiện nay đề tài đưa ra 1 số đề xuất nhằm tăng cường hiệu quả công tác quản lý  nợ công tương lai.  1.3. Phương pháp nghiên cứu : ­ Luận văn sử dụng phương pháp tư duy duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,  thống kê, phân tích hệ thống, so sánh, phương pháp định lượng. Đồng thời, luận  văn kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn nhằm giải thích, đánh giá những vấn đề  quan trọng phục vụ cho công trình nghiên cứu.  1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: ­ Luận văn tập trung vào việc phân tích hệ thống quản lý nợ công ở Việt  Nam xuất phát từ quan điểm quản lý hiệu quả và tiến hành phân tích thực  trạng quản lý nợ công thông qua những chỉ số kinh tế và các chỉ số nợ  nước ngoài trên tầm vĩ mô. Phạm vi nghiên cứu: ­ Luận văn tập trung vào nghiên cứu công tác quản lý nợ công  ­ tập trung  chủ yếu vào nợ nước ngoài, nghiệp vụ quản lý nợ công, các thống kê  kinh tế và các chính sách liên quan đến tính hiệu quả và bền vững của nợ  công trong giai đoạn 2007 – 2011 khi bản tin nợ công số 1 được công bố  công khai. 2. Nội dung nghiên cứu  2.1. Cở sở lí luận của nợ công   2.1.1. Khái niệm: ­     Theo Luật Quản lý nợ công Việt Nam 2009 thì nợ công bao gồm: nợ  Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa 
  10. phương. Thước đo nợ Chính phủ thường là phần trăm so với GDP. Nợ thường  được tính tại từng thời kỳ, từng giai đoạn. So sánh tổng nợ nước ngoài với GDP  là nhằm so sánh nợ với những gì một quốc gia làm ra, để xác định khả năng trả  nợ của quốc gia đó.  ­    Thông thường, nợ công là hệ quả trực tiếp của thâm hụt ngân sách chính  phủ  và quy mô nợ công đúng bằng quy mô thâm hụt ngân sách tích tụ qua các năm.  Về  nguyên tắc, để bù đắp thâm hụt ngân sách, các chính phủ phải đi vay trong và  ngoài. nước chứ không được phát hành tiền để tránh nguy cơ xảy ra lạm phát cao. Tuy  nhiên, nợ công ở một số nước đang phát triển, chẳng hạn như Việt Nam, còn  do  chính phủ vay nợ để tài trợ cho các dự án đầu tư của mình (thường là các dự án  đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng) nên quy mô nợ công thậm chí còn cao hơn nữa.  Nguồn để trả nợ công là các khoản thu trong tương lai bao gồm cả thu ngân sách  và thu từ các dự án đầu tư bằng nguồn vốn vay (nếu có).   2.1.2. Phân loại: ­ Việc phân loại nợ công dựa vào 2 tiêu chí: theo nguồn gốc và theo thời  hạn  của khoản nợ.   a) Theo nguồn gốc:  ­ Nợ trong nước: các khoản vay từ người cho vay trong nước.  ­ Nợ nước ngoài: các khoản vay từ người cho vay nước ngoài.   b) Theo thời hạn của khoản nợ:  ­ Nợ ngắn hạn: các khoản nợ có kì hạn dưới 1 năm.  ­ Nợ trung hạn: các khoản nợ có kì hạn từ 1 năm đến 10 năm.  ­ Nợ dài hạn: các khoản nợ có kì hạn trên 10 năm.  ­ 2.1.3. Các hình thức vay nợ của Chính phủ: có 2 hình thức.  a) Phát hành trái phiếu Chính phủ:  ­  Trái phiếu phát hành bằng nội tệ: được coi là không có rủi ro tín dụng  vì Chính phủ có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc  lẫn lãi. Trái phiếu phát hành bằng ngoại tệ: có rủi ro cao hơn vì Chính  phủ có thể không đủ ngoại tệ để thanh toán và ngoài ra còn có rủi ro về  tỷ giá hối đoái khi đến thời hạn thanh toán. Ví dụ như bạn mượn bạn  mình 1 cây vàng (tương đương 1 lượng vàng). Khi đó, 1 cây vàng có giá là  31 triệu đồng nhưng sau 1 năm, khi bạn trả nợ, giá 1 cây vàng đã tăng lên  là 44 triệu đồng. vì khi vay bạn vay bằng vàng nên khi trả, bạn cũng phải  trả bằng vàng bất kể giá vàng tăng hơn trước như thế nào. Hình thức này  có độ tin cậy tín dụng thấp, do đó khả năng vay nợ bằng phát hành trái  phiếu không cao. 
  11. b) Vay trực tiếp:  ­  Các quốc gia có thể vay thương mại từ các định chế tài chính với lãi  suất thị trường hoặc có thể vay ưu đãi (ODA) từ Chính phủ các nước  khác hay từ các tổ chức quốc tế như WB, ADB, IMF,… với lãi suất ưu  đãi rất thấp và thời gian ân hạn (thời gian bắt đầu trả nợ gốc) dài. Tuy  nhiên hình thức vay ưu đãi chỉ áp dụng cho những nước nghèo, có thu  nhập thấp. 2.1.4.  Những yếu tố ảnh hưởng đến việc tính toán nợ công:     Cách tính nợ công : ­ Hiện nay cách xác định nợ công của Việt Nam có sự khác biệt so với quốc tế.  Theo Luật Quản lý nợ công số 29/20009/QH12 thông qua ngày 17­6­2009 và  Luật Quản lý nợ công số 20/2017/QH14 thông qua ngày 23­11­2017, nợ công  gồm: nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa  phương. Với cách tính này, nợ công của Việt Nam hiện nay chưa bao gồm nợ  của các doanh nghiệp nhà nước nên chưa phù hợp với cách tiếp cận của thế  giới về phạm vi nợ công. Do vậy, nếu tính cả nợ của Ngân hàng nhà nước,  doanh nghiệp nhà nước, bảo hiểm xã hội... thì nợ công của Việt Nam có thể  cao hơn mức công bố. Trong tình huống xấu nhất, nếu các tổ chức này không  trả được nợ hoặc các doanh nghiệp nhà nước bị phá sản sẽ ảnh hưởng nghiêm  trọng đến uy tín và vị thế quốc gia. Khi đó Chính phủ sẽ phải nhận trách nhiệm  trả nợ thay cho những tổ chức hoặc doanh nghiệp trên.  ­ a) Lạm phát:  ­  Lạm phát là thuật ngữ dùng để chỉ tình huống, trong đó mức giá chung  của nền kinh tế tăng lên. Lạm phát ảnh hưởng rất lớn đến việc tính lãi vay do  Chính phủ trả những khoản lãi vay theo lãi suất danh nghĩa (lãi suất danh nghĩa   là tổng của lãi suất thực tế và tỷ lệ lạm phát: i = r + π)1. Theo phương trình  Fisher, tỷ lệ lạm phát tăng 1% sẽ làm lãi suất danh nghĩa tăng 1%.  b) Tài sản đầu tư:  ­  Các nhà kinh tế cho rằng nên trừ tổng tài sản của tài sản Chính phủ trong  tính toán nợ công. Tuy nhiên, rất khó để xác định đâu là tài sản Chính phủ và  giá trị của chúng là bao nhiêu.  c) Các khoản nợ tiềm tàng:  ­  Bao gồm các khoản chi trả trợ cấp cho hưu trí, bảo hiểm xã hội,… hay  các khoản vay được Chính phủ đứng ra bảo lãnh nếu trong tương lai không có  khả năng thanh toán. Những khoản chi này cũng cần được tính vào nợ công. Bởi  lẽ suy cho cùng đó cũng là các khoản tiền mà Chính phủ phải chi ra.  2.2. Thực trạng nợ công của Việt Nam:  ­ Việc vay nợ trong kinh doanh không phải là xấu nhưng nếu nợ công gia tăng  quá nhanh và không thể kiểm soát được trong dài hạn thì sẽ biến thành một  khoản 
  12. nợ lớn khiến cho sự tăng trưởng của sản lượng tiềm năng bị châm lại và còn  khiến  quốc gia bị tụt hạng tín nhiệm theo đánh giá của các tổ chức quốc tế.    2.2.1. Quy mô nợ công của Việt Nam:  ­  Chẳng hạn, theo số liệu tổng hợp từ báo cáo của bộ Tài chính và Ủy ban  Thường vụ Quốc hội, tỷ lệ nợ công/GDP theo cách tính của bộ Tài chính là  56,6% GDP. Tuy nhiên, theo Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia, cách tính nợ  công phải bao gồm thêm các khoản nợ tiềm ẩn như đã nói ở trên nên tổ chức  này cho rằng tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam khoảng 75 – 80%, lớn hơn  nhiều so với cách hạch toán truyền thống của Bộ Tài chính. Điều này cho thấy  còn nhiều bất cập trong việc tính toán và công bố tình hình nợ công của nước  ta; đồng thời, khiến cho việc tái dựng toàn cảnh tình trạng nợ công của Việt  Nam trở nên rất khó.  ­   Theo thống kê mà tạp chí kinh tế The Economist đưa ra vào tháng 10/2010 con  số tuyệt đối về nợ công tính theo đầu người của Việt Nam thấp hơn so với  nhiều nước trong khu vực và vào hàng thấp trên thế giới.  ­ Khi vay nợ thì quy mô của khoản nợ không quan trọng bằng khả năng thanh  toán khoản nợ đó mà đối với một quốc gia, khả năng thanh toán nợ được nhìn  đơn giản thông qua GDP của nước đó. Tuy nhiên, nếu xét ở tiêu chí tỷ lệ nợ  công trên GDP, thì Việt Nam đang được The Economist xếp vào nhóm nước có  mức nợ trên trung bình. Mức nợ của Việt Nam xét ở tiêu chí này cao hơn một  số nước trong khu vực như Trung Quốc là 17,4% hay Indonesia là 26,5%. Những  nước trong khu vực có tỷ lệ nợ công so với GDP xấp xỉ Việt Nam là Thái Lan  (48,6%), Malaysia (52,1%), Philippines (55,8%).  ­ Theo dự đoán của các chuyên gia kinh tế tại Trung tâm nghiên cứu kinh tế và  chính sách (VERP), nhiều khả năng nợ công Việt Nam sẽ tạm chững lại trong  năm 2011 do lạm phát tăng mạnh. Tuy nhiên, trong những năm tiếp theo, tỷ lệ  nợ công sẽ tăng dần đều và đạt mức 64% GDP vào năm 2015 và 80% vào năm  2020.  Mặc dù các số liệu thống kê được công bố về quy mộ nợ công của Việt Nam  có chênh lệch nhau đi chăng nữa nhưng nhìn chung thì trong số các nước đang  phát triển và mới nổi, Việt Nam có mức nợ công khá lớn và đang có xu hướng  gia tăng nhanh chóng. Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam thì tỷ lệ  an toàn của nợ công/GDP phải là 50% và con số thực tế của tình hình nợ công  của nước ta đang mấp mé ngưỡng an toàn ấy.    2.2.2. Cơ cấu nợ công của Việt Nam:  ­  Với cách tính theo Luật Quản lý nợ công 2009, nợ Chính phủ chiếm tỷ trọng  lớn trong tổng nợ công của Việt Nam. Cơ cấu nợ công của Việt Nam năm 2006  – 2010 gồm nợ Chính phủ chiếm 78,1% còn lại là nợ được Chính phủ bảo lãnh  và nợ của chính quyền địa phương. Trong nợ Chính phủ, nợ nước ngoài chiếm  61,9%; nợ trong nước chiếm 38,1%. Trong nợ nước ngoài, ODA chiếm tỷ trọng 
  13. lớn. Cụ thể năm 2009, nợ công của Việt Nam gồm nợ Chính phủ chiếm 79,2%;  nợ được Chính phủ bảo lãnh chiếm 17,6% và nợ chính quyền địa phương  chiếm 3,1%. Trong nợ Chính phủ, nợ nước ngoài chiếm 60%, trong đó có 85%  là ODA.  ­ Trong cơ cấu nợ công Việt Nam, nợ nước ngoài có vai trò quan trọng và chiếm  tỷ trọng cao nhất. Năm 2010, trong 56,6% GDP nợ công đã có 42,2% GDP là nợ  nước ngoài (biểu đồ 2). Mặc dù nợ công khác với nợ nước ngoài, nhưng hiện  nay ở Việt Nam, thông tin chi tiết về nợ công chưa đầy đủ; do vậy, các nhà  kinh tế thường sử dụng chỉ số nợ nước ngoài để hình dung quy mô và mức độ  nghiêm trọng của nợ công của quốc gia.  ­ Nguồn cung cấp nợ nước ngoài chủ yếu của Việt Nam là các khoản vay ODA.  Theo danh mục nợ công năm 2009 của Bộ Tài chính, 60,3% nợ công là ODA và  29,8% được tài trợ từ trái phiếu trong nước.   2.2.3. Khả năng thanh toán và tính thanh khoản của nợ công Việt Nam ­ Khả năng thanh toán nợ của Việt Nam được Uỷ ban giám sát tài chính quốc  gia đánh giá theo những chỉ tiêu: quy mô của khoản nợ so với GDP; quy mô  khoản nợ so với tổng thu ngân sách Nhà nước và so với tổng giá trị xuất khẩu –  cho thấy đều đang giảm dần. Cụ thể, nếu xét theo chỉ tiêu quy mô của khoản  nợ so với GDP thì khả năng thanh toán nợ của Việt Nam đang giảm rất nhanh  kể từ năm 2008. So với tổng thu ngân sách Nhà nước, năm 2010, tổng nợ công  gấp gần hai lần (chưa bao gồm nghĩa vụ trả nợ dự phòng – cho các doanh  nghiệp Nhà nước). Còn tỷ lệ nợ công nước ngoài với tổng giá trị xuất khẩu  được tính xấp xỉ khoảng 44%.   ­  Tính thanh khoản nợ công của Việt Nam, theo Ủy ban giám sát tài chính  quốc gia hiện vẫn khá tốt vì các khoản vay dài hạn với lãi suất thấp chiếm tới  80% (nghĩa vụ trả nợ đến năm 2013 chiếm khoảng 10% dự trữ ngoại hối quốc  gia và nợ nước ngoài chiếm 20% dự trữ ngoại hối hiện nay). Mặc dù vậy, nợ  công của Việt Nam vẫn có thể xảy ra những rủi ro về tính thanh khoản, khi  thời hạn trả nợ bị xáo trộn (khoản nợ từ trung hạn và dài hạn có thể chuyển  thành ngắn hạn – trong trường hợp các chủ nợ gặp khó khăn hay khủng hoảng  kinh tế trong nước). Đặc biệt, cơ quan giám sát bày tỏ e ngại rủi ro về tính  thanh khoản của những khoản nợ nước ngoài trong ngắn hạn khi tỷ lệ dự trữ  ngoại hối của Việt Nam/tổng dư nợ ngắn hạn đã và đang sụt giảm với tốc độ  rất nhanh, từ mức 100 lần năm 2007 xuống còn 28 lần vào năm 2008, còn 3 lần  vào năm 2009 và chỉ còn gấp khoảng 2 lần trong năm 2010. Bên cạnh đó, nghĩa  vụ trả nợ nội địa trong ba năm tới được ước tính trên số lượng trái phiếu Chính  phủ đã phát hành và sẽ đáo hạn trong vòng 3 năm tới, ước khoảng 215.000 tỷ  đồng, tương đương 20% dự toán thu ngân sách Nhà nước của thời điểm đó  (2014).  2.3. Chính sách của Nhà nước về nợ công
  14. ­ Theo Luật Quản lý nợ công số 20/2017/QH14:nợ công ở Việt Nam bao gồm nợ  Chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ của Chính quyền địa phương.  Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài  được ký kết, phát hành nhân danh nhà nước, nhân danh chính phủ, bao gồm: nợ  do chính phủ phát hành công cụ nợ; nợ do Chính phủ ký thỏa thuận vay trong  nước, nước ngoài; nợ của ngân sách Trung ương vay từ quỹ dự trữ tài chính  của nhà nước, ngân quỹ nhà nước, quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách. Nợ  được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ do doanh nghiệp, ngân hàng chính sách  của nhà nước vay được Chính phủ bảo lãnh, bao gồm: nợ của doanh nghiệp  được chính phủ bảo lãnh; nợ của ngân hàng chính sách của nhà nước được  chính phủ bảo lãnh. Nợ của chính quyền địa phương là khoản nợ phát sinh do  Ủy ban nhân dân cấp tỉnh vay, bao gồm: nợ do phát hành trái phiếu của chính  quyền địa phương; nợ do vay lại vốn ODA hoặc vay ưu đãi nước ngoài; nợ của  ngân sách địa phương vay từ ngân hàng chính sách của nhà nước, quỹ dự trữ tài  chính cấp tỉnh, ngân quỹ nhà nước và vay khác theo quy định của pháp luật về  ngân sách nhà nước.  ­ Để quản lý nợ công, Việt Nam đã ban hành Luật Quản lý nợ công 2009 và các  văn bản hướng dẫn gồm Nghị định của Chính phủ, Nghị quyết của Thủ tướng  và một số thông tư của Bộ Tài chính, Bộ Kế họach và Đầu tư, đã tạo khuôn  khổ pháp lý về quản lý nợ công giúp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về nợ  công. Đặc biệt, Luật Quản lý nợ công được Quốc hội khóa 14 thông qua năm  2017 đã khắc phục những tồn tại, hạn chế của Luật Quản lý nợ công 2009  trong công tác quản lý nhà nước về nợ công, như phân định rõ hơn về thẩm  quyền, trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong công tác quản lý nhà  nước về nợ công cho phù hợp hơn với thông lệ quốc tế và thực tiễn quản lý nợ  công của đất nước.  2.4. Kết quả của thực hiện chính sách giải quyết vấn đề Bên cạnh một số mặt tích cực, quản lý nợ công Việt Nam thời gian qua, đặc biệt là  việc quản lý và kiểm soát nợ công ở nước ta đang đặt ra những vấn đề cần xem xét  một cách nghiêm túc, cụ thể: ­ Quy mô nợ công: Tỷ lệ nợ công so với GDP của Việt Nam trong thời gian qua  tăng khá nhanh, đặc biệt trong giai đoạn 2012­2016 từ 50,8% lên 63,7% GDP),  có thể vượt ngưỡng cho phép (65% GDP), tiềm ẩn rủi ro về khủng hoảng nợ  công trong tương lai.  Hiện nay, nghĩa vụ trả nợ so với thu ngân sách khá cao và  có xu hướng tăng nhanh. Riêng trong năm 2017, nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ  khoảng 260.150 tỷ đồng (trong đó trả nợ trong nước là 214.878 tỷ đồng và trả  nợ vay nước ngoài là 45.272 tỷ đồng). Do áp lực về nghĩa vụ trả nợ, Chính phủ  đã phải áp dụng phương pháp vay đảo nợ (vay nợ mới để trả nợ cũ) để có  nguồn tiền trả nợ: năm 2013 đảo nợ 47 nghìn tỷ đồng; năm 2014 đảo nợ là 106  nghìn tỷ đồng; năm 2015 đảo nợ là 125 nghìn tỷ đồng và năm 2016 đảo nợ là 95  nghìn tỷ đồng.
  15. ­ Nợ nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nợ công: Trong cơ cấu nợ công  của Việt Nam, tỷ lệ nợ nước ngoài/GDP khá cao: Năm 2010, nợ nước ngoài  chiếm 31% GDP (khoảng 44,349 tỷ USD), đến năm 2017 chiếm khoảng 45,2%  GDP (khoảng 109,9 tỷ USD). Tỷ lệ nợ nước ngoài cao không chỉ phản ánh khả  năng tích lũy vốn trong nước hạn chế, phụ thuộc nhiều vào bên ngoài mà còn  tiềm ẩn nguy cơ rủi ro thanh khoản ngoại tệ cho các tổ chức tài chính, đặc biệt  là hệ thống ngân hàng thương mại nếu vấn đề kiểm soát dòng vốn ngoại tệ  không hiệu quả. Các khoản nợ nước ngoài trước đây chủ yếu là nợ trung và dài  hạn nhưng những năm gần đây (đặc biệt giai đoạn 2010 đến nay), tỷ lệ nợ  ngắn hạn có xu hướng tăng lên (dưới 5 năm) do Việt Nam đã ra khỏi nhóm  nước có thu nhập thấp nên các ưu đãi vay bị cắt giảm, phải chuyển sang vay  thương mại, gây khó khăn cho ngân sách nhà nước do tỷ lệ trả lãi vay và nợ gốc  so với tổng thu, chi ngân sách ở mức cao. Mặc khác, nợ nước ngoài trong cơ  cấu nợ công của Việt Nam hiện nay chủ yếu tập trung vào 4 loại ngoại tệ  USD, JPY, EURO, SRD có thể tạo ra các nguy cơ rủi ro tiềm ẩn gắn với sự  biến động giá trị của các đồng tiền này. ­ Hiệu quả sử dụng nợ chưa cao: Phần lớn nợ công Việt Nam được sử dụng cho  mục đích đầu tư, tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế bền vững nhưng việc  sử dụng các khoản nợ đó chưa đạt hiệu quả cao. Vẫn còn tình trạng chậm trễ,  không đồng bộ trong giải ngân vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và nguồn trái  phiếu Chính phủ. Theo tổng cục thống kê, ước tính vốn đầu tư của khu vực nhà  nước năm 2017 khoảng 594,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 35,7% tổng vốn đầu tư xã  hội nhưng hiệu quả đầu tư chưa cao. ­ Tình trạng lãng phí, thất thoát trong đầu tư công còn phổ biến; tình trạng đầu tư  phân tán, dàn trải vẫn chưa được khắc phục; nhiều dự án thời gian thi công kéo  dài, chậm tiến độ làm tăng vốn đầu tư gây thất thoát nguồn lực tài chính của  Nhà nước. Nguyên nhân là do cơ chế quản lý đầu tư công còn yếu kém; pháp  luật đầu tư công chưa hoàn thiện, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và thực  tiễn quản lý đầu tư công, gây khó khăn trong việc thực hiện đã làm chậm quá  trình cải thiện hiệu quả đầu tư công ở nước ta.  2.5. Giải pháp giải quyết vấn đề nợ công Để quản lý và kiểm soát nợ công như là một công cụ tài trợ vốn cho nền kinh tế, đáp  ứng nhu cầu đầu tư, phát triển sản xuất, tạo động lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế  cho đất nước, xin đề xuất một số giải pháp chủ yếu sau: ­ Một là, cần hạch toán nợ công theo chuẩn quốc tế để đảm bảo các chính sách  liên quan đến nợ công thực tế hơn và mức độ nghiêm trọng của nợ công được  xem xét một cách toàn diện hơn, đồng thời thiết lập cơ quan chuyên trách quản  lý nợ công độc lập để theo dõi, giám sát và chịu trách nhiệm về nợ công cũng  như tham mưu cho các nhà hoạch định chính sách trong những trường hợp cần  thiết.
  16. ­ Hai là, kiểm soát và quản lý chặt chẽ việc vay vốn, chỉ thực hiện cho vay đối  với những dự án khả thi, có khả năng trả nợ; gắn trách nhiệm trả nợ cho đối  tượng đầu tư và sử dụng vốn vay; thẩm định kỹ các khoản đầu tư, dự án cần  vay vốn. Các công trình, dự án đang sử dụng nguồn vốn vay cần phải được  thường xuyên kiểm soát tiến độ thực hiện, tránh thất thoát lãng phí. ­ Ba là, cần quy định cụ thể về thời điểm công bố thông tin, về số liệu nợ công;  tăng cường kiểm tra, giám sát và minh bạch thông tin về nợ công; thường xuyên  nghiên cứu đánh giá mức độ an toàn, bền vững nợ công để kịp thời điều chỉnh  cơ cấu nợ công phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế ­ xã hội, thu chi ngân  sách và khả năng trả nợ. ­ Bốn là, cần cân đối giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài; lựa  chọn nguồn vốn phù hợp với nhu cầu tài trợ và tính chất của từng nguồn vốn;  cần phân cấp rõ ràng trong quản lý nợ công gắn quyền hạn với trách nhiệm  giữa nhu cầu sử dụng vốn với trách nhiệm hoàn trả; đồng thời tăng cường hơn  nữa hiệu lực quản lý nhà nước về nợ công. ­ Năm là, ban hành các chỉ tiêu đánh giá tính bền vững của nợ công, bao gồm các  chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán và khả năng thanh khoản của nợ công,  đồng thời giám sát chặt chẽ việc tuân thủ; cải cách mạnh mẽ công tác quản lý  đầu tư công ở tất cả các khâu của chu kỳ dự án từ quy hoạch, lựa chọn dự án,  giám sát thực hiện dự án đến đánh giá dự án qua việc nâng cao chất lượng thể  chế quản lý đầu tư công. ­ Sáu là,chủ động điều hành ngân sách theo hướng siết chặt kỷ luật tài khóa, đẩy  mạnh việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ  việc chi tiêu, đảm bảo đúng chế độ, chính sách quy định, đúng dự toán được  giao và khả năng thu ngân sách nhà nước; giữa bội chi ngân sách trong giới hạn  cho phép; phấn đấu tăng thu, tiết kiệm chi để giảm bội chi ngân sách nhà nước. 3. Kết luận ­ Vấn đề nợ công giờ không chỉ là vấn đề của các nước bạn mà ngay tại Việt  Nam, nếu cứ theo đà tăng như hiện nay thì sớm muộn cũng phải đối mặt với  bài toán hóc búa như nhiều quốc gia đang phải đối mặt. Tuy nhiên, theo nhìn  nhận của giới chuyên gia, hiệu quả quản lý, sử dụng nợ hiện chưa có sự cải  thiện rõ rệt và cần có những giải pháp cụ thể nhằm giải quyết thấu đáo vấn đề  này, qua đó mới có thể giảm bớt gánh nặng nợ công. –  ­ Vấn đề đặt ra ở đây là Chính phủ cần có một chiến lược kiểm soát đầu tư  công, giảm thâm hụt ngân sách để có thể kiểm soát được nợ vay nước ngoài.  Nếu không tình trạng nợ công sẽ là một vấn đề phức tạp trong dài hạn. Tóm lại,  trong cơ cấu nợ của một quốc gia, nợ công là danh mục nợ lớn nhất.  Đây là một cơ cấu tài chính rất phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn ảnh  hưởng đến sự ổn định tài chính trong nước, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập  quốc tế. Nợ công là một hiện tượng bình thường nếu như thiết lập được hệ thống   quản lý và sử dụng nợ công có hiệu quả. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả quản lý 
  17. nợ công được Chính phủ Việt Nam rất quan tâm. Một nền kinh tế lành mạnh bao  gồm rất nhiều yếu tố lành mạnh, trong đó có vấn đề nợ công. Cùng với Ban Quản  lý nợ, mỗi người dân cần làm tròn nghĩa vụ đóng thuế cho nhà nước. XIN CẢM ƠN   
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2