intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Tâm lý học: Stress của kiểm toán viên

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

3
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận án "Stress của kiểm toán viên" nhằm nghiên cứu lý luận và thực trạng stress của kiểm toán viên Việt Nam, các yếu tố ảnh hưởng đến stress của kiểm toán viên, từ đó đề xuất các kiến nghị nhằm cải thiện sức khỏe tinh thần cho kiểm toán viên và nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Tâm lý học: Stress của kiểm toán viên

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN KHÁNH LÂM STRESS CỦA KIỂM TOÁN VIÊN Ngành: Tâm lý học Mã số: 9. 31 04 01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC Hà Nội - 2025
  2. Công trình được hoàn thành tại HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Vũ Dũng Phản biện 1: PGS.TS. Lê Thị Minh Loan Phản biện 2: GS.TS. Nguyễn Hữu Thụ Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Bình Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sỹ cấp Học viện tại Học viện Khoa học xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam Vào hồi, giờ ngày tháng năm 2025 Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Thư viện Học viện Khoa học xã hội
  3. MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu Nghề kiểm toán là một trong những nghề nghiệp căng thẳng cao, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động và tại Việt Nam, kiểm toán viên đối mặt với nhiều thách thức về chất lượng kiểm toán. Công việc kiểm toán yêu cầu độ chính xác cao, trách nhiệm lớn và áp lực thời gian, dễ dẫn đến tình trạng stress. Khối lượng công việc và áp lực thời gian là những yếu tố chính gây stress. Trong mùa cao điểm kiểm toán, kiểm toán viên phải làm việc với cường độ cao để giúp doanh nghiệp hoàn thành báo cáo tài chính, làm thêm giờ và thậm chí làm việc vào cuối tuần và ngày lễ trong thời gian dài. Cường độ công việc cao và sự phức tạp của tài liệu, dữ liệu số ngày càng lớn càng làm gia tăng căng thẳng tinh thần và thể chất. Ngoài ra, kiểm toán viên phải tuân thủ nghiêm ngặt các chuẩn mực kiểm toán quốc tế, chuẩn mực kiểm toán Việt Nam và các quy định pháp luật khác. Sai sót trong kiểm toán có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng như bị đình chỉ hành nghề, phạt tiền hoặc kiện tụng pháp lý. Trách nhiệm đối với báo cáo tài chính và uy tín nghề nghiệp là nguồn áp lực lớn, yêu cầu sự cẩn trọng và tập trung cao độ. So với các ngành nghề khác, ngành kiểm toán có những điểm khác biệt rõ rệt, tạo ra môi trường làm việc đầy thách thức và căng thẳng. Áp lực từ trách nhiệm tài chính và pháp lý, khối lượng công việc lớn và yêu cầu về tính chính xác cao khiến kiểm toán viên phải luôn sẵn sàng đối mặt với stress. Mức độ stress cao này không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần và thể chất của kiểm toán viên mà còn làm suy giảm chất lượng công việc và uy tín của ngành kiểm toán. Nghiên cứu về stress của kiểm toán viên tại Việt Nam hiện nay là một vấn đề cấp thiết và mang tính thời sự cao. Việc nhận thức và giải quyết vấn đề stress trong nghề kiểm toán không chỉ góp phần nâng cao chất lượng công việc mà còn tạo ra môi trường làm việc lành mạnh hơn cho kiểm toán viên.Từ các lý do trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Stress của kiểm toán viên”. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu lý luận và thực trạng stress của kiểm toán viên Việt Nam, xác định các yếu tố ảnh hưởng đến stress, mối liên hệ giữa stress và hành vi làm giảm chất lượng kiểm toán, và đề xuất các kiến nghị cải thiện sức khỏe tinh thần và chất lượng hoạt động kiểm toán. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 1)Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến stress của kiểm toán viên. 1
  4. 2)Xây dựng cơ sở lý luận về stress của kiểm toán viên 3) Đánh giá thực trạng stress của kiểm toán viên tại Việt Nam, xác định yếu tố ảnh hưởng đến stress trong nghề kiểm toán ở Việt Nam. 4) Đề xuất kiến nghị nhằm cải thiện chất lượng hoạt động kiểm toán viên. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Biểu hiện, mức độ và các yếu tố ảnh hưởng đến stress của kiểm toán viên. 3.2. Khách thể nghiên cứu Khách thể nghiên cứu của luận án bao gồm ba nhóm chính. Tổng số khách thể nghiên cứu định lượng là 936 người, gồm:Kiểm toán viên: khảo sát 906 kiểm toán viên độc lập; Lãnh đạo doanh nghiệp kiểm toán: 20 lãnh đạo; Các chuyên gia: 10 chuyên gia; nghiên cứu sâu 03 trường hợp điển hình. 3.3. Phạm vi nghiên cứu 3.3.1. Về nội dung nghiên cứu Luận án này chú trọng nghiên cứu về biểu hiện của stress của kiểm toán viên trong các hoạt động kiểm toán độc lập, cả từ góc độ sinh lý, cảm xúc và hành vi của kiểm toán viên. 3.3.2. Về khách thể nghiên cứu Luận án tập trung vào các kiểm toán viên độc lập (ở các cấp bậc từ trợ lý kiểm toán viên đến giám đốc kiểm toán) hiện đang công tác tại các doanh nghiệp và chi nhánh cung cấp dịch vụ kiểm toán, nhằm cung cấp cái nhìn toàn diện về vấn đề nghiên cứu. 3.3.3. Về địa bàn nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện tại các doanh nghiệp và chi nhánh kiểm toán đang hoạt động trong khu vực TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Thời gian thực hiện khảo sát từ tháng 5 đến tháng 8/2023. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận nghiên cứu Luận án dựa trên các nguyên tắc phương pháp luận trong nghiên cứu tâm lý học, đó là: nguyên tắc tiếp cận hoạt động; hệ thống và cấu trúc; tiếp cận thực tiễn và tiếp cận liên ngành. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phối hợp các phương pháp định tính và định lượng để thực hiện nghiên cứu này, bao gồm: Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu; Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi; Phương pháp phỏng vấn sâu; Phương pháp trắc nghiệm; Phương pháp phân tích trường hợp điển hình; Phương pháp xin ý kiến chuyên gia; Phương pháp thống kê toán học. 4.3. Câu hỏi nghiên cứu 2
  5. 1) Biểu hiện và mức độ stress của kiểm toán viên là gì? 2) Các yếu tố nào ảnh hưởng đến mức độ stress của kiểm toán viên? 3) Mối quan hệ giữa stress và hành vi làm giảm chất lượng kiểm toán là gì? 4) Các biện pháp và chiến lược nào có thể giúp giảm stress và cải thiện sức khỏe tinh thần cho kiểm toán viên? 4.4. Giả thiết khoa học Giả thiết 1: Stress sẽ ảnh hưởng đến khả năng nhận thức và xử lý thông tin của kiểm toán viên, dẫn đến sự giảm sút trong việc ra quyết định, suy giảm trí nhớ, và giảm khả năng tập trung. Giả thiết 2: Stress sẽ gây ra các phản ứng cảm xúc mạnh mẽ như lo lắng, bất an, trầm cảm, hoặc cảm giác bất lực trong công việc của kiểm toán viên. Những thay đổi này trong nhận thức có thể ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả và chất lượng của công việc kiểm toán. Giả thiết 3: Stress trong nghề kiểm toán có thể dẫn đến các thay đổi trong hành vi làm việc và tương tác xã hội: kiểm toán viên có thể trở nên ít hợp tác, tránh giao tiếp, hoặc thậm chí thể hiện hành vi tránh né trách nhiệm. Giả thiết 4: Các yếu tố như: áp lực công việc, thời gian làm việc, sự mơ hồ và xung đột trong công việc, hành vi lãnh đạo, mô hình hành vi loại A ảnh hưởng đến stress của kiểm toán viên; đồng thời stress của kiểm toán viên ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động kiểm toán. 5. Đóng góp mới của luận án 5.1. Về mặt lý luận Stress của kiểm toán viên là một vấn đề còn ít được nghiên cứu ở Việt Nam hiện nay. Do vậy, những kết quả nghiên cứu của luận án có đóng góp mới về lý luận và thực tiễn. Luận án góp phần bổ sung và làm phong phú thêm một số vấn đề lý luận về stress của một nhóm xã hội đặc thù – nhóm kiểm toán viên. Luận án đã phân tích khá sâu từ góc độ lý luận những biểu hiện của stress từ góc độ hoạt động nghề nghiệp với nhiều điểm đặc thù của nghề kiểm toán viên. Những đặc điểm đặc thù của nghề kiểm toán đã dẫn tới stress của các kiểm toán viên. Kết quả nghiên cứu này cho phép ta hiểu thêm sự phong phú và phức tạp của stress từ góc độ tâm lý học. 5.2. Về thực tiễn Luận án đánh giá được những biểu hiện stress của kiểm toán viên trong điều kiện hoạt động rất đặc thù của nghề kiểm toán. Nghiên cứu cung cấp cái nhìn chi tiết về thực trạng stress mà kiểm toán viên tại Việt Nam đang phải đối mặt, bao gồm các yếu tố như áp lực công việc, môi trường làm việc, và cách thức ứng phó với stress. 3
  6. Luận án đã xác định và phân tích các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến stress của kiểm toán viên, bao gồm áp lực công việc, sự mơ hồ và xung đột nghề nghiệp, hành vi lãnh đạo, và mô hình hành vi loại A. Một phát hiện khác của luận án là mối liên hệ giữa stress và hành vi làm giảm chất lượng kiểm toán. Ở đây yếu tố quản lý stress hiệu quả có thể góp phần cải thiện chất lượng dịch vụ kiểm toán. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu đã mở rộng và làm sâu sắc thêm một số vấn đề lý luận về stress trong nghề kiểm toán, đồng thời cung cấp cơ sở lý thuyết cho các nghiên cứu tiếp theo về stress đối với các nghề nghiệp khác. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu "Stress của kiểm toán viên" không chỉ dừng lại ở việc cung cấp thông tin và hiểu biết sâu sắc cho các kiểm toán viên, lãnh đạo công ty kiểm toán, cơ quan quản lý Nhà nước, và các tổ chức nghề nghiệp về cách thức phát triển các chương trình và chiến lược giảm thiểu và quản lý stress. Với việc xác định rõ ràng các yếu tố ảnh hưởng đến stress và tác động của stress đối với chất lượng công việc kiểm toán, luận án này tạo cơ sở cho các nhà nghiên cứu sau này tiếp tục khám phá sâu hơn về mối quan hệ giữa môi trường làm việc, áp lực công việc, sức khỏe tinh thần và hiệu suất, chất lượng làm việc trong ngành kiểm toán. Ngoài ra, việc nghiên cứu và đánh giá tác động của các biện pháp giảm stress không chỉ giúp cải thiện chất lượng dịch vụ kiểm toán, mà còn góp phần tạo ra một môi trường làm việc lành mạnh hơn, từ đó nâng cao sức khỏe và sự hài lòng nghề nghiệp của kiểm toán viên. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo và các phụ lục, luận án có 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về stress của kiểm toán viên, Chương 2: Cơ sở lý luận về stress của kiểm toán viên, Chương 3: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu, và Chương 4: Kết quả nghiên cứu thực tiễn về stress của kiểm toán viên tại Việt Nam. 4
  7. Chương 1 TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ STRESS CỦA KIỂM TOÁN VIÊN 1.1. Các nghiên cứu về stress 1.1.1. Hướng tiếp cận y học và sinh học về stress Nghiên cứu về stress theo hướng y học và sinh học bắt đầu từ công trình của Hooke (1660), mô tả mối quan hệ giữa áp lực và phản ứng của cơ thể. George Beard (1839-1883) nghiên cứu về tác động của áp lực cuộc sống đến hệ thần kinh, đưa ra khái niệm "suy nhược thần kinh". Claude Bernard nhấn mạnh sự cần thiết của sự cân bằng giữa môi trường bên trong và bên ngoài cơ thể. Tại Việt Nam, Tô Như Khuê nhấn mạnh vai trò của nhận thức trong việc tạo ra stress. Phạm Ngọc Rao, Nguyễn Hữu Nghiêm và Đặng Phương Kiệt tập trung vào tác động của stress đến cuộc sống hàng ngày. Nguyễn Thu Hà nghiên cứu áp lực công việc cao trong các ngành nghề như quản lý và y tế. 1.1.2. Hướng tiếp cận tâm lý học về stress Cannon (1939) nghiên cứu cơ chế phản ứng "chiến đấu hoặc bỏ chạy" của cơ thể đối với stress. Holmes và Rahe (1967) phát triển "Thang đo các sự kiện trong cuộc sống" để đánh giá mức độ stress. Hinkle Jr. (1974) nhấn mạnh mối quan hệ giữa cá nhân và môi trường. Abbott (2001) và Hearnshaw (2019) chỉ ra "mệt mỏi" là biểu hiện quan trọng của stress. Rose (1999) phát triển khái niệm "vệ sinh tinh thần". Kobasa (1979) nhấn mạnh vai trò của nhân cách trong việc ứng phó với stress, trong khi Lowery (1987) và Lazarus (2000) đề cập đến biện pháp ứng phó cá nhân. Tại Việt Nam, Đặng Phương Kiệt với các tác phẩm như “Căng thẳng và đời sống” (1998), “Chung sống với căng thẳng” (2004) và “Căng thẳng và sức khỏe” (2004) cung cấp hiểu biết về stress. Nguyễn Hữu Thụ nghiên cứu nguyên nhân gây stress trong học tập của sinh viên. Phan Cẩm Phương và Nguyễn Thị Thúy Anh (2020) chỉ ra mức độ stress cao ở sinh viên do tài chính và áp lực học tập. Trần Văn Toản và Phạm Thị Phương Thức nghiên cứu stress của học sinh trung học phổ thông do áp lực thi cử. Phạm Thanh Bình phát hiện học sinh nữ chịu stress nặng hơn nam giới. Lê Thị Vũ Huyền và Nguyễn Thị Thu Thủy (2022) nghiên cứu stress ở sinh viên ngành Y và Dược. 1.2. Các nghiên cứu về stress của kiểm toán viên 1.2.1. Những nghiên cứu về đặc điểm hoạt động công việc của kiểm toán viên Công việc kiểm toán đòi hỏi sự chính xác và tuân thủ nghiêm ngặt các chuẩn mực, làm nghề kiểm toán trở thành một trong những ngành nghề 5
  8. có mức độ stress cao. Atmojo (2015), Olimpia & Rachmawati (2021) và Rasool & cộng sự (2020) chỉ ra khả năng đạt tiêu chí và yêu cầu của tổ chức trong môi trường cạnh tranh là yếu tố quan trọng. Kalbers & Cenker (2008) và Mohd Nor (2011) nhấn mạnh hiệu quả công việc của kiểm toán viên ảnh hưởng đến uy tín và kết quả kinh doanh. Amiruddin (2019) và Fisher (2001) nghiên cứu stress do áp lực thời gian, chỉ ra mức độ stress cao ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng xét đoán. Alsudairi & Khalid (2020), Choo (1995), Kelley & Margheim (1990), Mohd Nor (2011) và Sl Shbail & cộng sự (2018) nhấn mạnh mối liên hệ giữa stress và chất lượng công việc kiểm toán. Coram các cộng sự (2003), Johnsson & Persson (2021), Munidewi các cộng sự (2020) và Pietsch & Messier Jr (2017) nghiên cứu áp lực thời gian và thỏa hiệp về chất lượng công việc. 1.2.2. Những nghiên cứu về stress của kiểm toán viên Nghề kiểm toán phải đối mặt với nhiều nguồn stress từ áp lực thời gian đến yêu cầu chất lượng và đạo đức nghề nghiệp. Amiruddin (2019), Beau & Jerman (2022), Coram & cộng sự (2003), Gundry & Liyanarachchi (2007), Kelley & Margheim (1990), Munidewi & cộng sự (2020) và Pietsch & Messier Jr (2017) chỉ ra stress ảnh hưởng đến hiệu suất công việc và sức khỏe tinh thần của kiểm toán viên. Xung đột lợi ích và mối quan hệ với khách hàng cũng tạo ra stress, được nghiên cứu bởi Alisa và các cộng sự (2019), Chow & Rice (1982), Kalbers & Cenker (2008), Nehme (2017), Pietsch & Messier Jr (2017) và Rasool & cộng sự (2020). Otley & Pierce (1996), Quick & Warming‐Rasmussen (2009) và Tepalagul & Lin (2015) chỉ ra cấu trúc tổ chức phân cấp và yêu cầu công việc cao tạo thêm stress. 1.3. Nhận xét các công trình nghiên cứu Các nghiên cứu về stress trong tâm lý học tập trung vào các yếu tố tâm lý và xã hội. Các công trình của Cannon, Meyer và Holmes & Rahe làm sáng tỏ cách thức các biến cố cuộc sống và mối quan hệ xã hội ảnh hưởng đến stress. Tại Việt Nam, Đặng Phương Kiệt và Nguyễn Hữu Thụ cung cấp cái nhìn chi tiết về nguyên nhân và biện pháp quản lý stress trong các lĩnh vực giáo dục và lao động chuyên nghiệp. 6
  9. Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ STRESS CỦA KIỂM TOÁN VIÊN 2.1. Stress 2.1.1. Khái niệm Theo quan điểm của Lazaruss, luận án xác định khái niệm stress như sau: Stress là trải nghiệm phát sinh từ tương tác giữa cá nhân với môi trường, đặc biệt là những tương tác mà trong đó có sự không phù hợp giữa các nguồn lực của một cá nhân và những thách thức của môi trường. Nó được thể hiện qua khía cạnh thực thể, nhận thức, cảm xúc và hành vi của chủ thể. 2.1.2. Biểu hiện của stress - Biểu hiện stress về mặt thực thể: Stress gây ra mệt mỏi, rối loạn giấc ngủ, đau đầu, căng cơ, các vấn đề tim mạch và suy giảm hệ miễn dịch. - Biểu hiện stress về mặt nhận thức: Stress ảnh hưởng đến khả năng xử lý thông tin, giải quyết vấn đề, trí nhớ và ra quyết định. Nghiên cứu của Nakao và cộng sự (2021) chỉ ra rằng stress có thể làm suy giảm chức năng nhận thức, gây lo lắng và mất tập trung. - Biểu hiện stress về cảm xúc: Stress gây ra các phản ứng cảm xúc như lo lắng, sợ hãi, tức giận, bất an, tự ti và bi quan - Biểu hiện stress về mặt hành vi: Stress thể hiện qua các hành vi như thay đổi thói quen ăn uống, giấc ngủ, rối loạn trong giao tiếp và suy giảm hiệu suất làm việc 2.2. Kiểm toán viên 2.2.1. Khái niệm Khái niệm kiểm toán: Kiểm toán là quá trình đánh giá có hệ thống và độc lập các báo cáo tài chính và hoạt động của tổ chức, nhằm xác nhận tính chính xác, trung thực, và tuân thủ các chuẩn mực kế toán (ISA, IFAC, Arens 2014, IFAC 2019). Khái niệm kiểm toán viên: Kiểm toán viên là người có năng lực và độc lập, có nhiệm vụ thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán nhằm đưa ra ý kiến độc lập về báo cáo tài chính và các công việc kiểm toán khác; và đang hoạt động hành nghề tại một công ty cung cấp dịch kiểm toán (Luật Kiểm toán độc lập số 67/2011/QH12, IFAC, 2019; IIA, 2017). 2.2.2. Đặc điểm nghề nghiệp của hoạt động kiểm toán - Áp lực về thời hạn - Chi tiết và độ chính xác cao. - Trách nhiệm pháp lý và đạo đức nghề nghiệp - Giao tiếp với khách hàng và xử lý xung đột - Áp lực từ yêu cầu của khách hàng và công ty 7
  10. - Cập nhật liên tục kiến thức và chuẩn mực nghề nghiệp - Sự không chắc chắn và rủi ro nghề nghiệp - Cấu trúc tổ chức phân cấp và giám sát chặt chẽ 2.3. Lý luận về stress của kiểm toán viên 2.3.1. Khái niệm Stress của kiểm toán viên là trải nghiệm phát sinh từ sự tương tác giữa kiểm toán viên và môi trường làm việc, đặc biệt khi có sự không phù hợp giữa nguồn lực cá nhân và thách thức nghề nghiệp. Nó bao gồm các khía cạnh sinh lý, nhận thức, cảm xúc và hành vi. 2.3.2. Biểu hiện stress của kiểm toán viên - Stress về sinh lý/thực thể: Mệt mỏi, rối loạn giấc ngủ, đau đầu, vấn đề tim mạch, suy giảm hệ miễn dịch. - Stress về nhận thức: Ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng xử lý thông tin, giải quyết vấn đề, trí nhớ và ra quyết định. - Stress về cảm xúc: Tránh né, lo lắng, sợ hãi, cảm xúc tiêu cực, tức giận, bất lực, tự ti, bi quan. - Stress về hành vi: Rối loạn giao tiếp, làm việc quá mức, hành vi tự làm hại, ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ xã hội, suy giảm hiệu suất, hành vi bốc đồng. 2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến stress của kiểm toán viên - Đặc điểm hành vi cá nhân - Khối lượng công việc - Áp lực thời gian - Sự mơ hồ và xung đột về vai trò - Hành vi của lãnh đạo 2.5. Mối liên hệ giữa stress kiểm toán viên và hành vi làm giảm chất lượng kiểm toán 2.5.1. Chất lượng kiểm toán Chất lượng kiểm toán là khả năng báo cáo tài chính không chứa sai sót trọng yếu và đảm bảo tính chính xác thông tin, tuân thủ các chuẩn mực và quy trình kiểm toán. Năng lực và sự độc lập của kiểm toán viên là hai yếu tố cốt lõi trong việc đảm bảo chất lượng kiểm toán (DeAngelo, 1981; Fearnley và Beattie, 2004). 2.5.2. Hành vi làm giảm chất lượng kiểm toán Hành vi làm giảm chất lượng kiểm toán bao gồm việc thực hiện sai sót thủ tục kiểm toán hoặc bỏ qua các bước quan trọng, gây ảnh hưởng tiêu cực đến độ tin cậy của báo cáo tài chính. Nghiên cứu tại nhiều quốc gia cho thấy hơn một nửa kiểm toán viên đã thực hiện hành vi này ít nhất một lần trong sự nghiệp (Coram và cộng sự, 2003; Kelley và Margheim, 1990). 8
  11. 2.5.3. Mối quan hệ giữa stress và hành vi làm giảm chất lượng kiểm toán của kiểm toán viên Stress là yếu tố không thể tránh khỏi trong công việc kiểm toán và có tác động đáng kể đến chất lượng công việc. Áp lực thời gian, yêu cầu cao về chất lượng và áp lực từ khách hàng là những nguồn stress chính, khiến kiểm toán viên có thể bỏ qua các bước quan trọng hoặc thực hiện kiểm toán không đầy đủ, dẫn đến giảm chất lượng kiểm toán (Chen & cộng sự, 2006; Mohd Nor, 2011). Việc quản lý stress hiệu quả là cần thiết để bảo vệ sức khỏe tinh thần và nâng cao hiệu suất làm việc của kiểm toán viên, đảm bảo chất lượng kiểm toán. 2.6. Mô hình nghiên cứu 2.6.1. Giả thuyết nghiên cứu các yếu tố tác động đến stress của kiểm toán viên - Giả thuyết 1: Áp lực công việc ảnh hưởng đến stress của kiểm toán viên. - Giả thuyết 2: Áp lực thời gian ảnh hưởng đến stress của kiểm toán viên. - Giả thuyết 3: Sự mơ hồ và xung đột ảnh hưởng đến stress của kiểm toán viên Việt Nam. - Giả thuyết 4: Hành vi lãnh đạo ảnh hưởng đến stress của kiểm toán viên. - Giả thuyết 5: Mẫu hành vi Loại A ảnh hưởng đến stress của kiểm toán viên Việt Nam. - Giả thuyết 6: Stress của kiểm toán viên ảnh hưởng đến hành vi làm giảm chất lượng kiểm toán. 2.6.2. Mô hình nghiên cứu Mô hình nghiên cứu xác lập các yếu tố ảnh hưởng đến stress của kiểm toán viên và mối quan hệ giữa stress và hành vi làm giảm chất lượng kiểm toán của kiểm toán viên Việt Nam. 9
  12. Tiểu kết chương 2 Chương 2 đã cung cấp cơ sở lý luận về stress của kiểm toán viên, bao gồm khái niệm, biểu hiện, đặc điểm nghề nghiệp và các yếu tố ảnh hưởng. Việc hiểu rõ các khía cạnh này giúp nhận diện và quản lý stress hiệu quả, đảm bảo chất lượng công việc và sức khỏe tinh thần của kiểm toán viên. 10
  13. Chương 3 TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Tổ chức nghiên cứu 3.1.1. Địa bàn và khách thể khảo sát Địa bàn khảo sát: Nghiên cứu tập trung vào ngành kiểm toán độc lập tại Việt Nam, đặc biệt tại hai trung tâm kinh tế lớn là TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội. Đây là những khu vực có số lượng và quy mô công ty kiểm toán lớn nhất cả nước, phản ánh rõ nét bức tranh tổng quan của ngành kiểm toán độc lập tại Việt Nam. Khách thể khảo sát: Tổng cộng 923 kiểm toán viên đã được mời tham gia, với 906 phiếu phản hồi hợp lệ, chiếm tỷ lệ 98.27%. Bảng 3.1. Đặc điểm của khách thể được khảo sát Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ % Nam 247 27,26 Giới tính Nữ 655 72,30 Khác 4 0,44 20-30 539 59,49 31-40 320 35,32 Độ tuổi 41-50 39 4,30 > 50 8 0,88 Độc thân 523 57,73 Tình trạng hôn nhân Lập gia đình 379 41,83 Ly thân 4 0,44 Đến 5 năm 580 64,02 6 - 10 năm 247 27,26 Số năm kinh nghiệm 11 - 15 năm 49 5,41 Trên 15 năm 30 3,31 Trợ lý 406 44,81 Nhóm trưởng 387 42,72 Vị trí công việc Trưởng phòng 84 9,27 Giám đốc 29 3,20 Loại công ty kiểm Big 4 87 9,60 toán Non-Big 4 819 90,40 Tổng cộng 906 100 3.1.2. Các giai đoạn nghiên cứu 3.1.2.1.Giai đoạn chuẩn bị nghiên cứu: - -Nghiên cứu tài liệu - -Thiết kế công cụ nghiên cứu thực tiễn 11
  14. - Chuẩn bị địa bàn khảo sát: Tiếp cận và liên hệ với các công ty kiểm toán và Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA). 3.1.2.2.Giai đoạn khảo sát chính thức: - Địa bàn khảo sát: Thực hiện tại TP. Hồ Chí Minh và TP. Hà Nội, tập trung vào 55 công ty kiểm toán. - Khảo sát định tính: Phỏng vấn sâu với 6 kiểm toán viên để thu thập thông tin chi tiết về stress trong công việc. - Khảo sát định lượng: Sử dụng bảng hỏi để thu thập dữ liệu từ 906 kiểm toán viên. - Bảng hỏi: + Phần 1: Đánh giá mức độ stress và các yếu tố tác động. + Phần 2: Ảnh hưởng của stress đến hành vi làm giảm chất lượng kiểm toán. 3.1.2.3.Giai đoạn xử lý số liệu khảo sát: Thống kê mô tả nhằm đánh giá độ tin cậy của thang đo, phân tích nhân tố khám phá (EFA), kiểm định sự tương quan và phân tích hồi quy đa biến. 3.1.2.4.Giai đoạn phân tích số liệu và viết luận án: Xử lý và phân tích số liệu: Sử dụng SPSS để phân tích dữ liệu định lượng và định tính. Viết luận án: Bao gồm phần mở đầu, 4 chương chính, kết luận và đề xuất kiến nghị. 3.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu; - Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi; - Phương pháp phỏng vấn sâu; - Phương pháp khảo sát bảng hỏi; - Phương pháp trắc nghiệm; - Phương pháp phân tích trường hợp điển hình; - Phương pháp thống kê toán học. Tiểu kết Chương 3 Chương 3 trình bày chi tiết về quy trình tổ chức nghiên cứu, cách thức thu thập và phân tích dữ liệu. Nghiên cứu sử dụng nhiều phương pháp để đảm bảo tính chính xác và toàn diện, cung cấp cái nhìn sâu sắc về stress trong ngành kiểm toán. Kết quả thu được sẽ hỗ trợ cho việc phát triển các giải pháp giảm thiểu stress cho kiểm toán viên. 12
  15. Chương 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN STRESS CỦA KIỂM TOÁN VIÊN 4.1. Thực trạng chung về stress của kiểm toán viên 4.1.1. Đánh giá chung thực trạng stress của kiểm toán viên Có 527/906 kiểm toán viên (58,17%) rơi vào trạng thái stress “Nguy hiểm” về mặt sinh lý cơ thể, cho thấy áp lực công việc cực kỳ cao. Điểm trung bình stress tổng hợp đạt 3,22 (trên thang 5), phản ánh áp lực đáng kể và chênh lệch giữa các khía cạnh. Stress sinh lý (liên quan đến cơ thể) cao nhất (4,24), kế đến là stress cảm xúc (4,02) và stress giấc ngủ (3,47). Ở mức stress “Cao”, hành vi chịu ảnh hưởng nhiều nhất (39,18%), trong khi mức “Rất cao” ghi nhận cảm xúc bị tác động mạnh (18,32%). Phân tích tương quan khẳng định các khía cạnh stress tương tác chặt chẽ (r cao nhất = 0,576 giữa stress sinh lý và stress cảm xúc), thể hiện vòng xoáy tiêu cực nếu không được quản lý. Kết quả cho thấy việc hỗ trợ đồng thời về thể chất, giấc ngủ, cảm xúc và nhận thức là then chốt để giảm stress. 4.1.2. Đánh giá chung thực trạng stress của kiểm toán viên theo biến số 4.1.2.1. Theo độ tuổi: Nhóm kiểm toán viên 20–30 tuổi có tỷ lệ stress ở mức “Cao” và “Rất cao” lần lượt là 62,13% và 68,39%, trong khi tỷ lệ “Nguy hiểm” cũng đạt 58,13%. Khác biệt rõ nhất tập trung ở stress sinh lý cơ thể, nơi nhóm này chịu áp lực nặng nề hơn hẳn các nhóm tuổi lớn hơn. 4.1.2.2. Theo giới tính: Nữ giới thường đối mặt với stress cao hơn nam, đặc biệt ở mức “Cao” (70,43%) và “Rất cao” (73,58%). Tuy nhiên, nam có xu hướng chịu stress hành vi nhiều hơn (Mean 2,60 so với 2,39 ở nữ). Điều này gợi ý rằng khác biệt giới chủ yếu thể hiện rõ ở khía cạnh hành vi. 4.1.2.3. Theo vị trí công việc/cấp bậc: “Trợ lý” và “Nhóm trưởng” có tỷ lệ stress “Cao” đáng kể, lần lượt 52,16% và 38,21%. Ngược lại, cấp bậc cao hơn (Phó Giám đốc, Giám đốc) ít báo cáo stress “Cao” hay “Rất cao”. Tuy vậy, không thấy chênh lệch đáng kể về stress sinh lý, giấc ngủ, cảm xúc hay nhận thức theo vị trí công việc. 4.1.2.4. Theo tình trạng hôn nhân: Kiểm toán viên độc thân có xu hướng báo cáo stress “Cao”, “Rất cao” và “Nguy hiểm” với tỷ lệ thường trên 58%, cao hơn so với những người đã lập gia đình. Phân tích sâu cho thấy sự khác biệt tập trung ở stress sinh lý cơ thể, cảm xúc và nhận thức, gợi ý cần quan tâm thêm đến hỗ trợ tâm lý cho nhóm độc thân. 4.2. Biểu hiện cụ thể stress của kiểm toán viên 4.2.1. Thực trạng stress của kiểm toán viên về thực thể 13
  16. 4.2.1.1. Thực trạng chung stress của kiểm toán viên về cơ thể: Kết quả nghiên cứu cho thấy kiểm toán viên gặp hàng loạt biểu hiện stress thể chất, như đau đầu, mệt mỏi, đau lưng, rối loạn đường ruột, hay căng cơ. Thói quen ăn uống kém (không ăn sáng, thiếu kế hoạch dinh dưỡng) và ít vận động cũng góp phần làm trầm trọng hơn các triệu chứng này. Giá trị trung bình cao ở các mục về đau nhức (3,25–3,39) nhấn mạnh mối liên hệ mật thiết giữa stress và sức khỏe thể chất. 4.2.1.2. Thực trạng chung stress của kiểm toán viên về giấc ngủ: Qua phân tích dữ liệu, có 444 kiểm toán viên (48,90%) gặp khó ngủ hoặc mất ngủ mức “Cao” trở lên (ĐTB 2,92). Nhiều người phải dùng thuốc an thần hoặc bài thuốc dân gian (ĐTB 1,87). Đặc biệt, 3,11 là mức trung bình cao nhất cho biểu hiện “Vẫn mệt mỏi dù ngủ nhiều”, cho thấy giấc ngủ không giúp kiểm toán viên phục hồi đủ về thể chất lẫn tinh thần. 4.2.1.3. Mức độ stress của kiểm toán viên về thực thể: Có 58,17% kiểm toán viên báo cáo stress thể chất ở mức “Nguy hiểm”, trong khi “Cao” và “Rất cao” chiếm tổng cộng 34,33%. Chỉ 7,51% ở mức “Thấp” hoặc “Trung bình”, cho thấy áp lực công việc ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe của đa số kiểm toán viên. 4.2.1.4. Mức độ stress của kiểm toán viên về thực thể so sánh theo biến số - Theo giới tính: Phụ nữ chiếm tỷ lệ cao hơn ở hầu hết các mức độ (Bảng 4.9), đặc biệt “Nguy hiểm” chiếm 72,68% so với 26,76% nam. - Theo độ tuổi: Nhóm 20–30 và 31–40 báo cáo nhiều trường hợp stress “Nguy hiểm” (Bảng 4.10). - Theo vị trí công tác: “Trợ lý” có tỷ lệ stress “Nguy hiểm” cao (45,92%), “Nhóm trưởng” xấp xỉ 41,56%. Trưởng phòng giảm đáng kể (8,92%), nhưng vị trí quản lý cao nhất (Phó GĐ, GĐ) lại có stress “Nguy hiểm” tăng nhẹ (2,28% và 1,33%), chủ yếu do trách nhiệm lớn (Bảng 4.11). - Theo tình trạng hôn nhân: Người độc thân có mức “Nguy hiểm” 58,63%, cao hơn hẳn so với 40,61% ở người đã lập gia đình (Bảng 4.12). 4.2.2. Thực trạng stress của kiểm toán viên về nhận thức 4.2.2.1. Đánh giá chung thực trạng stress của kiểm toán viên về nhận thức: Biểu hiện phổ biến là né tránh suy nghĩ (“Tôi không muốn nghĩ…”), nghi ngờ bản thân, và áp lực hoàn hảo. Một số ý kiến như “Tôi không thích bản thân mình” (ĐTB 1,99) hay “Cuộc sống của tôi vô nghĩa” (1,81) phản ánh xu hướng tiêu cực khi stress nặng kéo dài. 4.2.2.2. Đánh giá chung mức độ stress của kiểm toán viên về nhận thức: Theo Bảng 4.14, 36,75% “Thấp” và 33,01% “Trung bình”, cho thấy nhiều 14
  17. kiểm toán viên duy trì quan điểm khá tích cực. Tuy nhiên, 26,71% vẫn nằm ở “Cao” đến “Nguy hiểm”, đòi hỏi can thiệp kịp thời. 4.2.2.3. Mức độ stress của kiểm toán viên về nhận thức theo biến số - Theo giới tính: Nữ vẫn chiếm tỷ lệ cao hơn ở các mức độ “Cao” và “Nguy hiểm” (Bảng 4.15), gợi ý áp lực liên quan đến giới tính. - Theo độ tuổi: Người trẻ (20–30) báo cáo mức độ “Cao” và “Nguy hiểm” nhiều hơn (Bảng 4.16). - Theo vị trí công tác: “Trợ lý” thường có tỷ lệ stress cao nhưng vẫn duy trì quan điểm tích cực. Cấp bậc càng cao (Trưởng phòng, Giám đốc) có áp lực quản lý lớn hơn (Bảng 4.17). - Theo tình trạng hôn nhân: Nhóm độc thân cảm nhận stress nhận thức cao hơn, đặc biệt ở mức “Cao” (64,48%) (Bảng 4.18). 4.2.3. Thực trạng stress của kiểm toán viên về cảm xúc 4.2.3.1. Đánh giá thực trạng stress của kiểm toán viên về cảm xúc: Bảng 4.19 nêu các biểu hiện: từ tránh chia sẻ cảm xúc, lo lắng, khó kiểm soát cơn giận, đến không lạc quan về tương lai. ĐTB cao ở những mục về lo lắng (khoảng 2,86–3,04) và khả năng bộc phát cảm xúc tiêu cực. 4.2.3.2. Đánh giá chung mức độ stress của kiểm toán viên về cảm xúc: Có 51,66% kiểm toán viên đạt mức “Nguy hiểm” (Bảng 4.20), cho thấy tác động nặng nề đến cảm xúc. “Cao” và “Rất cao” cộng lại xấp xỉ 35,65%. Rõ ràng, stress cảm xúc là vấn đề nghiêm trọng của ngành. 4.2.3.3. Mức độ stress của kiểm toán viên về cảm xúc theo biến số - Theo giới tính: Nữ chiếm đa số trong các mức “Cao”, “Rất cao” và “Nguy hiểm” (70% trở lên), phản ánh áp lực đặc thù cho phụ nữ (Bảng 4.21). - Theo độ tuổi: Nhóm 20–40 chịu áp lực cảm xúc cao nhất (Bảng 4.22). - Theo vị trí công tác: “Trợ lý” và “Nhóm trưởng” stress “Cao” và “Nguy hiểm” chiếm tỷ lệ lớn, trong khi cấp bậc cao hơn có xu hướng giảm (Bảng 4.23). - Theo tình trạng hôn nhân: Người độc thân báo cáo stress “Nguy hiểm” lên đến 61,11% (Bảng 4.24), cho thấy gánh nặng tinh thần lớn hơn do thiếu hỗ trợ gia đình. 4.2.4. Thực trạng stress của kiểm toán viên về hành vi 4.2.4.1. Đánh giá chung thực trạng stress của kiểm toán viên về hành vi: Bảng 4.25 cho thấy nhiều kiểm toán viên làm việc ngoài giờ, mang việc về nhà (ĐTB 3,71–3,76). Một số dùng rượu bia, thuốc an thần để giảm căng thẳng, hoặc tỏ ra dễ nóng giận. Sự khác biệt lớn (ĐLC cao) chứng tỏ mức độ cá nhân hóa trong cách đối phó stress. 15
  18. 4.2.4.2. Đánh giá mức độ stress của kiểm toán viên về hành vi: 39,18% ở mức “Trung bình” (Bảng 4.26) cho thấy phần đông vẫn kiểm soát được hành vi, nhưng 28,48% “Cao”, 6,18% “Rất cao” và 7,62% “Nguy hiểm” cảnh báo nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống cá nhân và hiệu suất công việc. 4.2.4.3. Thực trạng stress của kiểm toán viên về hành vi theo biến số: - Theo giới tính: Phụ nữ vẫn chiếm tỷ lệ cao ở hầu hết các mức độ stress, nhưng nam giới có xu hướng thể hiện stress rõ ở mức “Rất cao” và “Nguy hiểm” hơn (Bảng 4.27). - Theo độ tuổi: Người trẻ (20–30) và 31–40 dễ bị stress hành vi hơn, có thể do áp lực phát triển sự nghiệp (Bảng 4.28). - Theo vị trí công tác: “Trợ lý” và “Nhóm trưởng” trải nghiệm stress hành vi cao hơn, “Trưởng phòng” và lãnh đạo cấp cao ít hơn nhưng vẫn có những áp lực từ quyết định chiến lược (Bảng 4.29). - Theo tình trạng hôn nhân: Người độc thân gánh tỷ lệ “Cao” và “Nguy hiểm” nhiều hơn (Bảng 4.30), nhấn mạnh nhu cầu hỗ trợ phù hợp cho nhóm này. Như vậy, ở cả bốn khía cạnh (thực thể, nhận thức, cảm xúc và hành vi) stress của kiểm toán viên chịu tác động từ giới tính, độ tuổi, vị trí công tác và tình trạng hôn nhân. Áp lực đặc biệt cao với nhóm nữ, người trẻ mới vào nghề, độc thân và những vị trí trung cấp quản lý đội nhóm. 4.3. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến stress của kiểm toán viên Nghiên cứu sử dụng các thang đo đã được kiểm định độ tin cậy bằng Cronbach’s Alpha, tất cả đều trên 0,6 (từ 0,672 đến 0,911). Kết quả phân tích EFA cho nhóm biến độc lập (26 thang đo) cho thấy bốn yếu tố chính, gồm “Áp lực nghề nghiệp” (kết hợp áp lực công việc và áp lực thời gian), “Sự mơ hồ và xung đột”, “Hành vi lãnh đạo” và “Mẫu hành vi Loại A”. Thang đo biến phụ thuộc (stress) và biến phụ thuộc hệ quả (hành vi làm giảm chất lượng kiểm toán) đều rút trích được một nhân tố duy nhất, giải thích lần lượt 61,176% và 74,020% tổng phương sai. Kiểm định tương quan Pearson chỉ ra “Áp lực nghề nghiệp” (r = 0,235), “Sự mơ hồ và xung đột” (r = –0,163) và “Hành vi lãnh đạo” (r = – 0,138) có tương quan đáng kể với stress; riêng “Mẫu hành vi Loại A” không có ý nghĩa thống kê (Sig. = 0,367). Hồi quy đa biến xác nhận ba yếu tố đầu có ảnh hưởng đến stress, trong đó “Áp lực nghề nghiệp” liên quan cùng chiều (β = 0,256, Sig. < 0,01), còn “Sự mơ hồ và xung đột” (β = – 0,197, Sig. < 0,01) và “Hành vi lãnh đạo” (β = –0,075, Sig. < 0,05) tác động ngược chiều. Đáng chú ý, stress liên hệ thuận chiều với hành vi làm giảm chất lượng kiểm toán (β = 0,338, Sig. < 0,01); nếu stress tăng 1 đơn vị, hành vi bất lợi này tăng 0,338 đơn vị. 16
  19. Kết quả kiểm định giả thuyết cho thấy: H12 (áp lực nghề nghiệp), H3 (sự mơ hồ và xung đột), H4 (hành vi lãnh đạo) và H6 (stress → hành vi làm giảm chất lượng kiểm toán) được chấp nhận; H5 (mẫu hành vi Loại A) bị bác bỏ. Như vậy, “Áp lực nghề nghiệp” đóng vai trò chính gây stress, “Sự mơ hồ và xung đột” và “Hành vi lãnh đạo” có thể làm giảm stress, còn “Mẫu hành vi Loại A” không tạo ra khác biệt. Stress khi gia tăng sẽ dẫn đến nguy cơ làm giảm chất lượng kiểm toán. 4.3.1. Đánh giá độ tin cậy của thang đo Toàn bộ thang đo (biến độc lập, phụ thuộc, phụ thuộc hệ quả) đều có hệ số Cronbach’s Alpha ≥ 0,6, hệ số tương quan biến tổng đều > 0,3. Cụ thể, “Áp lực công việc (ALCV)” đạt 0,768; “Áp lực thời gian (ALTG)” 0,672; “Sự mơ hồ và xung đột (SMH&XĐ)” 0,887 (loại 1 biến), “Hành vi lãnh đạo (HVLĐ)” 0,905, “Mẫu hành vi Loại A (HVLA)” 0,838, “Stress” 0,836 và “Hành vi làm giảm chất lượng kiểm toán (CLKT)” 0,911. Kết quả này khẳng định tính nhất quán nội tại của các thang đo, đủ điều kiện đưa vào phân tích nhân tố. 4.3.2. Phân tích nhân tố khám phá các biến độc lập (EFA) Với 26 thang đo (cho các biến độc lập), kiểm định KMO = 0,897 (> 0,5) và Bartlett’s Test Sig. = 0,000, chứng tỏ dữ liệu phù hợp phân tích EFA. Phương sai trích đạt 61,333%, nghĩa là 4 nhân tố chính giải thích 61,333% biến thiên. Dựa trên ma trận xoay, các thang đo tụ thành bốn nhóm: - “Áp lực nghề nghiệp” (kết hợp ALCV và ALTG); - “Sự mơ hồ và xung đột” (SMH&XĐ); - “Hành vi lãnh đạo” (HVLĐ); - “Mẫu hành vi Loại A” (HVLA). Hai thang đo (ALTG1, HVLA2) bị loại do không đạt yêu cầu tải nhân tố. Như vậy, bốn yếu tố độc lập cuối cùng đảm bảo giá trị hội tụ và phân biệt. 4.3.3. Phân tích nhân tố khám phá biến phụ thuộc và biến phụ thuộc hệ quả Kiểm định KMO cho “Stress” (0,814) và “Hành vi làm giảm chất lượng kiểm toán” (CLKT) (0,845) đều > 0,5; Sig. Bartlett = 0,000. Mỗi nhóm chỉ rút trích 1 nhân tố, giải thích lần lượt 61,176% (Stress) và 74,020% (CLKT) biến thiên dữ liệu. Các hệ số tải (0,769–0,802 cho Stress; 0,701–0,929 cho CLKT) cũng vượt ngưỡng 0,5. Điều này xác nhận thang đo các khía cạnh của Stress (sinh lý, giấc ngủ, hành vi, cảm xúc, nhận thức) và CLKT (5 biểu hiện) đều ổn định, hợp lệ. 17
  20. Bảng 4.42 - Kết quả kiểm định KMO & Bartlet biến phụ thuộc Biến Biến phụ Kiểm định KMO và Bartlett phụ thuộc hệ (KMO and Bartlett's Test) thuộc quả Hệ số Kaiser-Meyer-Olkin về Độ thích hợp của Mẫu 0,814 0,845 (Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy) Kiểm định Giá trị gần đúng của Chi-bình 1718,92 Bartlett phương 3680,571 6 (Bartlett's (Approx, Chi-Square) Test of df 10 10 Sphericity) Sig, 0,000 0,000 4.3.4. Kiểm định tương quan Phân tích Pearson cho thấy “Áp lực nghề nghiệp” (r = 0,235), “Sự mơ hồ và xung đột” (r = –0,163) và “Hành vi lãnh đạo” (r = –0,138) tương quan có ý nghĩa với Stress. “Mẫu hành vi Loại A” (r = 0,030, Sig. = 0,367) không có ý nghĩa thống kê. Riêng Stress có tương quan dương mạnh (r = 0,338) với CLKT. Kết quả Sig. < 0,01/0,05 xác nhận độ tin cậy 99% hoặc 95%. 4.3.5. Phân tích mô hình hồi quy tuyến tính đa biến Hồi quy Stress lên bốn yếu tố: Áp lực nghề nghiệp, Sự mơ hồ & xung đột, Hành vi lãnh đạo, và Mẫu hành vi Loại A, cho thấy: - “Áp lực nghề nghiệp” (β = 0,256, Sig. = 0,000) tác động cùng chiều; - “Sự mơ hồ và xung đột” (β = –0,197, Sig. = 0,000) và “Hành vi lãnh đạo” (β = –0,075, Sig. = 0,048) tác động ngược chiều; - “Mẫu hành vi Loại A” (β = 0,071, Sig. = 0,051) chưa đủ ý nghĩa 95% nhưng đạt 90%. Khi hồi quy CLKT (hành vi làm giảm chất lượng) theo Stress, hệ số β = 0,338 (Sig. = 0,000), thể hiện stress tăng sẽ làm CLKT tăng 0,338 đơn vị. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1