intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Tuyển dụng công chức tại Bộ Tư pháp

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

5
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm đánh giá thực trạng và chỉ ra những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân dẫn đến những vướng mắc trong hoạt động TDCC trên thực tiễn tại Bộ Tư pháp. Qua đó, tác giả đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động TDCC tại Bộ Tư pháp trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Tuyển dụng công chức tại Bộ Tư pháp

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ --------/-------- -----/----- HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC TẠI BỘ TƯ PHÁP Ngành: Quản lý công Mã số: 8 34 04 03 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG HÀ NỘI – 2023
  2. Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐINH DUY HÒA Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Thị Vân Hương Học viện Hành chính Quốc gia Phản biện 2: TS. Tạ Ngọc Hải Nguyên Phó Viện trưởng - Bộ Nội vụ Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: Phòng 7A nhà G Hội trường bảo vệ Luận văn Thạc sĩ Học viện Hành chính Quốc gia Số: 77, Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội Thời gian: vào hồi 9h45 ngày 09 tháng 01 năm 2024 Có thể tìm hiểu luận văn tại thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên Cổng thông tin điện tử của Ban QLĐT Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy rằng: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém, có cán bộ tốt thì việc gì cũng xong” và nếu như cán bộ có yếu kém thì chúng ta làm việc gì cũng sẽ hỏng [20]. Hiện nay, trước sự phát triển của nền kinh tế theo hướng hội nhập quốc tế, vấn đề xây dựng và phát triển đội ngũ công chức luôn được xem là yếu tố đặt lên hàng đầu trong nền hành chính nhà nước. Do đó, để đáp ứng được nhu cầu thực tiễn cũng như thúc đẩy nền hành chính nhà nước nói chung và hoạt động công vụ nói riêng thì việc nâng cao chất lượng đội ngũ công chức là yêu cầu cần thiết. Bởi lẽ đội ngũ công chức có tốt về chuyên môn cũng như kỹ năng thì hiệu quả công việc mới cao, chất lượng công việc mới đạt yêu cầu đặt ra. Có thể thấy, đội ngũ công chức luôn được xem là nhân tố quyết định cho sự thành bại của nền hành chính quản lý nhà nước vững mạnh, đồng thời cũng là yếu tố đảm bảo cho nền công vụ đạt hiệu lực, hiệu quả. Công tác TDCC được xem là khâu đầu tiên và cũng là quan trọng nhất để lựa chọn tìm kiếm được nguồn nhân lực có chất lượng. Tuy nhiên, do chưa có sự quan tâm đúng mức nên các cơ quan nhà nước tại Việt Nam vẫn chưa thực sự tuyển chọn, tim kiếm được nguồn nhân lực có năng lực và tài năng. Vấn đề cấp bách hiện nay là phải có một chiến lược mới về nguồn nhân lực làm việc trong các cơ quan nhà nước để khắc phục những tồn tại, hạn chế hiện nay; đồng thời, điều này cũng sẽ góp phần xây dựng công cuộc đổi mới, phát triển của đất nước cũng như trong quá trình xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số mà Việt Nam hướng tới. Nhằm bổ sung và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, trong những năm qua, Bộ Tư pháp luôn chú trọng công tác tuyển dụng cũng như thực hiện việc đổi mới công tác tuyển dụng của Bộ theo 1
  4. hướng mang tính cạnh tranh, bám sát yêu cầu của vị trí việc làm, cũng như sự chuyên biệt về tiêu chuẩn, điều kiện phù hợp với đặc thù công việc của các đơn vị thuộc Bộ. Bên cạnh đó, với vai trò là cơ quan thực hiện nhiệm vụ tham mưu cho Chính phủ trong xây dựng và thi hành pháp luật thì công tác TDCC có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xây dựng đội ngũ công chức đảm bảo chất lượng. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, vấn đề tuyển dụng cũng như việc xây dựng đội ngũ công chức có vai trò tiên quyết trong việc hướng tới xây dựng nền hành chính hiện đại, dân chủ, trong sạch. Điều này có ý nghĩa quyết định quan trọng và cần có sự nghiên cứu thực tiễn cũng như lý luận. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, hiện nay công tác TDCC trong Bộ còn một số hạn chế như các quy định việc tổ chức tuyển dụng chưa hiệu quả, công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong tuyển dụng chưa được triển khai đồng bộ;… Bên cạnh đó, đến thời điểm này đã có nhiều công trình nghiên cứu về hoạt động TDCC, nhưng để nghiên cứu về hoạt động TDCC của Bộ Tư pháp thì chưa có nhiều công trình. Do đó, học viên quyết định lựa chọn đề tài “Tuyển dụng công chức tại Bộ Tư pháp” làm đề tài Luận văn thạc sỹ của mình để nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Liên quan đến hoạt động TDCC có thể kể đến một số công trình khoa học đã được công bố, cụ thể như sau: - Phạm Hồng Thái (2004), Công vụ, công chức nhà nước, Nxb. Tư pháp, Hà Nội: Cuốn sách này trình bày về vấn đề lý luận công vụ, công chức nhà nước trên cơ sở các quy định pháp luật về công chức từ năm 1945 - 2003. - Đào Thị Thanh Thủy (2017), Các mô hình TDCC trên thế giới và định hướng ứng dụng cho Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội; - Nguyễn Quốc Hiệp (2007), Luận án tiến sĩ: “Hoàn thiện pháp luật về tuyển chọn và bổ nhiệm công chức ở nước ta”, Viện Nhà 2
  5. nước và Pháp luật: Trong luận án này, tác giả đã phân tích và đánh giá các quy định về tuyển chọn, bổ nhiệm công chức nói chung. - Tác giả Phạm Huyền Trang có bài viết “Quy trình thi tuyển công chức của Nhật Bản” đã phân tích khái quát về đội ngũ công chức của Nhật Bản; đánh giá về quy trình TDCC tại quốc gia này. - Tác giả John P.Burns and Wang Xiaoqi với tác phẩm “Civil Service Reform in China: Impacts on Civil Servants’ Behaviour”. Tác phẩm này đã đánh giá về việc cải cách hệ thống công chức tại Trung Quốc. Tuy nhiên, chưa có nhiều công trình nghiên cứu về TDCC tại Bộ Tư pháp trong giai đoạn hiện nay, vì vậy, với mong muốn có những hiểu biết sâu sắc về công tác TDCC tại Bộ Tư pháp, qua đó, đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động này tại Bộ Tư pháp, tác giả xin tìm hiểu rõ hơn với đề tài: “Tuyển dụng công chức tại Bộ Tư pháp”. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm đánh giá thực trạng và chỉ ra những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân dẫn đến những vướng mắc trong hoạt động TDCC trên thực tiễn tại Bộ Tư pháp. Qua đó, tác giả đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động TDCC tại Bộ Tư pháp trong thời gian tới. 4. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là TDCC tại Bộ Tư pháp. 5. Phạm vi nghiên cứu Với đối tượng nghiên cứu được nêu trên, luận văn của học viên sẽ chỉ tập trung vào phạm vi nghiên cứu như sau: - Phạm vi về nội dung, đề tài tập trung nghiên cứu tại Bộ Tư pháp. - Phạm vi về không gian, đề tài tập trung nghiên cứu việc TDCC tại Bộ Tư pháp, không mở rộng sang việc TDCC tại các cơ quan, tổ chức khác ở Việt Nam. - Phạm vi về thời gian, đề tài tập trung nghiên cứu việc TDCC tại Bộ Tư pháp từ năm 2018 đến năm 2023. 3
  6. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu - Phân tích cơ sở lý luận về công chức và TDCC; - Đánh giá về thực trạng TDCC tại Bộ Tư pháp; - Đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả, chất lượng TDCC tại Bộ Tư pháp trong thời gian tới. 7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận: Luận văn sẽ tiếp cận đối tượng nghiên cứu dựa trên những luận giải khoa học theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản và pháp luật của Nhà nước Việt Nam về TDCC. Về các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp quy nạp, Phương pháp so sánh pháp luật, Phương pháp phân tích và tổng hợp 8. Những đóng góp mới về khoa học và thực tiễn của luận văn. Về mặt lý luận, Luận văn sẽ làm phong phú thêm cơ sở lý luận liên quan đến công chức và TDCC tại Việt Nam hiện nay. Đồng thời, Luận văn sẽ đưa ra các nội dung về đánh giá hoạt động TDCC tại Bộ Tư pháp. Từ đó, tác giả đưa ra những đề xuất, kiến nghị để góp phần hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công tác TDCC nói chung và tại Bộ Tư pháp nói riêng. Về mặt thực tiễn, dựa trên các cơ sở về lý luận, đề tài cũng đưa ra những giải pháp phù hợp với thực tiễn TDCC tại Bộ Tư pháp nhằm khắc phục những thiếu sót, vướng mắc và nâng cao chất lượng của hoạt động TDCC tại Bộ Tư pháp. 9. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận về tuyển dụng công chức Chương 2. Thực trạng thực hiện việc tuyển dụng công chức tại Bộ Tư pháp Chương 3. Phương hướng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả trong tuyển dụng công chức tại Bộ Tư pháp 4
  7. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC 1.1. Công chức và tuyển dụng công chức 1.1.1. Khái niệm công chức Trong cuốn sách: “Nền công vụ công chức” của Viện Khoa học pháp lý xuất bản năm 1992 [36] đã chỉ rõ: Công chức là những người làm việc chuyên môn có tính chất lâu dài và ổn định trong bộ máy nhà nước. Tác giả Tô Tử Hạ trong cuốn “Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay” đã từng đưa ra quan điểm rằng: Công chức được hiểu là những người làm việc trong cơ quan nhà nước Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật CBCC năm 2008 và Luật Viên chức năm 2019 đã có khái niệm mới về công chức khi thu hẹp về phạm vi đối tượng để được coi là công chức. Theo đó, đối tượng là lãnh đạo đơn vị sự nghiệp công lập không còn là công chức. Quy định này là nhằm thể chế hóa chủ trương “không thực hiện chế độ công chức trong đơn vị sự nghiệp công lập (trừ các đơn vị phục vụ nhiệm vụ chính trị và phục vụ quản lý nhà nước)” của Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII. Từ các nội dung phân tích trên, có thể hiểu công chức là công dân Việt Nam; được bổ nhiệm vào ngạch, chức danh, chức vụ; nằm trong biên chế và được hưởng lương từ nguồn ngân sách nhà nước; được làm việc trong các cơ quan, tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam. 1.1.2. Khái niệm tuyển dụng công chức Tác giả Trần Thị Minh Châu đưa ra khái niệm TDCC là: “TDCC là một hoạt động của cơ quan Nhà nước, dựa trên cơ sở những quy định của pháp luật thì các cơ quan nhà nước có nhu cầu 5
  8. tiến hành tìm kiếm, lựa chọn những người thích hợp để tuyển vào cơ quan để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của cơ quan nhà nước”. Theo Luật CBCC năm 2008 (SĐBS năm 2019) và Nghị định số 138/2020/NĐ-CP đã quy định về căn cứ của việc TDCC đó là trên cơ sở yêu cầu của chỉ tiêu biên chế được giao và vị trí việc làm, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước. Khi có nhu cầu TDCC thì cơ quan cần xác định chỉ tiêu, vị trí việc làm cần tuyển. Tiếp đó thực hiện việc tổng hợp, báo cáo người có thẩm quyền để phê duyệt chỉ tiêu và ban hành Kế hoạch tuyển dụng theo quy định. Việc TDCC được thực hiện theo hình thức đó là: (i) thi tuyển; (ii) xét tuyển; và (iii) tiếp nhận vào làm công chức. Tùy thuộc vào từng đối tượng tuyển dụng và nhu cầu tuyển dụng mà cơ quan quản lý công chức lựa chọn các hình thức tuyển dụng phù hợp. Từ các nội dung phân tích trên, có thể hiểu, TDCC là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông qua việc tìm kiếm, lựa chọn và chấp nhận một người có nhu cầu, nguyện vọng được làm việc trong các cơ quan nhà nước sau khi đã xác nhận người đó đáp ứng được đầy đủ các tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của pháp luật để bổ nhiệm vào một ngạch công chức theo vị trí việc làm cần tuyển. TDCC nhằm mục tiêu bổ nhiệm vào ngạch công chức để thừa hành nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho công chức. Vì vậy, TDCC được thực hiện theo một thủ tục và quy trình chặt chẽ theo quy định của pháp luật. 1.2. Vai trò của tuyển dụng công chức Thứ nhất, TDCC là cơ sở hình thành nên cơ cấu tổ chức để vận hành hoạt động của bộ máy nhà nước từ cấp trung ương đến cấp địa phương Thứ hai, TDCC tạo ra nguồn nhân lực chất lượng để thực thi hoạt động công vụ trong bộ máy nhà nước Thứ ba, TDCC là một kênh quan trọng để bổ sung nguồn nhân lực công từ ngoài xã hội 6
  9. 1.3. Thẩm quyền và quy trình tuyển dụng công chức 1.3.1. Thẩm quyền tuyển dụng công chức Theo quy định tại khoản 1 Điều 39 Luật CBCC năm 2008 (SĐBS năm 2019) [29], thẩm quyền TDCC thuộc về các cơ quan, cụ thể: (i) Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước; (ii) Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước; (iii) Các Bộ/ cơ quan ngang Bộ, Cơ quan thuộc Chính phủ, Tổ chức do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ thành lập không phải là đơn vị sự nghiệp công lập; (iv) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; (v) Cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Cơ quan trung ương của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của tổ chức chính trị - xã hội. 1.3.2. Trình tự, thủ tục tuyển dụng công chức Trình tự và thủ tục trong TDCC luôn luôn cần thực hiện đúng các nguyên tắc về công khai, minh bạch; đảm bảo sự đồng bộ cũng như phù hợp với thực tiễn. Đặc biệt, các quy trình thực hiện phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Hiện nay, Luật CBCC năm 2008 (SĐBS năm 2019), Nghị định số 138/2020/NĐ-CP và Thông tư số 06/2020/TT-BNV ngày 02/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ quy định về trình tự và thủ tục trong TDCC. 1.3.3. Quy định về kiểm định chất lượng đầu vào công chức Trước đây, trong quy trình TDCC hoạt động mang tính kiểm định về chất lượng đầu vào sẽ do các cơ quan TDCC thực hiện trên cơ sở văn bằng, chứng chỉ và hồ sơ của thí sinh mà chưa có hoạt động sàng lọc, lựa chọn thí sinh trước khi đánh giá năng lực chyên môn. Điều này sẽ dẫn đến một thực trạng là nhiều sinh không có đủ điều kiện về kiến thức cũng như kỹ năng vẫn đủ điều kiện tham gia TDCC dẫn đến sự lãng phí trong nguồn lực tổ chức kỳ thi cũng như thời gian, cơ hội để tìm kiếm những nghề nghiệp phù hợp. Do đó, 7
  10. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2023/NĐ-CP ngày 21/02/2023 quy định về KĐCLĐVCC. Nghị định này áp dụng đối với việc KĐCLĐVCC đối với người đăng ký TDCC thông qua hình thức thi tuyển. Hoạt động này nhằm mục tiêu đánh giá, công nhận các kiến thức nền tảng cần thiết đối với các thí sinh tham gia TDCC. Thông qua hoạt động KĐCLĐVCC công tác TDCC sẽ đảm bảo tính chính xác, khách quan, tuyển đúng người cần tuyển để nâng cao chất lượng công tác TDCC. 1.4. Các hình thức tuyển dụng công chức Hình thức TDCC được hiểu là phương thức mà cơ quan có thẩm quyền TDCC sử dụng để tìm kiếm và lựa chọn được nhân sự cho cơ quan của mình. Theo quy định của pháp luật hiện hành, hình thức TDCC bao gồm: (i) Thi tuyển; (ii) Xét tuyển; (iii) Tiếp nhận vào làm công chức. Với mỗi một hình thức tuyển dụng đều có ý nghĩa nhất định về mặt chính trị, pháp lý và xã hội. Các hình thức này được áp dụng trong TDCC nhằm tìm kiếm và phát triển đội ngũ công chức ngày càng hiện đại, chuyên nghiệp để đáp ứng hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Quy định về hình thức TDCC ngày càng đa dạng, phù hợp với bối cảnh, tình hình mới của đất nước và xu hướng cải cách nền hành chính công vụ, nhằm thu hút, tuyển chọn được nhân tài, người có năng lực, trình độ để đóng góp cho sự phát triển của bộ máy nhà nước. 1.5. Tiêu chí đánh giá tuyển dụng công chức 1.5.1. Bảo đảm tính công khai, minh bạch, khách quan và đúng pháp luật Việc TDCC phải đảm bảo tính công khai, minh bạch, khách quan và đúng pháp luật; các quy định của pháp luật về tiêu chí này được quy định tại Luật CBCC năm 2008 (SĐBS năm 2019) và các văn bản hướng dẫn thi 8
  11. hành đã quy định cụ thể, chi tiết như công khai, minh bạch về căn cứ, điều kiện, tiêu chuẩn, thẩm quyền TDCC; về ưu tiên trong tuyển dụng; về trình tự thủ tục tuyển dụng thì cơ quan có thẩm quyền TDCC phải đăng thông báo công khai ít nhất 01 lần trên một trong những phương tiện thông tin đại chúng,…; phải niêm yết công khai danh sách những người đủ điều kiện, tiêu chuẩn dự tuyển hoặc gửi thông báo bằng văn bản tới người dự tuyển không đáp ứng điều kiện, tiêu chuẩn để người đăng ký dự tuyển được biết; thông báo công khai kết quả tuyển dụng trên Trang thông tin điện tử. Đảm bảo công khai, minh bạch, khách quan và đúng pháp luật trong TDCC được xem là tiêu chí quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng công chức được tuyển chọn, tạo sự tin tưởng của xã hội trong việc tuyển chọn công chức đảm bảo theo quy định pháp luật, khắc phục tình trạng cơ quan, đơn vị tuyển dụng đưa ra điều kiện, tiêu chuẩn trái pháp luật. Đồng thời, công tác TDCC là một bước thực hiện dân chủ hóa chế độ tuyển dụng. Việc thông báo nhu cầu, tổ chức tuyển dụng,... sẽ phải đảm bảo tính công khai, minh bạch, để cho mọi người trong xã hội được tự do tham gia vào khu vực nhà nước khi có nguyện vọng. 1.5.2. Bảo đảm tính cạnh tranh Đảm bảo tính cạnh tranh trong TDCC được hiểu là cơ hội dành cho các thí sinh là như nhau, một vị trí tuyển dụng có thể có nhiều ứng viên tham dự; cơ quan có thẩm quyền tuyển dụng cần khách quan, công bằng trong tuyển dụng để lựa chọn được người ưu tú nhất, phù hợp, xứng đáng nhất vào vị trí cần tuyển. Tiêu chí đảm bảo tính cạnh tranh được xem là tiêu chí rất quan trọng, bởi lẽ, thông qua việc TDCC tạo ra sự bình đẳng rộng rãi trong xã hội. TDCC đảm bảo tính cạnh tranh tạo điều kiện cho mọi công dân nếu đủ điều kiện đều sẽ có cơ hội ngang nhau để tham gia vào khu vực nhà nước. Bên cạnh đó, hoạt động TDCC cho phép tạo ra các mối quan hệ tương tác, cân bằng hơn trong xã hội, giữa môi trường học đường với môi trường công sở; đồng thời, tận dụng được nguồn lực từ xã hội, là đầu ra của đào tạo nguồn nhân lực. Hoạt động này nếu có kết quả tốt thì 9
  12. sẽ giúp cho xã hội sử dụng các nguồn lực có sẵn được hợp lý, hiệu quả và chất lượng. Nó có thể giải quyết phần nào vấn đề việc làm trong xã hội. 1.5.3. Bảo đảm tuyển chọn đúng người đáp ứng yêu cầu của vị trí việc làm cần tuyển Những người được tuyển dụng để làm công chức trong bộ máy cơ quan nhà nước phải đảm bảo đạt đầy đủ về điều kiện và tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ phù hợp, gắn với các chức danh nghề nghiệp theo vị trí việc làm cần được tuyển dụng. Đây là một tiêu chí rất quan trọng trong TDCC, vì nếu như chọn người không phù hợp, không đáp ứng được yêu cầu của vị trí việc làm cần tuyển thì việc tuyển dụng sẽ không đạt được mục tiêu đặt ra. Bản thân người được TDCC sau khi tham gia ứng tuyển vào cá chức danh công chức đã có ý thức lựa chọn công việc phù hợp với năng lực cũng như sở thích của cá nhân. Vì vậy, nếu được tuyển dụng vào các vị trí phù hợp với năng lực của bản thân mình thì bản thân họ sẽ có nhiều động lực yêu thích hơn trong công việc của mình; từ đó tạo ra sự gắn bó lâu dài với cơ quan TDCC và có trách nhiệm hơn trong các nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, việc ý thức gắn bó với công việc của công chức cũng sẽ giúp cho cơ quan TDCC hạn chế được việc thường xuyên phải tìm kiếm, tuyển dụng công chức khi công chức nghỉ việc và cần bổ sung người cho vị trí còn thiếu. 1.6. Các yếu tố tác động đến việc tuyển dụng công chức 1.6.1. Các quy định của pháp luật trong tuyển dụng công chức Chính sách, pháp luật luôn được coi là những công cụ hữu hiệu để Đảng và Nhà nước định hướng, điều chỉnh cũng như quản lý các quan hệ liên quan đến vấn đề TDCC. Đặc biệt, pháp luật luôn được coi là công cụ quan trọng hiện hữu và là cầu nối để Nhà nước thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Pháp luật được coi là nhân tố bảo đảm và bảo vệ sự ổn định trong hoạt động TDCC, là “kim chỉ nam” cho hoạt động TDCC của cơ quan nhà 10
  13. nước. Bên cạnh đó, pháp luật cũng sẽ là cơ sở quan trọng để đảm bảo về mặt pháp lý cho các quy định được tổ chức, thực hiện một cách có hiệu quả. Mặt khác, bằng sự ghi nhận một cách chính thức các nội dung liên quan đến hoạt động TDCC sẽ là cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các ứng viên tham gia thi tuyển, cơ quan tuyển dụng cũng như lợi ích của Nhà nước. 1.6.2. Chế độ đãi ngộ dành cho công chức Các chế độ, chính sách để thu hút nguồn nhân lực như chế độ tiền lương, phúc lợi, thu nhập tăng thêm, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng,… là yếu tố quan trọng để thu hút nguồn nhân lực. Nếu có nhiều chính sách chế độ đãi ngộ tốt thì sẽ thu hút được nhiều ứng viên tham gia nộp hồ sơ dự tuyển, thuận lợi cho cơ quan tuyển dụng, có nhiều lựa chọn, để tuyển chọn được ứng viên phù hợp với vị trí theo yêu cầu vị trí công việc cần tuyển; ngược lại, chính sách đãi ngộ của cơ quan, đơn vị không phù hợp, bất cập khiến người lao động không mong muốn, không có nhu cầu dự tuyển sẽ ảnh hưởng đến số lượng người nộp hồ sơ dự tuyển và chất lượng của hoạt động tuyển dụng công chức. 1.6.3. Sự cạnh tranh trên thị trường lao động Hiện nay, trên thị trường lao động, các doanh nghiệp không những cạnh tranh về số lượng mà còn cạnh tranh cả về chất lượng của nguồn nhân lực cho mình. Điều này cũng đúng với cả các cơ quan TDCC. Nguồn nhân lực luôn được xem là tài sản quan trọng mà các cơ quan, tổ chức cần tìm kiếm, giữ gìn và phát triển. Do đó, để thực hiện được việc phát triển nguồn nhân lực, cơ quan TDCC cần có các chính sách hợp lý cũng như chế độ đãi ngộ phù hợp để thu hút được nhân tài và “giữ chân” họ cống hiến lâu dài cho cơ quan mình. Điều khó khăn nhất đối với các cơ quan trong việc TDCC là sự cạnh tranh khốc liệt của các doanh nghiệp. Vị trí việc làm ở doanh nghiệp có nhiều ưu điểm hấp dẫn, có sức hút đáng kể đối với người lao động. Chính vì lý do này mà hiện nay nhu cầu về làm việc ở khu vực tư luôn cao hơn so với khu vực công. 11
  14. 1.7. Kinh nghiệm trong tuyển dụng công chức của một số quốc gia trên thế giới và giá trị tham khảo cho Việt Nam 1.7.1. Singapore Chính sách và chủ trương trong TDCC của Singapore luôn mang tính “thu hút nhân tài”. Nguyên tắc trong TDCC của Singapore là dựa trên cơ sở trình độ, thành tích và mang tính cạnh tranh cao. Đây là quốc gia hiếm hoi trên thế giới ưu tiên và TDCC đối với cả người nước ngoài vào làm việc trong các cơ quan nhà nước. Do đó, họ đã thành lập một Ủy ban tuyển chọn tài năng với mục đích là tìm kiếm, thu hút người nước ngoài có năng lực vào làm việc trong các cơ quan nhà nước của họ. Singapore thực hiện việc TDCC dựa trên năng lực, trình độ và khả năng tạo ra sự khác biệt trong làm việc. Họ dựa vào kết quả đóng góp của nhân sự chứ không có sự phân biệt về quốc tịch. Đặc biệt, với những người lao động nước ngoài có trình độ, kỹ năng cao thì bên cạnh mức lương phù hợp với họ thì Singapore cũng có các chính sách dành cho người thân như sinh sống cùng, được nhập cư, nhập tịch tại Singapore [17]. 1.7.2. Philippines Philippines thực hiện TDCC trên tiêu chuẩn về bằng cấp, trình độ và kinh nghiệm của ứng viên. Từ những năm 2011, Philippines đã sử dụng phương thức TDCC bằng bài thi trên máy tính một cách cạnh tranh. Bên cạnh bài thi trên máy tính thì ứng viên dự tuyển thi công chức tại Philippines sẽ phải làm các bài thi trắc nghiệm về đạo đức và tâm lý. Cuối cùng, họ sẽ phải làm bài thi viết về vị trí công việc mà mình thi tuyển vào. Những ứng viên đạt điều kiện, tiêu chuẩn sẽ được Ủy ban công vụ cấp chứng chỉ đạt đủ điều kiện TDCC. Với chứng chỉ này các ứng viên có thể sử dụng để tham gia các kỳ thi phỏng vấn tại các cơ quan nhà nước [15]. 1.7.3. Nhật Bản Vào năm 1894, Nhật Bản tổ chức TDCC lần đầu và việc này được duy trì thường xuyên sau đó. Chính phủ là cơ quan chủ trì, phối hợp 12
  15. với các cơ sở đào tạo để đào tạo cá nhân có trình độ, năng lực phù hợp với yêu cầu của TDCC. Công tác TDCC sẽ do Cơ quan nhân sự quốc gia thực hiện và quy định. Các thí sinh tham gia kỳ TDCC sẽ phải làm một bài thi trắc nghiệm, một bài thi viết và phỏng vấn trực tiếp. Nếu như thí sinh vượt qua được 3 bài thi này thì Cơ quan nhân sự quốc gia sẽ gửi văn bản đạt yêu cầu đến các cơ quan nhà nước ở Trung ương có nhu cầu TDCC để các thí sinh có thể tham gia phỏng vấn. Còn đối với TDCC tại địa phương sẽ tự tổ chức thi và do Trung tâm Xây dựng đề thi của địa phương tổ chức, thực hiện [26]. 1.7.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong tuyển dụng công chức của các quốc gia trên thế giới Một là, xác định rõ TDCC theo vị trí việc làm đối với công chức ở phạm vi nào và các chức danh này sẽ hưởng lương theo ngạch, bậc. Trên cơ sở đó sẽ gắn với các điều kiện, hình thức, phương pháp và quy trình tuyển dụng với tiêu chuẩn chức danh của công chức. Về cơ bản, nội dung này sẽ vẫn được thực hiện như hiện nay do tại Việt Nam trong một thời gian dài đã áp dụng TDCC theo bậc, ngạch với tiêu chuẩn chức danh của công chức. Hai là, cần có những phương pháp và quy trình TDCC cụ thể ở các vị trí việc làm để hưởng lương theo tính chất của công việc. Đặc biệt là các vị trí đòi hỏi chuyên môn, trình độ cao của công chức để đáp ứng các yêu cầu công việc đặt ra. Mỗi vị trí việc làm sẽ phải tương ứng với một mức lương nhất định. Trong trường hợp muốn được tăng lương thì công chức phải thực hiện thi tuyển vào vị trí việc làm tương ứng, phù hợp với yêu cầu của công việc đặt ra. Ba là, đổi mới về nội dung cũng như phương thức thi tuyển công chức tại các cơ quan nhà nước của Việt Nam, trong đó việc TDCC luôn cần mang tính thu hút hơn nữa. Cần phải đề cao nguyên tắc trọng tụng những người có tài năng trong xã hội; đặt họ vào các vị trí việc làm phù hợp để từ đó tăng động lực, tinh thần và tính chuyên nghiệp cho công chức trong quá trình thực thi công vụ được giao. 13
  16. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VIỆC TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC TẠI BỘ TƯ PHÁP 2.1. Khái quát chung về Bộ Tư pháp 2.1.1. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp Ngày 28/8/1945, Nội các của Chính phủ lâm thời Việt Nam được thành lập, trong đó Bộ Tư pháp là 01 trong 12 Bộ được thành lập. Trên cơ sở đó, ngày 01/12/1945, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Nghị định số 37 về tổ chức của Bộ Tư pháp. Văn bản này cùng với nhiều Sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định hình ra cơ cấu, tổ chức và hoạt động của Bộ Tư pháp trong giai đoạn này. Về tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp, hiện nay, Bộ Tư pháp có 30 đơn vị trực thuộc, gồm 20 đơn vị hành chính giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước và 10 đơn vị sự nghiệp công lập phục vụ chức năng quản lý nhà nước của Bộ. 2.1.2. Đội ngũ công chức của Bộ Tư pháp Với chức năng, nhiệm vụ được quy định tại Nghị định số 98/2022/NĐ-CP thì hiện nay đội ngũ cán cán bộ công chức Bộ Tư pháp là những công chức hoạt động, đảm nhiệm nhiệm vụ trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm các đơn vị thuộc, trực thuộc Bộ. Chất lượng về đội ngũ công chức của Bộ ngày càng được nâng cao. 2.2. Thực trạng tuyển dụng công chức tại Bộ Tư pháp 2.2.1. Về hình thức tuyển dụng công chức tại Bộ Tư pháp Trong các kỳ TDCC vừa qua, Bộ Tư pháp luôn thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật về tuyển dụng đảm bảo công khai, minh bạch, khách quan và đúng pháp luật. Đặc biệt, trong việc TDCC tại Bộ Tư pháp luôn đảm bảo tính cạnh tranh và tuyển chọn đúng người nhằm đáp ứng yêu cầu về nhiệm vụ của vị trí việc làm cũng như ưu tiên người có tài năng, người thuộc diện chính sách hoặc người dân tộc thiểu số. Nhờ vào công tác TDCC ngày một hiệu quả mà chất 14
  17. lượng đội ngũ công chức tại Bộ Tư pháp ngày càng được củng cố, hoàn thiện, nâng cao đáp ứng các nhiệm vụ được giao, giúp Bộ hoàn thành tốt các mục tiêu đề ra. 2.2.2. Về trình tự, thủ tục và nội dung tuyển dụng công chức tại Bộ Tư pháp Việc TDCC được Bộ Tư pháp thực hiện một cách dân chủ, công khai, minh bạch, theo đúng trình tự, thủ tục đã được quy định; có sự phối hợp chặt chẽ giữa Ban cán sự Đảng, Đảng ủy và Lãnh đạo Bộ, giữa cấp ủy Đảng và Lãnh đạo các đơn vị trong quá trình thực hiện; có sự tham gia, giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội và thực hiện nghiêm Quy chế dân chủ trong cơ quan trong công tác TDCC. Các thông tin liên quan đến việc TDCC của Bộ Tư pháp đều được thực hiện công khai theo đúng các quy định của pháp luật bằng các hình thức: (i) Đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ; (ii) Niêm yết tại trụ sở cơ quan; và (iii) Đăng tải tại cơ quan báo chí. 2.3. Ưu điểm và hạn chế trong công tác tác tuyển dụng công chức tại Bộ Tư pháp 2.3.1. Ưu điểm Thứ nhất, công tác TDCC tại Bộ Tư pháp đảm bảo thực hiện công khai, minh bạch, khách quan và đúng pháp luật Thứ hai, công tác TDCC tại Bộ Tư pháp luôn đảm bảo tính cạnh tranh Thứ ba, công tác TDCC tại Bộ Tư pháp đã tuyển chọn đúng người đáp ứng yêu cầu của vị trí việc làm cần tuyển 2.3.2. Hạn chế Thứ nhất, chưa hoàn thiện bản mô tả công việc để xác định tiêu chuẩn, chức danh đối với các vị trí việc làm Thứ hai, công tác TDCC còn chưa thực sự đổi mới Thứ ba, chưa tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và thực hiện chuyển đổi số trong TDCC Thứ tư, thiếu công chức làm công tác TDCC 15
  18. 2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế Thứ nhất, các quy định của Nhà nước về TDCC đang trong quá trình đổi mới quản lý nguồn nhân lực công nên thường xuyên thay đổi, không có tính lâu dài. Theo đó, việc thi tuyển ban đầu bắt buộc đối với công chức và viên chức, sau đó lại bắt buộc chỉ đối với công chức còn viên chức thì có thể thi hoặc xét tuyển. Mới đây, Chính phủ lại ban hành Nghị định số 06/2023/NĐ-CP ngày 21/02/2023 quy định về KĐCLĐVCC. Việc thường xuyên thay đổi các quy định về TDCC cũng đã khiến cho việc tổ chức TDCC gặp nhiều khó khăn trong việc triển khai, thực hiện. Các vướng mắc trong việc tính điểm ưu tiên, việc kiểm tra chứng chỉ ngoại ngữ, chứng chỉ tin học,… trong TDCC chưa có sự đồng bộ, thống nhất trong các quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, cơ chế, chính sách đối với người có tài năng chưa thật sự thỏa đáng. Có thể thấy, hiện nay các đơn vị ngoài khu vực công luôn có sự cạnh tranh trong việc tìm kiếm nhân sự khi họ bỏ ra chi phí về chế độ lương, thưởng,… cao để thu hút nhân sự cho mình. Điều này đã thu hút người lao động khi họ cảm thấy mức lương được trả tương xứng với trình độ, chuyên môn và công sức lao động mà họ bỏ ra thay vì làm việc trong khu vực công tại các cơ quan nhà nước. Đồng thời, hiện nay pháp luật chưa có quy định cụ thể về chế tài xử phạt vi phạm hành chính trong TDCC, dẫn đến việc thiếu tính răn đe. Các hành vi vi phạm trong TDCC vẫn còn diễn ra thường xuyên và có nhiều hình thức biến tướng. Điều này sẽ gây ra hậu quả rất xấu đối với xã hội. Cơ chế kiểm tra, giám sát trong TDCC chưa đạt kết quả cao; công tác thanh tra, kiểm tra trong việc tổ chức thi tuyển, xét tuyển công chức chưa được sâu sát, thường xuyên nên còn những hiện tượng tiêu cực nhưng chưa được phát hiện, xử lý kịp thời. Thứ hai, việc xác định vị trí việc làm còn gặp nhiều khó khăn, thiếu văn bản hướng dẫn của các Bộ chuyên ngành. 16
  19. Thứ ba, Bộ Tư pháp chưa nghiên cứu xây dựng ngân hàng câu hỏi thi và đáp án thi trong TDCC đối với từng môn thi theo việc trí việc làm cũng là nguyên nhân dẫn đến những hạn chế nêu trên. Đối với những hạn chế về chứng chỉ tin học, ngoại ngữ nêu trên xảy ra do hiện nay có rất nhiều cơ sở đào tạo tổ chức thi và cấp chứng chỉ ngoại ngữ và chứng chỉ tin học, dẫn đến khó khăn khi thẩm định hồ sơ của ứng viên do Bộ Tư pháp không có thẩm quyền để kiểm tra tính hợp pháp của các cơ sở đào tạo cũng như tính hợp pháp của chứng chỉ. Thứ tư, nhận thức về việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong TDCC của lãnh đạo, công chức tại Bộ Tư pháp còn chưa cao; kinh phí cấp cho việc chuyển đổi số trong TDCC còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Thứ năm, đội ngũ công chức được giao nhiệm vụ về công tác TDCC thường xuyên phải luân chuyển nên Vụ Tổ chức cán bộ phải thực hiện tuyển dụng mới hoặc điều động công chức làm các mảng công việc khác sang thay thế. Do đó, kinh nghiệm cũng như sự chuyên sâu trong TDCC của đội ngũ này còn phần nào hạn chế nhất định. 17
  20. CHƯƠNG 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC TẠI BỘ TƯ PHÁP 3.1. Phương hướng đổi mới và nâng cao hiệu quả trong tuyển dụng công chức tại Bộ Tư pháp 3.1.1. Sự cần thiết của việc đổi mới và nâng cao hiệu quả tuyển dụng công chức tại Bộ Tư pháp Xã hội hiện nay ngày càng quan tâm đến chất lượng cũng như hiệu quả làm việc của công chức và sự minh bạch trong quá trình TDCC. Do đó, việc đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động TDCC tại Bộ Tư pháp càng trở nên cần thiết bởi các lý do sau đây: Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu cấp thiết xây dựng chế độ công vụ hiện đại Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu xây dựng đội ngũ công chức hiện đại và chuyên nghiệp Thứ ba, xuất phát từ việc lựa chọn và TDCC của Bộ Tư pháp đáp ứng yêu cầu luật định 3.1.2. Các yêu cầu của việc đổi mới và nâng cao hiệu quả trong tuyển dụng công chức tại Bộ Tư pháp Từ việc tất yếu phải nâng cao hiệu quả hoạt động TDCC của Bộ Tư pháp nêu trên cho thấy việc đổi mới và nâng cao hiệu quả về TDCC tại Bộ Tư pháp phải đáp ứng các yêu cầu như sau: Thứ nhất, phải xây dựng các quy định pháp luật hoàn chỉnh về TDCC, phải bảo đảm được sự thống nhất và hợp lý, không gây mâu thuẫn hay quy định chồng chéo, khó hiểu, khó áp dụng Thứ hai, cần xác lập, đảm bảo tính hệ thống, thống nhất, đồng bộ trong việc xây dựng pháp luật về TDCC nói chung và quy định riêng về TDCC tại Bộ Tư pháp Thứ ba, nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về vị trí, vai trò quan trọng của hoạt động TDCC tại Bộ Tư pháp trong giai đoạn hiện nay 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2