
Tư tưởng chủ quyền nhân dân trong tác phẩm
khế ước xã hội của J.J.Rousseau
Rousseau là một trong những nhà tư tưởng vĩ đại của Pháp thế kỷ XVIII. Người đã
đặt nền móng tư tưởng quan trọng cho cuộc Đại cách mạng Pháp 1789 là quá trình
đấu tranh cho tự do, dân chủ trên thế giới.
Trong các tác phẩm của Rousseau. Khế ước và xã hội có ý nghĩa hơn cả, nó gắn
liền với tên tuổi và sự nghiệp của ông. Tác phẩm này cùng với tác phẩm của các
nhà tư tưởng cùng thời như J.Lockc, S.Montesquieu đã tạo ra sức mạnh tinh thần
cho các cuộc cách mạng tư sản diễn ra mạnh mẽ ớ thế kỷ XVIII. Cho đến ngày
nay, nhiều nội dung trong tác phẩm ấy vẫn được kế thừa đã được nêu trong các
văn kiện chính trị quan trọng như một tinh thần cách mạng đối với nhân loại.
Trong Khế ước và xã hội, chủ quyền nhân dân là tư tưởng xuyên suốt tác phẩm.
1) Khế ước xã hội là cơ sở, nguồn gốc của xã hội dân sự và chủ quyền nhân
dân

Cũng như những nhà tư tưởng của trường phái pháp quyền tự nhiên, Rousseau giải
thích sự hình thành xã hội và nhà nước trên quan điểm của thuyết quyền tự nhiên
và thỏa thuận xã hội.
Rousseau đặt vấn đề cần phải có một khế ước hay một công ước xã hội khi con
người đã thoát ra khỏi trạng thái tự nhiên như các động vật khác để trớ thành con
người dân sự trong xã hội. Nhưng đế tìm ra những yếu tố hợp lý làm nền tảng cho
một liên hợp chính trị chính đáng, theo Rousseau, người ta phải tìm hiểu về tở
chức đầu tiên của loài người - tổ chức đời sống trong trạng thái tự nhiên trước khi
bước vào tổ chức của con người, để có thể biết được lý do tại sao con người liên
kết với nhau. Rousseau giả định rằng con người trong trạng thái tự nhiên là tự do
bình đẳng nhưng do phải đối mặt với tự nhiên, con người gặp phải nhiều thử thách
quá lớn không thể tự vượt qua. Có thể một lúc nào đó sức mạnh bên ngoài lấn át
cá nhân và sự tự do tự nhiên cũng có thế bị lạm dụng và đưa đến tình trạng mất an
ninh. Vậy phương pháp duy nhất đế con người tự bảo vệ là họ phải kết hợp lại với
nhau thành một lực lượng được điều khiển bằng một động cơ chung. khiến cho
mọi người đều hành động một cách hài hòa. Kết quả của hình thức tổ chức này là
không ai bị mất cái gì cả, ngược lại, mọi người đều được bảo đảm an ninh bởi sức
mạnh của cộng đồng. Đó là vấn đề cơ bản mà Khế ước và xã hội đề ra cách giải
quyết.
Như vậy, xã hội dân sự được hình thành trên cơ sở những liên kết chính trị của các
cá nhân bình đẳng. Rousseau cho rằng quyền dân sự của con người chỉ xuất hiện

khi hình thành xã hội cho nên con người phải trao quyền hành lại cho cộng đồng
khi liên kết với nhau. Toàn thể thành viên trong cộng đồng xã hội sẽ trở thành một
tập thể chính trị với quyền hành tối thượng. Quyền hành tối thượng này thuộc về
cộng đồng thay vì một cá nhân hay một nhóm lãnh đạo. Cộng đồng khó có thẻ xây
dựng quyền lực tối thượng nếu các thành viên trong cộng đồng đều đòi giữ lại
quyền hành của cá nhân mình. Nếu mọi người đều tự ý làm theo ý muốn của cá
nhân thì xã hội sẽ trở nên hồn loạn và loài người sẽ quay trở lại trạng thái tự nhiên.
Do vậy, khi tham gia vào khế ước xã hội, con người phải từ bỏ quyền tự do sống
theo cảm xúc cá nhân mang tính cách phản xã hội. Quyền tự do sống theo ý muốn
riêng và quyền làm chủ tất cả những gì mà sức mạnh cá nhân cho phép không phải
là quyền tự do chân chính. Vậy thì bước vào xã hội dân sự, con người mất đi cái tự
do thiên nhiên và cái quyền hạn chế được làm những điều muốn làm mà không
làm được. Nhưng mặt khác con người thu được quyền tự do dân sự và quyền sở
hữu cái mà anh ta có. Tài sản thuộc sở hữu cá nhân được toàn thể cộng đồng công
nhận và toàn thể thành viên trong cộng đồng đều được bình đẳng dưới pháp luật.
Sự ra đời xã hội dân sự đã làm cho con người trưởng thành hơn rất nhiều. Hàng
loạt các mối quan hệ phức tạp cùng với quy mô ngày càng mở rộng của xã hội dân
sự đã đặt ra những yêu cầu khách quan trong việc tổ chức quản lý đời sống xã hội.
Chính yêu cầu khách quan đó đã đòi hỏi phải có một tổ chức bộ máy hợp lý để
đảm bảo xã hội trong vòng trật tự. Khi đó, những thoả thuận của con người cũng
là cơ sở cho mọi chính quyền hợp pháp. Thông qua công ước, mỗi người ủy một

phần quyền của mình cho lãnh đạo tối cao mang ý chí chung và do đó trở thành
thành viên của nó. Toàn bộ quyền lực được chuyển giao cho bộ phận cầm quyền
được thiết lập từ các thành viên tham gia khế ước. Do đó chủ quyền thuộc về nhân
dân.
Chủ quyền nhân dân có hai đặc điểm là không thể ủy thác và không thể phân chia.
Chủ quyền nhân dân, theo Rousseau là một thực thể thống nhất, nó không thể
được đại diện bởi cá nhân nào mà là quyền lực được tận hành bới ý chí chung.
Chủ quyền không thể chuyển giao cho cá nhân, nó luôn thuộc về nhân dân và
không thể bị hạn chế bởi bất kỳ đạo luật nào. Tính tối cao của nhân dân thể hiện ở
chỗ họ không bị ràng buộc bởi những luật lệ trước đó và vào mọi thời điểm họ có
thể thay đối cả những thỏa thuận ban đầu của khế ước. Sự tự do và bình đẳng của
những người tham gia khế ước là cái bảo đảm sự liên kết nhân dân vào một thực
thể với những quyền lợi không thể đi ngược với những quyền lợi của từng cá
nhân.
Có thể nói, tư tưởng dân chủ đã xuyên suốt toàn bộ học thuyết của Rousseau về
chủ quyền nhân dân. Rousseau đề ra tư tưởng quyền lực trực tiếp của nhân dân,
tính tối cao của quyền lực nhân dân, từ đó ông đưa ra kết luận đề sự không thể
chấp nhận việc đại diện nhân dân cản trở nhân dân thực hiện các quyền của mình.
2) Ý chí chung của nhân dân được công bố lên chính là luật pháp

Trong xã hội dân sự, luật pháp không những có vai trò quan trọng đối với việc xác
lập quyền hạn và nghĩa vụ của mỗi người, mà còn là cơ sở để đo lường sự phải trái
trong quan hệ giữa các thành viên xã hội và giữ cho xã hội trong vòng trật tự.
Theo Rousseau, luật là những điều khoản của ý chí chung và bao giờ cũng mang
tính tổng quát cho mọi người. Ý chí chung phản ánh lợi ích chung của cộng đồng
và chính lợi ích chung của cộng đồng phải trở thành nền tảng của luật pháp. Thế
nhưng ý chí chung muốn thật sự là ý chí chung thì phải là ý chí chung từ trong đối
tượng và trong bản chất của nó, phải từ tất cả và ứng dụng cho tất cả. Ý chí chung
sẽ mất đi sự đúng đắn tự nhiên khi nó thiên về một đối tượng riêng lẻ nhất định".
Như vậy, ý chí chung chỉ tính đến lợi ích chung của cộng đồng và xã hội sẽ phát
hiện ra lợi ích chung của cộng đồng để xác định ý chí chung. Để xác định ý chí
chung, người ta phải loại bỏ tất cả những ý kiến khác biệt của các thành viên trong
xã hội để có thể tổng hợp được ý muốn chung. Rousseau phân biệt ý chí chung và
ý chí của tất cả. ý chí của tất cả chỉ là sự tập hợp thuần túy những quyền lợi riêng
rẽ, trong khi đó ý của chung được hình thành bằng cách loại bỏ trong tập hợp đó
những quyền lợi triệt tiêu nhau. Đằng sau những suy luận toán học này là một vấn
đề chính trị quan trọng: vấn đề hòa hợp những quyền lợi mâu thuẫn với nhau giữa
các cá nhân, các đẳng cấp và toàn xã hội. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ có thể
thành công khi mà mọi người đều đưa ra ý kiến riêng với tư cách công dân của
quốc gia thay vì trên tư cách thành viên của một thế lực riêng nào đó.