intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vài nét về điều kiện tự nhiên khu vực đầm phá Thừa Thiên Huế

Chia sẻ: Nguyen Phuong Ha Linh Linh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

213
lượt xem
48
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

một trong những tỉnh miền Trung Việt Nam chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Song do vị trí của nó ở vùng vĩ độ thấp, địa hình phức tạp, phía nam bị chắn bởi dãy Trường Sơn nên có một ranh giới khí hậu rõ rệt mang những đặc thù riêng. Điều này đã ảnh hưởng đến số lượng và sinh khối của sinh vật đầm phá, đã đem lại cho phá Tam Giang một quần xã sinh vật phong phú và đa dạng....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vài nét về điều kiện tự nhiên khu vực đầm phá Thừa Thiên Huế

  1. Vài nét về điều kiện tự nhiên khu vực đầm phá Thừa Thiên Huế là một trong những tỉnh miền Trung Việt Nam chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Song do vị trí của nó ở vùng vĩ độ thấp, địa hình phức tạp, phía nam bị chắn bởi dãy Trường Sơn nên có một ranh giới khí hậu rõ rệt mang những đặc thù riêng. Điều này đã ảnh hưởng đến số lượng và sinh khối của sinh vật đầm phá, đã đem lại cho phá Tam Giang một quần xã sinh vật phong phú và đa dạng. 2.1.1. Vị trí địa lí Hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai là hệ đầm phá lớn nhất Đông Nam Á thuộc cỡ lớn trên thế giới, điển hình cho các đầm phá ven biển miền Trung nước ta. Đầm phá kéo dài từ cửa sông Ô Lâu đến cửa Tư Hiền thông qua các huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang, Phú Lộc với chiều dài 68 km, chiều rộng trung bình là 2 km. Nơi rộng nhất là 10 km tạo nên một thuỷ vực có diện tích mặt nước rộng gần 22.000 ha, được thông với biển qua hai cửa: cửa biển Thuận An ở phía Bắc và cửa Tư Hiền ở phía Nam, cách nhau hơn 40 km.
  2. Phía Đông đầm phá tiếp giáp với các cồn cát trải dài kết hợp với các khu dân cư sinh sống ven đầm phá. Phía Tây tiếp giáp với dãy đồng bằng hẹp, bị chia cắt bỡi những con sông, chân núi, rìa làng. 2.1.2. Địa hình Hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai được bao quanh bỡi những đụn cát ở phía Đông, và chân núi, chân ruộng ở phía Tây. Do ảnh hưởng của dòng chảy mà địa hình vùng đầm phá ở đây thường thoai thoải ở ven bờ và bằng phẳng ở đáy, với chất đáy là bùn cát hoặc cát bùn. Độ sâu trung bình của phá là 1,5m ở hầu hết các đầm dạng hồ (An Gia, Vĩnh Xương, Sam Chuồn, Cầu Hai) và 3,0m ở các đầm dạng sông (Tam Giang, Thuỷ Tú). Hàng năm ở đây có lượng phù sa bồi lắng cung cấp cho đầm phá một khối lượng vật chất dinh dưỡng lớn, làm tiền đề cho nguồn thức ăn tự nhiên phát triển. Đây là nguồn thức ăn quan trọng cho cho các loài động vật thuỷ sản. 2.1.3. Điều kiện thuỷ văn Nồng độ muối
  3. Qua theo dõi độ mặn của đầm phá dao động trong khoảng từ 0,2-27‰. Độ mặn ở khu vực đầm phá Thừa Thiên Huế thay đổi theo mùa và vị trí địa lí. Độ mặn ở khu vực Cầu Hai là thấp nhất, dao động trong từ 0-19‰, mùa khô dao động từ 17-25‰, mùa mưa dao động từ 0-5‰. Độ mặn ở khu vực Thuỷ Tú biến động trong khoảng từ 0-29‰ trung bình 11‰; mùa mưa dao động từ 0-6‰, mùa khô từ 25-30‰. Độ mặn ở khu vực Tam Giang nằm trong khoảng 0-26‰ trung bình 9‰. Nhìn chung độ mặn ở khu vực Tam Giang- Cầu Hai phụ thuộc vào tính chất mùa rõ rệt, trong đó thời gian mặn hoá kéo dài hơn so với thời gian ngọt hoá. Quá trình sinh trưởng, phát triển của thuỷ sinh vật trong đầm phá chịu ảnh hưởng rất lớn của độ mặn. Độ pH Khu hệ đầm phá Thừa Thiên Huế mang tính chất hơi kiềm và có sự thay đổi theo tầng nước và theo theo mùa. Giá trị pH ở tầng mặt đạt 8,0-8,2 về mùa khô, về mùa mưa là 7,1- 7,5. Ở tầng đáy dao động cũng tương tự nhưng thấp hơn tầng mặt. Ở các vùng cửa sông và gần cửa sông pH lại thấp,
  4. thích nghi cho các đối tượng nước ngọt và một số loài chịu được độ mặn thấp. Độ trong Độ trong vào mùa khô thường đạt giá trị cao hơn do sự tác động của khối nước từ lục địa là không lớn, nước đầm phá chủ yếu chịu sự tác động của khối nước biển xâm nhập sâu vào đầm phá qua 2 cửa. Về mùa mưa do tác động của khối nước từ lục địa cộng với mưa to từ sông suối lớn tập trung vào đầm phá mang theo phù sa làm cho độ trong giảm. Tóm lại khu hệ đầm phá có độ trong khá cao, dao động trong khoảng từ 1,0 - 1,5 m. Chế độ thuỷ triều Vùng biển TT-Huế có chế độ bán nhật triều không đều, biên độ triều nằm trong khoảng 0,4 - 0,7m. Riêng vùng cửa biển Thuận An có chế độ bán nhật triều đều, biên độ triều khoảng 0,4-0,5m. Nhìn chung, biên độ triều trong đầm phá thấp hơn so với biên độ triều trên biển. Với chế độ bán nhật triều như vậy làm cho nước trong khu hệ đầm phá luôn được trao đổi. Nguồn nước và dòng chảy
  5. * Nguồn nước: Nước trong khu vực đầm phá TT-Huế được cung cấp bởi các nguồn sau: Nguồn nước lục địa từ các con sông (chủ yếu là sông Ô Lâu, sông Bồ, Sông Hương, sông Truồi) đổ vào đầm phá với lưu lượng lớn, nguồn này rất lớn vào các tháng mùa mưa. Nước từ biển Đông đi vào khu hệ đầm phá qua hai cửa Thuận An và Tư Hiền thông qua chế độ thuỷ triều- đây là nguồn nước quan trọng nhất. * Dòng chảy: hệ thống dòng chảy ở khu vực đầm phá TT-Huế rất phức tạp do tương tác của dòng chảy ven bờ và dòng chảy sông. Do ảnh hưởng của dòng chảy nên nước trong đầm phá được điều hoà thường xuyên, thủy sinh vật cũng có sự phân bố đều và có đầy đủ thành phần loài của vùng nước ngọt, lợ, mặn. [2] 2.1.5. Cơ sở thức ăn tự nhiên Thực vật thuỷ sinh * Thực vật nổi (Phytoplankton): Theo những kết qủa điều tra cơ bản của khoa Sinh Học, trường Đại học Khoa học Huế thì trong hệ đầm phá có 225 loài thực vật nổi gồm nhiều nghành khác nhau: thành phần chiếm ưu thế là tảo Silic (Baccilariophyta) với 145 loài, tiếp theo là tảo Lục
  6. (Chlorophyta) 21 loài, tảo Giáp (Pyrrophyta) 16 loài, tảo Lam (Cyanophyta) 15 loài, tảo vàng ánh (Chlosophyta) 2 loài. Như vậy, tảo silic, tảo lục, tảo giáp chiếm ưu thế là thành phần chính của thực vật nổi, số lượng và thành phần của chúng phân bố trong hệ đầm phá phụ thuộc vào môi trường, đặc biệt là sự dao động của độ mặn. Nhưng nhìn chung, thực vật nổi trong đầm phá có sinh khối cao. Bình quân mỗi năm đạt từ 103-106 tế bào/ml. * Tảo lớn và thực vật có hoa: Tảo lớn và thực vật có hoa chiếm khối lượng rất đáng kể là cơ sở thức ăn ban đầu rất quan trọng của thuỷ vực. Cho đến nay, trên toàn bộ khu vực đầm phá đã xác định được 54 loài tảo lớn tập trung chủ yếu ở các nghành: tảo Lục (Chlorophyta) 16 loài, tảo nâu (Phaeophyta) 22 loài; thực vật có hoa 11 loài. Cỏ thủy sinh đã xác định tên được 15 loài tập trung chủ yếu vào các họ: họ thủy thảo (Hydrocharitaceae), họ hải kiều (Cymodoceaceae), họ hải rong (Zosteraceae), họ xuyên mạn (Ruppiaceae). Động vật không xương sống * Động vật nổi (Zooplankton):
  7. Theo thống kê của bộ Thuỷ sản, đầm phá TT- Huế có 34 loài trong đó gồm có: giáp xác chân chèo (Copepoda) 28 loài, giáp xác râu nghành (Cladocera) 5 loài, luân trùng (Rotifer) 1 loài. Mật độ bình quân 594 cá thể/m3. Trong đó các loài có nguồn gốc từ biển chiếm ưu thế. Số lượng và thành phần loài phụ thuộc vào độ mặn. Thành phần loài nước ngọt chủ yếu vào mùa mưa. Thành phần loài nước lợ xuất hiện hầu hết các tháng trong năm và chiếm số lượng đông đảo nhất trong thành phần loài. Thành phần loài nước mặn có nguồn gốc từ biển thường xuất hiện vào mùa khô có nồng độ muối cao. * Động vật đáy (Zoobenthos) Hiện nay đã xác định được 34 loài động vật đáy trong hệ đầm phá TT-Huế, trong đó: động vật thân mềm (Mollusca) 10 loài chiếm số lượng lớn nhất, giun nhiều tơ (Polychaeta) 9 loài, giáp xác bơi nghiêng (Amphypoda) 9 loài, ấu trùng côn trùng 3 loài, giáp xác chân đều (Izopoda) 2 loài, Tanadacea 1 loài. Hầu hết các loài có mặt khắp nơi trong thuỷ vực, chứng tỏ khả năng thích ứng rộng muối của chúng. [2]
  8. 2.1.6. Khu hệ cá Theo công trình nghiên cứu về định loại của Võ Văn Phú thì ở khu hệ cá đầm phá TT-Huế có 163 loài thuộc 88 giống, 57 họ và 11 bộ trong đó bộ cá vược (Perciformes) chiếm ưu thế với 28 họ và 58 loài, bộ cá đối (Mugilformes) 13 loài, bộ cá trích (Clupeiformes) 12 loài, bộ cá chép (Cypriniformes) 11 loài, bộ cá chình (Anguilliformes) 10 loài. Đầm phá thường xảy ra hiện tượng ngọt hoá vào mùa mưa, mặn hoá vào mùa khô nên thành phần loài có sự thay đổi. Về mùa mưa, các loài phân bố rộng khắp có đầy đủ thành phần loài: cá nước ngọt, nước lợ, nước mặn. Về mùa khô do có hiện tượng mặn hoá xảy ra ở khu vực đầm phá nên các loài nước ngọt đi sâu vào các con sông nhường chổ cho các loài nước lợ và nước mặn. Trong khu hệ có 163 loài cá được biết đến thì có nhiều loài cá có giá trị kinh tế được đưa vào nuôi, bước đầu đạt được kết quả tốt tiến tới đa dạng hóa thành phần đàn cá nuôi, ghóp phần phát triển kinh tế xã hội. [2],[8]
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1