12 Tạp chí Y học dự phòng, Tập 32, số 8 Phụ bản - 2022
THỰC TRẠNG TRẦM CẢM VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở NGƯỜI NHIỄM HIV/AIDS TẠI VIỆT NAM, GIAI ĐOẠN 2012 2022
Phan Thị Thu Hương1, Lê Thị Hương2, Lê Minh Giang2, Hoàng Thị Hải Vân2,
Đường Thị Ngoan2, Nguyễn Thị Huyền Trang2*
1Cục Phòng, chống HIV/AIDS, Bộ Y tế, Hà Nội
2Trường Đại học Y Hà Nội
TÓM TẮT
Bên cạnh việc tăng cường sức khỏe thể chất bằng điều trị thuốc ARV liên tục, suốt đời thì việc được chăm
sóc, hỗ trợ sức khỏe tâm thần của người nhiễm HIV cũng là một trong những vấn đề cần được quan tâm
và can thiệp nhằm nâng cao hiệu quả điều trị cho người bệnh. Bài tổng quan hệ thống này được thực hiện
nhằm mô tả thực trạng trầm cảm và phân tích một số yếu tố liên quan của người bệnh nhiễm HIV/AIDS tại
Việt Nam, giai đoạn 2012 - 2022. Qua tìm kiếm và phân tích 11 công trình nghiên cứu về thực trạng trầm
cảm các yếu tố liên quan tại Việt Nam từ 2012 - 2022 cho thấy, tỷ lệ trầm cảm trên bệnh nhân nhiễm HIV
rất cao (trung bình trên 30%). Các yếu tố làm gia tăng tỉ lệ trầm cảm được báo cáo là sự kì thị, thu nhập
thấp, công việc không ổn định, trạng thái lo âu và các yếu tố liên quan đến điều trị HIV/AIDS như đang điều
trị bệnh khác, tác dụng phụ của thuốc ARV, các triệu chứng của bệnh HIV/AIDS. Nhận được sự hỗ trợ từ
người thân, gia đình, cộng đồng và tuân thủ điều trị tốt là các yếu tố bảo vệ người bệnh nhiễm HIV/AIDS
trước nguy cơ trầm cảm.
Từ khóa: Trầm cảm; người nhiễm HIV/AIDS; Việt Nam
*Tác giả: Nguyễn Thị Huyền Trang
Địa chỉ: Trường Đại học Y Hà Nội
Điện thoại: 0911 798 843
Email: nthtrang0701@gmail.com
Ngày nhận bài: 28/10/2022
Ngày phản biện: 14/11/2022
Ngày đăng bài: 08/12/2022
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tại Việt Nam, theo Cục Phòng, chống HIV/
AIDS, số người nhiễm HIV hiện đang còn
sống được báo cáo đến thời điểm 30/9/2021
212.769 trường hợp [1]. Trong những thập kỷ
gần đây, việc điều trị bằng thuốc ARV đã góp
phần giảm thiểu gánh nặng bệnh tật và tử vong
do HIV/AIDS, kéo dài thời gian sống cho người
bệnh. Bên cạnh việc tăng cường sức khỏe thể
chất bằng điều trị thuốc ARV liên tục, suốt đời
thì việc được chăm sóc, hỗ trợ sức khỏe tâm
thần của người nhiễm HIV cũng một trong
những vấn đề cần được quan tâm can thiệp
nhằm nâng cao hiệu quả điều trị cho họ. Các
vấn đề phổ biến thường gặp phải trầm cảm,
lo âu lạm dụng các chất gây nghiện. Trong
đó, trầm cảm là biến chứng thần kinh phổ biến
nhất bệnh nhân nhiễm HIV hạn chế đáng
kể chất lượng cuộc sống của người bệnh HIV/
AIDS [2]. Trên thế giới, rất nhiều các nghiên
cứu về sức khỏe tâm thần, đặc biệt là trầm cảm
trên người bệnh HIV/AIDS, các nghiên cứu
tổng quan cũng được tiến hành. Tỷ lệ trầm cảm
trong đời của người nhiễm HIV được ước tính
là 22 - 45% [3]. Nghiên cứu tổng quan về trầm
cảm trên người bệnh HIV/AIDS toàn cầu cho
thấy tỷ lệ trầm cảm 31%. Trong đó, tỷ lệ trầm
cảm cao nhất theo lục địa Nam Mỹ với
44% tỷ lệ thấp nhất Châu Âu với 22%
DOI: https://doi.org/10.51403/0868-2836/2022/882
TỔNG QUAN - REVIEWS
13Tạp chí Y học dự phòng, Tập 32, số 8 Phụ bản - 2022
[4], tỉ lệ người bệnh trầm cảm nặng tại Châu
Phi 15,2% [5]. Một nghiên cứu tổng quan
tại Trung Quốc cũng cho thấy tỉ lệ trầm cảm
rất cao 50,8% [6]. Tỷ lệ kỳ thị HIV cao, hỗ trợ
hội kém, tuân thủ điều trị bằng thuốc kém
sự hiện diện của các bệnh nhiễm trùng
hội giai đoạn tiến triển của AIDS làm tăng
khả năng phát triển các triệu chứng trầm cảm ở
những người nhiễm HIV [7].
Tại Việt Nam, các nghiên cứu đánh giá về
tình trạng trầm cảm người bệnh nhiễm HIV
đã được triển khai tại nhiều nơi như Nội,
TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bình Phước,
Thái Bình. Tuy nhiên, kết quả của các nghiên
cứu sự chênh lệch: Tỉ lệ trầm cảm người
bệnh HIV/AIDS ở Thành phố Hà Nội là 10,9%
[8], tỉnh Thái Bình 36,3% [9], TP. Hồ Chí
Minh 29,2% [10]... Việc xem xét, hệ thống lại
thực trạng mắc các vấn đề tâm lý nói chung
trầm cảm nói riêng tại Việt Nam sẽ cung cấp
bức tranh tổng thể giúp hỗ trợ công tác điều trị,
nâng cao chất lượng điều trị giúp nâng cao
chất lượng cuộc sống của người nhiễm HIV.
vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu tổng quan
tài liệu nhằm mục tiêu xác định tỷ lệ trầm cảm
các yếu tố liên quan đến thực trạng này
người nhiễm HIV/AIDS từ năm 2012 đến 2022.
II. NỘI DUNG
2.1 Phương pháp tổng quan
Tổng quan được thực hiện dựa trên các
nghiên cứu tả thực trạng trầm cảm trên
bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam
trong giai đoạn 2012 2022 đã được xuất bản
bằng tiếng Việt hoặc tiếng Anh. Tìm kiếm tất
cả các bài báo cáo, luận văn, luận án, bài báo
khoa học được công bố từ năm 2012 đến nay.
Nguồn thông tin điện tử chủ yếu được tìm
kiếm thông qua công cụ tìm kiếm của Pubmed,
google học thuật (https://www.google.com/;
https://scholar.google.com/) các tạp chí
nghiên cứu uy tín trong nước (Tạp chí Nghiên
cứu y học, Tạp chí Y học dự phòng, Tạp chí Y
học Việt Nam...) với các từ khóa: Trầm cảm;
HIV/AIDS; depression; mental health.
Phân tích tổng quan: Xây dựng biểu mẫu
sàng lọc để rà soát và lựa chọn các nghiên cứu.
Hai người đánh giá đọc các nghiên cứu một
cách độc lập quyết định đưa vào các đánh
giá chung dựa trên các tiêu chí lựa chọn được
thiết lập trong đề cương. Chúng tôi sẽ trích
xuất các dữ liệu sau đây từ mỗi nghiên cứu đủ
điều kiện: Đặc điểm thiết kế nghiên cứu: Địa
điểm, đối tượng, cỡ mẫu, thiết kế nghiên cứu,
năm tiến hành nghiên cứu, tác giả chính; kết
quả nghiên cứu: Tỉ lệ trầm cảm trên bệnh nhân
nhiễm HIV/AIDS, các yếu tố liên quan.
đồ PRISMA đã được sử dụng để thể hiện
quá trình sàng lọc lựa chọn các nghiên cứu
(Hình 1).
14 Tạp chí Y học dự phòng, Tập 32, số 8 Phụ bản - 2022
Hình 1. Tổng hợp việc chọn lọc và rà soát các nghiên cứu
Tiếng Việt
(n = 7)
Tạp chí Y học Việt Nam: 2
Tạp chí Y học TP Hồ Chí Minh: 3
Luận văn, luận án: 2
Số lượng sau khi lọc tên bài và bài trùng
n = 7
Số lượng sau khi đọc tóm tắt
n = 7
Số lượng sau khi đọc toàn văn
n = 5
Tiếng Anh
(n = 28)
Pubmed: 6
Google Scholar: 21
Luận văn, luận án: 1
Số lượng sau khi lọc tên bài và bài trùng
n = 15
Số lượng sau khi đọc tóm tắt
n = 8
Số lượng sau khi đọc toàn văn
n = 5
Số nghiên cứu được chọn
n = 10
2.2 Kết quả tổng quan
Tổng số 32 nghiên cứu cho thấy liên quan
tới các từ khóa được tìm kiếm, sau quá trình
chọn lọc soát các nghiên cứu, 10 công
trình nghiên cứu thỏa mãn các điều kiện đưa ra
và được sử dụng cho tổng quan này (Hình 1).
Bảng 1. Thông tin chung của các nghiên cứu
Tác giả chính, năm Địa điểm NC Thiết kế
nghiên cứu
Tuổi
Mean (SD)
Giới tính
Nam
n (%)
Nữ
n (%)
Sara Levintow, 2013 [11] Thái Nguyên NC cắt ngang 35,0 (6) 455 (100) _
Thái Thanh Trúc, 2014 [12] TP Hồ Chí Minh NC cắt ngang 34,8 (6,8) 254 (63,5) 146 (37,2)
Huỳnh Ngọc Vân Anh, 2015 [13] Bình Phước NC cắt ngang 34,8 (7,8) 97 (49,7) 98 (50,3)
Shoko Matsumo, 2016 [14] Hà Nội NC thuần tập 38 (3,5) 903 (60,8) 600 (39,9)
Oleksandr Zeziulin, 2016 [15] Thái Nguyên NC cắt ngang 35 ( 3,5) 427 (85) 75 (15)
Phạm Đình Quyết, 2017 [10] TP Hồ Chí Minh NC cắt ngang _274 (71,9) 107 (28,1)
Trần Xuân Bách, 2017 [16] Thanh Hóa,
Lào Cai, Hà Nội
NC cắt ngang 38,4 (8,3) 29,1 (61,5) 182 (38,5)
Đặng Thị Minh Trang, 2017 [17] Bình Dương NC cắt ngang 34,6 (6,2) 189 (62,2) 115 (37,8)
Nguyễn Thị Trang, 2020 [8] Hà Nội NC cắt ngang 39,7 (9,8) 166 (58) 120 (42)
Ngô Văn Mạnh, 2020 [10, 18] Thái Bình NC cắt ngang _228 (59,1) 158 (40,9)
15Tạp chí Y học dự phòng, Tập 32, số 8 Phụ bản - 2022
Độ tuổi trung bình của các đối tượng tham
gia nghiên cứu từ 30 - 45 tuổi, thành phần
tham gia chủ yếu nam giới với tỉ lệ cao hơn
so với nữ giới, phù hợp với báo cáo của Cục
Phòng, chống HIV/AIDS về tỷ lệ nhiễm tại
Việt Nam chủ yếu trong lứa tuổi từ 20 - 49
cao hơn ở nam giới do có các hành vi nguy
cao hơn [19]. Các nghiên cứu đã được thực
hiện tại nhiều địa phương trên cả nước, tại các
thành phố lớn cũng như các tỉnh, đặc biệt là tại
các điểm nóng về tỉ lệ nhiễm HIV/AIDS cao
như: Nội, TP Hồ Chí Minh, Thái Nguyên,
Thanh Hóa [20]… Hầu hết các nghiên cứu sử
dụng thiết kế nghiên cứu cắt ngang.
Về thực trạng trầm cảm trên bệnh nhân
nhiễm HIV/ AIDS tại Việt Nam:
Tỉ lệ trầm cảm trên bệnh nhân HIV/AIDS
được ghi nhận qua các nghiên cứu rất cao
(trung bình trên 30%), cao nhất 69% bệnh
nhân HIV/AIDS có triệu chứng trầm cảm năm
2013 [11], thấp nhất 10,9% bệnh nhân HIV/
AIDS năm 2020 [8]. Nhìn chung, tỉ lệ này
tương đương với ước tính của Penzak S.R
cộng sự năm 2000 về tỉ lệ trầm cảm của người
bệnh HIV/AIDS 22 - 45% [3]. Tỉ lệ trầm
cảm người bệnh HIV/AIDS thấp hơn so
với nghiên cứu tổng quan được tiến hành tại
Trung Quốc, Châu Phi, Nam Mỹ cao hơn
so với tỉ lệ này tại Châu Âu [4 - 6] do sự khác
biệt về tỉ lệ hiện mắc, khả năng phát hiện điều
Bảng 2. Tỉ lệ trầm cảm trên bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam theo các nghiên cứu
giai đoạn 2012 - 2022
Tác giả chính, năm Thang đo
trầm cảm Tỉ lệ trầm cảm
Sara Levintow, 2013 [11] CES-D Tỷ lệ mắc các triệu chứng trầm cảm nặng là 44%, với 201
người tham gia đạt 23 điểm trở lên trong CES-D. 115 người
tham gia (25%) báo cáo các triệu chứng trầm cảm nhẹ đến
trung bình (16 ≤ CES-D < 23) và 139 người tham gia (31%)
không có triệu chứng trầm cảm (CES-D < 16);
Thái Thanh Trúc, 2014 [12] CES-D Tỉ lệ trầm cảm chung là 36,5%;
Huỳnh Ngọc Vân Anh, 2015 [13] CES-D Có 63 người bị trầm cảm, chiếm 32,3%;
Shoko Matsumo, 2016 [14] CES-D Tỷ lệ trầm cảm chung của quần thể này là 26,2% (23,0%
nam, 30,8% ở nữ);
Oleksandr Zeziulin, 2016 [15] PHQ-9 Tỷ lệ ước tính của các triệu chứng trầm cảm vừa, nặng
14%;
Phạm Đình Quyết, 2017 [10] CES-D 29,4% người tham gia nghiên cứu có trầm cảm;
Trần Xuân Bách, 2017 [16] PHQ-9 Bệnh nhân có các triệu chứng trầm cảm nhẹ chiếm 30,8%.
Trong số những người được hỏi mắc hội chứng trầm cảm
nặng (20,2%), 12,8% các triệu chứng trầm cảm trung
bình, 4,6% có các triệu chứng trầm cảm nặng vừa và 2,7%
có các triệu chứng trầm cảm nặng.
Đặng Thị Minh Trang, 2017 [17]
CES-D
Tỉ lệ trầm cảm chung là 24,7% (19,9% – 29,9%). Trong đó
tỉ lệ rối loạn trầm cảm nhẹ là 12,5%, nặng 6,3%, vừa 5,9%.
Nguyễn Thị Trang, 2020 [8] PHQ-9 Tỉ lệ trầm cảm chung cho các đối tượng nghiên cứu
10,9%, trong đó, tỉ lệ trầm cảm nhẹ là 7,3%, tỉ lệ trầm cảm
trung bình là 2,5%, tỉ lệ trầm cảm nặng là 1,1% và không
trường hợp phản ánh tỉ lệ trầm cảm rất nặng;
Ngô Văn Mạnh, 2020 [9,18] CES-D Tỉ lệ trầm cảm ghi nhận bệnh nhân nhiễm HIV/ AIDS đang
điều trị ARV là 36,3%.
16 Tạp chí Y học dự phòng, Tập 32, số 8 Phụ bản - 2022
trị bệnh và điều kiện kinh tế xã hội. Trầm cảm
trên người bệnh nhiễm HIV/AIDS vẫn luôn là
một vấn đề đáng quan tâm ảnh hưởng đến
chất lượng cuộc sống của người bệnh [21].
Tỉ lệ trầm cảm biến động qua các năm, tỉ lệ
bệnh nhân HIV/AIDS có trầm cảm nhẹ chiếm
tỉ trọng cao, tỉ lệ bệnh nhân HIV/AIDS có các
triệu chứng trầm cảm vừa nặng xu hướng
giảm dần (từ 44% năm 2013 [11] xuống 1,1%
trầm cảm nặng, không trường hợp phản ánh
trầm cảm rất nặng năm 2020 [8]). Sự khác biệt
về tỉ lệ trầm cảm của các nghiên cứu có thể do
sự khác biệt khi sử dụng các thang đo khác
nhau, địa điểm nghiên cứu, cỡ mẫu nghiên
cứu. Tỉ lệ người bệnh tỉ lệ trầm cảm nặng
tại Việt Nam thấp hơn so với 15,2% người
bệnh HIV/AIDS trầm cảm được báo cáo trong
tổng quan của Lofgren SM tại các nước châu
Phi cận Sahara [5]. Sự khác biệt về tỉ lệ trầm
cảm giữa các nghiên cứu được tìm thấy, điều
này thể do sự khác biệt về thang đo trầm
cảm được sử dụng, cỡ mẫu trong các nghiên
cứu khác nhau thể sự khác biệt về
địa lý. Các nghiên cứu chủ yếu sử dụng thang
đo CES-D, một số sử dụng thang PHQ-9 [8,
15, 16]. Tỷ lệ trầm cảm trên người bệnh HIV/
AIDS được báo cáo bằng thang đo CES-D cao
hơn thang đo PHQ-9. Một số nghiên cứu báo
cáo bất người tham gia nào triệu chứng
đến điểm giới hạn của các thang đo (các triệu
chứng từ nhẹ đến nặng) [8, 11, 16, 17], trong
khi đó nghiên cứu chỉ báo cáo tỉ lệ nguời
tham gia có triệu chứng vừa đến nặng [15], có
những nghiên cứu chỉ báo cáo tỉ lệ trầm cảm
chung không phân chia thành các mức độ
khác nhau [9, 10, 12 - 14].
Bảng 3. Một số yếu tố liên quan đến thực trạng trầm cảm trên bệnh nhân HIV/AIDS
tại Việt Nam giai đoạn 2012 - 2022
Tác giả chính Yếu tố liên quan OR 95% CI p
Sara Levintow,
2013 [11]
Thu nhập thấp 2,94 1,82 - 4,76 < 0,05
Độc thân 2,25 1,18 - 4,27
Huỳnh Ngọc Vân Anh,
2015 [13]
Giới tính nữ 2,11 1,17 - 3,81 0,01
Rối loạn lo âu 3,04 2,18 - 4,24 < 0,001
Thu nhập thấp 3,68 1,69 - 8,04 0,001
Shoko Matsumo,
2016 [14]
Hỗ trợ cảm xúc tốt 0,92 0,91 - 0,94
< 0,001
Hỗ trợ hữu hình tốt 0,91 0,88 - 0,93
Hỗ trợ tình cảm tốt 0,88 0,85 - 0,91
Tương tác xã hội tốt 0,85 0,82 - 0,88
Phạm Đình Quyết,
2017 [10]
Sống chung với gia đình 1,76 1,22 - 2,28 0,001
Hỗ trợ xã hội thấp 1,93 1,26 - 2,96 0,002
Sử dụng thuốc trầm cảm 2,18 1,57 - 3,04 < 0,001
Có triệu chứng bệnh HIV 1,70 1,15 - 2,49 0,005
Rối loạn lo âu 2,97 2,2 - 23,96 < 0,001
Trần Xuân Bách,
2017 [12]
Sống với vợ, chồng 4,66 1,3 - 17,4 < 0,05
Số lượng TCD4 < 500 4,18 1,2 - 15,2 < 0,05
Đau/ Khó chịu 7,23 1,79 - 29,15 < 0,001
Bị kỳ thị 19,69 2,6 - 152,1 < 0,001
Đặng Thị Minh Trang,
2017 [17]
Hỗ trợ từ người thân 2,97 2,2 - 23,96 0,015
Tuân thủ điều trị tốt 0,52 0,32 - 0,85 0,010
Công việc không ổn định 2,30 1,16 - 4,55 0,016