
2
(λ=350-420 nm) [11]. Điểm hạn chế của cách tiếp cận này là phát xạ
toàn phổ cũng bị thiếu vùng quang phổ màu cyan [9]. Việc thiếu vùng
quang phổ màu lục lam sẽ làm giảm sự chân thật, sống động của màu
sắc do LED phát ra. Từ hai cách tiếp cận trên cho thấy, WLED vẫn
còn tồn đọng các vấn đề thách thức như CCT, CRI, và hiệu suất quang
(LER) chưa đạt được như mong muốn đã kỳ vọng. Điểm chung của
hai phương pháp nêu trên là phủ bột huỳnh quang lên chip LED. Dó
đó, bột huỳnh quang đóng vai trò quang trọng trong việc quyết định
sử dụng chip LED nào để kích thích và ánh sáng phát ra của LED.
Tiếp cận với xu thế chung của cuộc cách mạng chiếu sáng rắn, các nhà
khoa học trong nước đã và đang tiến hành các nghiên cứu chế tạo bột
huỳnh quang, nhằm cải thiện tính chất phát quang.
Tuy nhiên, chưa có nhóm nghiên cứu nào tổng hợp bột huỳnh quang
sử dụng các mạng nền ZGO, SYGO và CSSO. Và theo tìm hiểu, chưa
có công trình nào trong và ngoài nước xác định cụ thể vị trí của ion
kim loại chuyển tiếp (Mn2+) hoặc ion kim loại đất hiếm (Eu3+) trong
mạng nền. Điểm chung của các công trình là so sánh sự giống nhau về
hóa trị, hay sự chênh lệch bán kính ion. Giải thích như vậy hơi mang
tính chủ quan, chưa mang tính khoa học sâu sắc. Do đó, để giải quyết
vấn đề này, chúng tôi sử dụng hai lý thuyết khác nhau, để tìm ra vị trí
của các ion tạp chất trong mạng nền. Cụ thể, đối với ion kim loại
chuyển tiếp (Mn2+), sử dụng giản đồ Tanabe-Sugano (T-S) để xác định
trường tinh thể của ion Mn2+ trong mạng nền. Và sử dụng lý thuyết
Judd-Ofelt (J-O) đối với mạng nền pha tạp ion kim loại đất hiếm