
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
THÂN TRỌNG THẠCH
SO SÁNH KẾT QUẢ THỤ TINH TRONG ỐNG
NGHIỆM GIỮA HAI PHÁC ĐỒ KÍCH THÍCH
BUỒNG TRỨNG CÓ MỒI PROGESTIN VÀ
ANTAGONIST
Ngành : Sản phụ khoa
Mã số : 9720105
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
HÀ NỘI - 2025

CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hà
2. PGS.TS. Lê Hoàng
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường tại
Trường Đại học Y Hà Nội.
Vào hồi ……. ngày … tháng … năm ……….
Có thể tìm hiểu luận án tại:
Thư viện Quốc gia
Thư viện Trường Đại học Y Hà Nội

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Thach TT, Ha NM, Hoang L. 2. Dydrogesterone-primed ovarian stimulation versus
gnrh antagonist protocol in in-vitro fertilization for poor responders: A pilot study. Tạp
chí Nghiên cứu Y học. 05/31 2024;177(4E14):7-17.
doi:10.52852/tcncyh.v177i4E14.2380
2. Than TT, Le DT, Nguyen HNTT, et al. Progestin-Primed Ovarian Stimulation with
Dydrogesterone Improves Oocyte and Embryo Outcomes in Women Undergoing In
Vitro Fertilization: A Randomized Controlled Study. CEOG. 202504-22 2025;52(4).
doi:10.31083/ceog27951

ĐẶT VẤN ĐỀ
Kích thích buồng trứng (KTBT) là giai đoạn đầu tiên quan trọng, làm tiền đề cho
chuỗi kết quả của chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON). Với mục tiêu thu được
đoàn hệ đa noãn đặt ra nhu cầu về việc sử dụng chất ức chế hóc môn hoàng thể hoá
(Luteinizing Hormone – LH) nhằm tránh sự khởi động trưởng thành noãn và rụng trứng
sớm. Trong nhiều thập kỷ, các hoạt chất tương tự hóc môn phóng thích gonadotropin
(Gonadotropin Releasing Hormone – GnRH), bao gồm đồng vận GnRH (GnRH agonist
– GnRHa) và đối vận GnRH (GnRH antagonist – GnRH-ant) đã được sử dụng phổ biến
cho hiệu ứng này. Kể từ năm 2014, phác đồ GnRH-ant đã trở thành phác đồ tiêu chuẩn
trong KTBT. Tuy nhiên, do khả năng ức chế đỉnh LH sớm còn khá dao động (0,34% –
38%)1,2 và trở ngại về nguồn cung ứng trong bối cảnh hiện tại của hoạt chất GnRH-ant,
đã đặt ra nhu cầu về việc giải pháp ức chế LH khác phù hợp và hiệu quả hơn.
Năm 2015, cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ đông - rã phôi, Yanping
Kuang lần đầu tiên báo cáo về một phác đồ KTBT mới sử dụng progestin làm “mồi”
(Progestin-Primed Ovarian Stimulation – PPOS)3. Với cơ chế tương tự như cơ chế tránh
thai nội tiết, phác đồ PPOS sử dụng một số loại progestin như medroxyprogesterone
acetate (MPA), dydrogesterone (DYG) hoặc utrogestan (UTG) nhằm ức chế đỉnh LH
sớm và trì hoãn tiến trình rụng trứng. Với ưu thế về đường uống, giảm số mũi tiêm, thân
thiện với người dùng và giảm chi phí KTBT, phác đồ PPOS được kỳ vọng trở thành
một lựa chọn phù hợp hơn trong TTTON.
Một lượng chứng cứ đáng kể từ y văn cho thấy phác đồ PPOS có hiệu quả tương
đương với phác đồ GnRH-ant về khả năng ngăn chặn đỉnh LH sớm, kết cục thu hồi
noãn, tạo phôi và kết cục thai kỳ trong các chu kỳ chuyển phôi trữ trên các quần thể
hiếm muộn khác nhau4,5. Tại Việt Nam, phác đồ PPOS cũng được áp dụng phổ biến
trong những năm gần đây. Trong đó, DYG là loại progestin vốn đã phổ biến trong các
bệnh lý sản phụ khoa và dần được sử dụng rộng rãi trong phác đồ PPOS tại Việt Nam
với liều 20 – 30 mg/ngày. Những kết quả này đã đưa phác đồ PPOS trở thành một lựa
chọn đáng tin cậy cho các bác sĩ hiếm muộn trên lâm sàng.
Mặt khác, hầu hết dữ liệu về PPOS cho đến thời điểm hiện tại đều đến từ những
nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu, với nguy cơ cao của thiên lệch chọn lựa. Thử nghiệm lâm
sàng ngẫu nhiên có đối chứng (Randomized Controlled Trial – RCT) sẽ là thiết kế phù
hợp hơn để giải quyết các hạn chế này6. Thực tế, rất ít nghiên cứu về PPOS sử dụng
DYG 30 mg/ngày được thiết kế dưới hình thức RCT. Bên cạnh đó, khi chiến lược “đông
phôi toàn bộ” dần trở thành lựa chọn hàng đầu trong hầu hết các chu kỳ KTBT, nhu cầu
về việc đánh giá hiệu quả PPOS trên nhóm bệnh nhân hiếm muộn tổng quát là cần thiết.
Ngoài ra, do tính chất các kết cục của TTTON là có liên quan nhau và mang tính chất
kế thừa, việc đánh giá hiệu quả trên các giai đoạn riêng biệt không còn phù hợp trong
bối cảnh hiện tại. Để giải quyết các vấn đề nêu trên, chúng tôi tiến hành thực hiện nghiên
cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng, không mù (open label): “So sánh
kết quả thụ tinh trong ống nghiệm giữa hai phác đồ kích thích buồng trứng có mồi
progestin và antagonist” nhằm ước lượng hiệu quả của can thiệp (phác đồ PPOS) so
với nhóm đối chứng (GnRH-ant) trên quần thể hiếm muộn tổng quát được thực hiện thụ
tinh trong ống nghiệm tại Việt Nam với các mục tiêu như sau:
1. Xác định sự biến đổi nồng độ LH trong quá trình kích thích buồng trứng của
bệnh nhân sử dụng phác đồ PPOS.

2. So sánh kết quả của các giai đoạn chính trong quy trình thụ tinh trong ống
nghiệm giữa hai phác đồ PPOS và antagonist.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. SƠ LƯỢC SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỖ TRỢ SINH SẢN
1.1.1. Lịch sử hỗ trợ sinh sản thế giới
Ngày 25 tháng 7 năm 1978, Louis Brown - đứa trẻ đầu tiên được chào đời nhờ
vào kĩ thuật TTTON không có KTBT, đánh dấu sự khởi đầu cho lĩnh vực HTSS và
TTTON trên thế giới. Năm 1981, em bé TTTON đầu tiên ở Mỹ ra đời nhờ vào KTBT7.
Năm 1983, nhóm nghiên cứu của Alan Trouson tại Úc công bố trường hợp em bé đầu
tiên sinh ra từ phôi trữ đông8. Khoảng năm 1993, phác đồ KTBT sử dụng GnRH đồng
vận trở thành phác đồ tiêu chuẩn. Sau đó, đến năm 2014, phác đồ sử dụng GnRH đối
vận đã thay thế vị trí này và kéo dài cho đến ngày nay.
1.1.2. Lịch sử hỗ trợ sinh sản tại Việt Nam
Ngày 19/8/1997, Bộ trưởng Bộ Y Tế đã ký quyết định cho phép Bệnh viện Từ
Dũ là đơn vị đầu tiên tại Việt Nam được thực hiện những ca TTTON đầu tiên. Ngày
30/4/1998, 3 em bé TTTON đầu tiên của Việt Nam được chào đời. Cho đến nay, TTTON
ở Việt Nam phát triển rất nhanh, thực hiện được nhiều kỹ thuật chuyên sâu với tỷ lệ
thành công được cải thiện đáng kể và xứng tầm với các trung tâm trên thế giới.
1.2. KỸ THUẬT ĐÔNG PHÔI TRONG CHUYỂN PHÔI TRỮ
1.2.1. Lịch sử kỹ thuật đông phôi
Đông phôi lần đầu tiên được thực hiện bằng kỹ thuật trữ lạnh chậm với sự ra đời
của em bé đầu tiên từ kỹ thuật này vào năm 19838. Tuy nhiên, trữ đông chậm lại cho tỷ
lệ sống của phôi sau rã không cao. Năm 1985, kỹ thuật đông lạnh cực nhanh hay thuỷ
tinh hoá được đã cải thiện được nhược điểm này9. Năm 2007 có 2020 chu kỳ trữ đông
toàn bộ và năm 2016 có 65 840 chu kỳ, tăng 33 lần chỉ trong 10 năm10.
1.2.2. Các kỹ thuật đông phôi
Có hai kỹ thuật đông phôi: trữ lạnh chậm và thuỷ tinh hoá.
1.2.2.1. Kỹ thuật trữ lạnh chậm
Đối với kỹ thuật trữ lạnh chậm, phôi được tiếp xúc với nồng độ thấp chất bảo vệ
đông lạnh (cryoprotective agent – CPA) và làm lạnh với tốc độ rất chậm (thường là
0,3°C/phút), sau đó ngâm vào nitơ lỏng để làm mát và bảo quản. Tuy có thể kiểm soát
được tốc độ làm lạnh, nhưng do nồng độ CPA được sử dụng không cao dẫn đến tỷ lệ
sống của phôi sau rã đông không cao11.
1.2.2.2. Kỹ thuật thuỷ tinh hoá
Thủy tinh hóa là phương pháp trữ đông trong đó phôi bằng cách làm lạnh cực
nhanh và dung dịch lỏng xung quanh trở thành chất rắn vô định hình giống như thủy
tinh. Với tốc độ làm lạnh cực nhanh, nồng độ CPA cao hơn và lượng dung dịch đông
lạnh tối thiểu nên tế bào được khử nước tốt, ngăn ngừa hình thành tinh thể đá cả bên
trong và bên ngoài tế bào12. Do đó, tỷ lệ sống của phôi sau rã đông được cải thiện đáng
kể so với phương pháp trữ lạnh chậm10.

