Tư tưởng Hồ Chí Minh s thng nhất
gia đức trị với pháp tr
PGS. TS Bùi Đình Phong
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Bài viết đề cập đến quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự
thống nhất giữa “đức trị” với “pháp trị”; sự thực thi vấn đề “đức
trị” và “pháp trị” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở cách
mạng, khoa học và nhân nghĩa, nói đi đôi với làm, vì hạnh phúc
của nhân dân.
Ra đi tìm đường cứu nước năm 1911, Hồ Chí Minh nuôi dưỡng
khát vọng thành lập một nhà nước kiểu mới. Sau Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, trên cơ sở những nhận thức trước đây v
mt nhà nước “phải có thần linh pháp quyền”, Hồ Chí Minh đặc
biệt quan tâm đến quyền lực của Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa phải thuộc về nhân dân, lợi ích phải vì dân. Đó phải là
mt nhà nước dân ch– dân là chủ và dân làm chủ. Đồng thời
nhà nước đó phải được vn hành và quản lý bằng pháp luật kết
hp chặt chẽ với việc giáo dục đạo đức. Quan niệm về sự thống
nhất giữa “đức trị” với “pháp trị” trong tư tưởng Hồ Chí Minh
có nguồn gốc sâu xa từ truyền thống văn hóa phương Đông
từ tấm gương trị nước của các vị vua chúa hin minh trong lịch
sử Việt Nam. Tuy nhiên, vượt lên tất cả những ông vua đức độ
và ksĩ hiền tài, trong quá trình tr vì đất nước, Hồ Chí Minh đã
thực thi triệt để vấn đề “đức trị” với “pháp trị” trên cơ sch
mạng, khoa học và nhân nghĩa, nói đi đôi với làm vì hạnh phúc
của nhân dân.
Pháp luật đạo đức là hai lĩnh vực khác nhau thuộc hình thái ý
thức xã hội. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, hai vấn đề này có
mi quan hệ mật thiết với nhau. Pháp luật là một biện pháp đ
khẳng định một chuẩn mực đạo đức; ngược lại đạo đức là những
nguyên tắc, chuẩn mực, định hướng giá trị được xã hội thừa
nhận, có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi con người trong
quan hệ với người kc, nhưng nhiều khi rất cần sự hỗ trợ của
pháp luật. Bởi vì nếu không kết hợp với tính nghiêm minh, khoa
học của pháp luật thì giáo dục đạo đức trở thành vô nghĩa. Tư
tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh cho thấy rõ điều này. Chẳng
hạn khi trả lời vụ Chu Bá Phượng, Người nói Chính phủ đã c
gắng liêm khiết (tức là đạo đức). Nhưng nếu làm gương không
xong, thì sẽ dùng pháp luật mà tr những kẻ ăn hối lộ. Trước khi
ký lnh bác đơn chống án của Trần Dụ Châu, với một trái tim
bao dung, độ lượng, Hồ Chí Minh rất đau lòng, suy nghĩ nhiều
đêm. Nhưng rõ ràng, những vụ tham nhũng kiểu đó mà nếu chỉ
kêu gọi, giáo dục đạo đức không thôi thì không bao giờ giải
quyết được vấn đề. Phải có một bộ máy thhiệnnh khoa học
và nghiêm minh của pháp luật. Tư tưởng Hồ Chí Minh là nặng
về giáo dục, nhẹ về xử phạt, nhưng cái gì cũng không dùng đến
x phạt thì không nên, sẽ mất ck luật. Trọn đời Hồ Chí Minh
là một cuộc đời giáo dục mọi người làm nời, lấy đức làm gốc.
Bởi vì, dù tài gii đến my mà không có đức, không có căn bản
thì không làm được ch mạng. Nhưng Người luôn quán triệt
“đức trị” phải thống nht với “pháp trị. Trong Di chúc, Người
viết: “Đối với nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm cắp, gái
điếm, cờ bạc, buôn lậu,v.v.. thì Nhà nước phải dùng va giáo
dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những
người lao động lương thiện” (1).
Một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập khẳng định quyền
con người và quyền của các dân tộc, tại phiên họp đầu tiên của
Chính phủ (3-9-1945), trong 6 nhiệm vụ cấp bách, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đề ra nhiệm vụ thứ ba là “chúng ta phải có ngay một
hiến pháp dân chủ; phải tổ chức càng sớm càng hay cuộc TổNG
TUYN Cử với chế độ phổ thông đu phiếu” để sớm có một
Nhà nước hợp hiến do nhân dân bầu ra. Ngày 17-9-1945, Ch
tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh ấn định thể lệ Tổng tuyn cử.
Ngày 20-9-1945, Người ký Sắc lệnh 34 thành lập ủy ban dự thảo
hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để chuẩn bị đệ
trình Quốc hội. Chính phủ liên hiệp kháng chiến được Quốc hi
họp phiên đầu tiên ngày 2-3-1946 bầu ra là Chính phhợp hiến
đầu tiên có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong việc giải quyết mọi
vấn đề đối nộiđối ngoại.
Hồ Chí Minh hiểu rõ rằng, từ một nền văn hóa nông nghiệp, trải
qua hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến chuyên chế và
hàng trăm năm dưới chế độ thcn cũng không kém phần
chuyên chế, chúng ta không thể đi nhanh tới việc xác lập một
nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên phải nhấn mạnh tới vai trò của
pháp luật trong quản lý điều hành đất nước và phi có những
hoạt động tích cực, kịp thời để từng bước hoàn thiện hệ thống
pháp luật. Nói tới pháp luật của chế độ mới dân chủ cộng hòa là
phải gắn với dân chủ, hai nội dung đó nương tựa vào nhau. Pháp
luật là bđỡ của dân chủ và không thể có dân chủ ngoài pháp
luật. Theo Hồ Chí Minh, mọi quyền dân chủ phải được thể chế
hóa bằng pháp luật và pháp luật bảo đảm cho quyền tự do n
chủ được thc thi trong thực tế.
Hồ Chí Minh là người có công lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến
và lập pháp. Nhưng điều quan trọng hơn là Người tập trung chỉ
đạo đưa pháp luật vào cuộc sống, làm cho pháp luật có hiệu lực
trong thực tế, tạo chế bảo đm cho pháp luật được thi hành.
Đối với một nước dân chủ, Hồ Chí Minh quan tâm tới năng lực
làm chủ ca người dân. Trước đây, dưới chế độ cũ, bọn thựcn
phong kiến tìm cách làm cho dân ngu để dễ tr. Trong chế độ
mi, Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục li nhân dân, nâng cao dân