Triều nguyễn thời kỳ độc lập

( 1802 – 1883)

GIA LONG HOÀNG ĐẾ ( 1802 – 1819)

Niên hiệu: Gia Long.

Nguyễn Ánh lấy được Gia Định năm Mậu Thân (1788) tuy đã xưng

vương mà chưa đặt niên hiệu riêng, vẫn dùng niên hiệu vua Lê. Tháng

5 năm Nhâm Tuất ( 1802) lấy lại được đất đai cũ của các chúa

Nguyễn, Nguyễn Vương Phúc Ánh cho lập đàn tế cáo trời đất, thiết

triều tại Phú Xuân, đặt niên hiệu Gia Long năm thứ nhất. Lê Quang

Định được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh xin phong vương và đổi

tên nước là Việt Nam. Nhà thanh cho rằng tên nước là Việt Nam sẽ lẫn

với nước của Triệu Đà ( gồm cả Đông Việt và Tây Việt) nên đổi là Việt

Nam. Năm Bính Dần ( 1806), Gia Long chính thức làm lễ xưng đế ở

điện Thái Hòa và từ đây quy định hàng tháng cứ ngày rằm và mồng

một thì thiết đại triều, các ngày 5,10,20 và 25 thì thiết tiểu triều.

Là vua sáng nghiệp của triều Nguyễn của một quốc gia thống nhất.

Gia long phải quyết định rất nhiều việc đặt nền móng cho vương triều

có một địa bàn thống trị rộng lớn từ Bắc chí Nam. Để tránh lộng

quyền, ngay từ đầu nhà vua bãi bỏ chứ vụ Tể tướng. Ở triều đình chỉ

đặt ra 6 bộ: Lại, Hộ, Binh, Hình, Công cho các thượng thư đứng đầu

và Tả hữu Tham tri, Tả hữu thị lang giúp việc.

Quản Lý một đất nước thống nhất kéo dài từ Lạng Sơn đến Hà Tiên

đối với Gia Long lúc đó là hoàn toàn mới mẻ. Gia Long cho tổ chức lại

các đơn vị hành chính từ trung ương xuống. Cả nước chia ra thành 23

trấn, 4 doanh. Từ Ninh Bình trở ra gọi là Bắc làm gồm 11 trấn ( 5 nội

trấn và 6 ngoại trấn), từ Bình Thuận trở vào gọi là Gia Định thành

gồm 5 trấn, ở quãng giữa gọi là các trấn độc lập. Thanh Hóa, Nghệ

An, Quảng Nghĩa, Bình Định, Phú Yên, Bình Hòa, Bình Thuận, đất kinh

kỳ đặt 4 doanh. Trực Lệ Quảng Đức doanh ( tức thừa thiên), Quảng

Trị doanh, Quảng Bình doanh và Quảng Nam doanh. Cai quản Bắc

thành và Gia Định có thành Tổng trấn và phó Tổng trấn. Mỗi trấn có

một lưu trấn hay Trấn thủ. Cai hạ và Ký lục. Trấn chi ra phủ, huyện,

châu có Tri phủ, Tri huyện, Tri châu đứng đầu. Đây là lần đầu tiên

một lãnh thổ thống nhất, có các tổ chức hành chính được săp đặt

chính quy như vậy.

Quản lý đinh khẩum ruộng đất và thuế khóa áp dụng theo mẫu hình

thời Lê Sơ nhưng được thực hiện quy mô nhỏ hơn, có quy củ hơn.

Đáng chú ý là việc làm sổ ruộng ( địa hạ) dưới thời Gia Long được tiến

hành nhất loạt, có quy mô toàn quốc. Các làng xã phải lập sổ địa bạ

ghi rõ từng loại ruộng đất, diện tích, vị trí, công, tư…Chép thành ba

bản nộp lên bộ Hộ, Bộ đóng dấu kiềm, lưu 1 quyển, tỉnh giữ 1, xã giữ

1. Năm năm làm lại địa bạ một lần, đến nay còn lưu giữ khá đủ toàn

bộ địa bạ Gia Long của các trấn, doanh cả nước. Trên cơ sở điều tra

kê cứu địa chí các địa phương. Cả nước gồm 4 địa hình sông núi, cầu

quán, chợ búa, phong tục, thổ sản… năm Bính Dần ( 1806), vua Gia

Long sai biên soạn và ban hành bộ “ Nhất thống địa dư chí” gồm 10

quyển.

Năm Ất Hợi ( 1815) bộ “ Quốc triều hình luật” gồm 22 quyển với 398

điều luật đã được ban hành.

Công cuộc khai hoang vùng đồng bằng sông Cửu Long đã được tiếp

tục. Nhà nước đã bỏ tiền ra đào kênh thoát nước thụy Hà và sông

Vĩnh Tế tạo thuận lợi cho việc khẩn hoang. Những công trình lớn như

sông Vĩnh Tế huy động sức người, sức của cả dân tộc Việt và Chân

Lạp dọc hai bờ có sông chảy qua. Việc trị thủy ở đồng bằng Bắc Bộ

cũng được Gia long chú ý ngay từ đầu, năm Giáp Tý ( 1804), trên

đường ra Bắc làm lễ thụ phong của nhà Thanh, Gia Long cũng nêu

vấn đề đắp đê để sĩ phu Bắc Hà bàn luận. Mặc dù chưa nhất trí, nhà

vua vẫn quyết định đắp đê, thời Gia long khối lượng đê, kè, cống được

đắp nhiều nhất so với các triều trước.

Đối ngoại, triều Nguyễn một mặt tranh thủ sự ủng hộ và giữ lễ thần

phục nhà Thanh, mặt khác lại tạo quan hệ đàn anh đối với Chân Lạp

và Ai Lao. Đối với các nước phương Tây, từ chỗ dựa vào lực lượng của

họ để giành thắng lợi chuyển sang lạnh nhạt. Năm Quý Hợi ( 1803),

nước Anh xin mở của hàng buôn bán ở Trà Sơn ( Quảng Nam) bị nhà

vua từ chối. Sĩ quan Pháp đã từng giúp vua được trọng đãi, giữ chức

tại triều, mỗi người có 50 lính hầu, gia đặc ân buổi chầu không phải

lạy…Còn yêu sách khác của Pháp đều bị khước từ. Năm Đinh Sửu (

1817) tàu buôn Pháp tên là “ La paix” ( hòa bình) chở hàng sang bán

nhưng hàng không hợp thị hiếu người Việt Nam, phải trở về, được

miễn thuế. Đến khi tàu Cybèle vào Đà Nẵng đưa thư Hoàng đế Pháp

nhắc lại việc thi hành điều ước ký năm Đinh Mùi ( 1787) Bá Đa Lộc

thay mặt Nguyễn Ánh, có khoản Nguyễn Ánh nhường cho Pháp cửa

biển Đà Nẵng và Côn Lon). Gia Long kiên quyết bác bỏ viện lý rằng.

Điều ước tuy đã ký nhưng thuở đó phía Pháp không thực hiện được

nữa thì nay không còn giá trị nữa ! Nhà Nguyễn không cấm hẳn các

thuyền buôn phương Tây song cũng không lời mời chào, khuyến khích

hoặc có một chính sách tỏ ra chủ động, tích cực hơn.

Một trong những tai tiếng và gần nữa là căn bệnh của mọi nhà vua,

chúa sáng nghiệp gian nan và lâu dài là sát hại công thần. Những

người có công như Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường đều bị

giết hại giữa lúc Gia Long đang tị vì.

Nguyễn Văn Thành tuy là người Thừa Thiên, vào Gia Định đã hai ba

đời, theo Nguyễn Ánh từ những ngày đầu và chịu muôn vàn gian

truân cùng chủ tướng. Nguyễn Văn Thành có tài và lập được nhiều

công lớn, đứng đầu hàng công thần. Gia Long lên ngôi giao cho

Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn Bắc Thành, tình hình đất Bắc đã

yên ổn sau nhiều năm loạn lạc liên miên. Sau đó thành được triệu về

kinh lãnh chức Trung quân, Thành vốn có tài trước thuật nên được

giao làm Tổng tài bộ quốc triều hình luật và biên soạn quốc sử. Con

trai ông là Nguyễn Văn Thuyên đỗ cử nhân, là người hâm mộ văn

chương. Nhân Thuyên làm thơ ngâm vịnh với bạn bè, lời lẽ khi ngông,

các đối thủ vốn ngầm đố kỵ, công lao của Thành liền vua cho Thuyên

có mưu đồ thoán đoạn ngôi vua, cha con Nguyễn Văn Thành đều bị

hạch tội. Thuyên bị bắt giam, thành bị triều thần nghị tội tử. Sau buổi

triều kiến, Thành chạy theo nắm lấy áo vua, kêu khóc thảm thiết.

Thần theo bệ hạ từ khi còn nhỏ đến bây giờ, nay chẳng có tội gì mà bị

người ta cấu xé. Bệ hạ nỡ lòng nào ngồi nhìn người ta giết thần mà

không cứu!

Gia Long không nói gì, giật áo ra, đi vào cung, từ đó cấm không cho

Thành vào chầu nữa. Lê Văn Duyệt đem Thuyên ra tra khảo, bắt phải

nhận tội phản nghịch. Thành sợ, uống thuốc độc tự tử, Thuyên bị

chém. Bậc công thần thứ hai là Đặng Trần thường có tài văn học, đã

giúp Nguyễn Ánh từ những ngày đầu, làm đến Binh Bộ thượng thư.

Sau vì bị hạch tội làm sắc phong cho Hoàng Ngũ Phúc ( tướng Trịnh)

làm Phúc thần bị án giảo. Âu đây cũng là một thứ luật đối với những

người không biết dừng chân trước bả công danh!

Tháng 11 năm Kỷ Mão ( 1818), vua không được khỏe, Hoàng thái tử

và cận thần vào hầu, vua hạ chiếu cho Hoàng thái tử quyết đoán việc

nước, tâu lên vua sau. Tháng 12, bệnh nguy kịch, vua gọi Hoàng thái

tử, các hoàng tử và các đại thần Lê Văn Duyệt, Phạm Đăng Hưng và

hầu. Vua cho bày ấn ngọc, cờ, gươm trên án vàng trước giường rồi dụ

Hoàng thái tử rằng.

Đấy là cơ nghiệp gian nan của trẫm, nay giao cho con, con nên cẩn

thận giữ gìn.

Hoàng tử cùng các tước công, đại thần ủy lạo nhà vua, khuyên gắng

gượng thuốc thang, an tâm tĩnh dưỡng, chớ nên lo lắng nhiều…Vua

nói.

Điều này, bọn ngươi không biết đâu ! Phàm truyền ngôi là việc lớn

xưa nay, hôm nay nói được mà không nói, ngày khác chết thì nói sao

kịp ! Vua liền gọi Thái tử đến trước giường, dụ rằng.

Nay việc lớn của thiên hạ đã định rồi, ta cũng sắp chết, không nói gì,

chỉ có một việc là ngày sau hãy cẩn thận, chớ nên gây hấn ngoài biên.

Nói rồi vua sai Hoàng Thái tử chép lại lời đó. Thái tử ngập ngừng

muốn tránh chữ “ băng”, vua liền cầm bút phê vào, ngày Đinh Mùi

tháng 12, vua băng ở điện Trung Hòa, thọ 59 tuổi. Gia Long tiếp tục

ngôi chúa trong 25 năm, làm vua cả nước 18 năm tổng cộng 43 năm.

Gia Long có hai vợ chính thức, thứ nhất là thế tử thừa thiên Cao

hoàng hậu họ Tống, người huyện Tống Sơn, Thanh Hóa, con gái Quý

Quốc công Tống Phúc Khuông. Nguyễn Phúc Ánh cưới bà làm vợ năm

18 tuổi, người cung kính, cẩn thận, có phép tắc lễ độ. Bà sinh được

hai hoàng tử, con cả là Chiêu chết sớm, con thứ là Hoàng tử cảnh

từng theo Bá Đa Lộc làm con tin sang cầu viện Pháp rồi về nước được

lập làm Thái tử, sau bị bệnh đậu mùa mất năm Tân Dậu ( 1801). Bà

thứ hai là thuận thiên Cao hoàng hậu họ Trần, người huyện Hương

Trà, phủ thừa thiên, con gái thọ Quốc công Trần Hưng Đạt, được tiến

vào hầu Nguyễn Ánh từ năm Giáp Ngọ ( 1774), năm Kỷ Dậu ( 1789)

được tấn phong là Tả cung tần, hiệu Nhị phi. Bà sinh được 4 hoàng tử,

Nguyễn Phúc Đởm ( sau lên ngôi lấy hiệu là Minh Mệnh, Nguyễn Phúc

Đài ( Kiến an vương), Nguyễn Phúc Hiệu ( mất sớm), Nguyễn Phúc

Thấn ( thiệu hòa quận vương). Ngoài 6 người con với hai vợ chính đã

kể trên, Gia Long còn có 7 con trai với các bà khác, tổng cộng 13

hoàng tử và 18 công chúa.