Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Tổng Quan<br />
<br />
<br />
VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG TRỊ LIỆU<br />
TRONG MÔ HÌNH ĐƠN VỊ TRÍ NHỚ<br />
Đỗ Ngọc Tùng*, Nguyễn Thị Bình**<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Tình hình bệnh nhân sa sút trí tuệ và suy giảm trí nhớ trên thế giới và tại Việt Nam đang có chiều hướng gia<br />
tăng, cứ 3 giây trôi qua thì lại có thêm 1 bệnh nhân mới được chẩn đoán sa sút trí tuệ. Chi phí điều trị và chăm<br />
sóc cho đối tượng này trở thành ghánh nặng lớn cho gia đình và xã hội do việc điều trị kéo dài, và không thể chữa<br />
khỏi hoàn toàn. Hiện nay phần lớn đối tượng này thường bị bỏ sót ở giai đoạn sớm và chỉ được chẩn đoán, điều trị<br />
ở giai đoạn muộn khi tình trạng bệnh khó cải thiện. Điều này dẫn tới người bệnh mất khả năng thực thi các hoạt<br />
động sống cơ bản đồng thời xuất hiện các rối loạn hành vi tâm thần. Vì vậy việc hiểu biết đúng về sa sút trí tuệ<br />
cũng như nhận biết sớm các dấu hiệu suy giảm trí nhớ, kịp thời tiếp cận các phương thức điều trị đã được chứng<br />
minh về hiệu quả là điều hết sức quan trọng. Từ những lý do trên gần đây các đơn vị trí nhớ được thành lập tại<br />
các bệnh viện lớn nơi tập hợp các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực như bác sĩ thần kinh, tâm lý, dinh dưỡng, phục<br />
hồi chức năng, hoạt động trị liệu… nhằm mục đích chẩn đoán, phân loại, điều trị sớm và toàn diện cho các đối<br />
tượng trên. Ngoài việc điều trị dùng thuốc thì các phương thức trị liệu khác cũng có tầm quan trọng tương<br />
đương như dinh dưỡng trị liệu, hỗ trợ chăm sóc. Trong đó tầm quan trọng của Hoạt động trị liệu là hỗ trợ giúp<br />
bệnh nhân cải thiện các hoạt động liên quan đến thể chất, duy trì các hoạt động sống hàng ngày độc lập hay cải<br />
thiện khả năng ghi nhớ, nhận thức thông qua các hoạt động tập luyện kích thích nhận thức. Hiện nay, can thiệp<br />
Hoạt động trị liệu đã được chứng minh có hiệu quả trong nhiều nghiên cứu giúp người bệnh cải thiện nhận thức,<br />
hành vi thông qua cả 2 hình thức can thiệp nhóm và can thiệp cá nhân, và từ đó xây dựng môi trường an toàn với<br />
các tương tác xã hội thích hợp cho người bệnh.<br />
Từ khóa: hoạt động trị liệu, sa sút trí tuệ, đơn vị trí nhớ, phục hồi chức năng<br />
ABSTRACT<br />
ROLE OF OCCUPATIONAL THERAPY IN MEMORY UNIT MODEL<br />
Do Ngoc Tung, Nguyen Thi Binh<br />
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 15 – 25<br />
<br />
The number of patients with dementia and memory impairment is on the rise in the world and in Vietnam.<br />
Every 3 seconds, there’ll be one new patient diagnosed with dementia. The cost of treatment and care for this<br />
problem becomes a great burden for the family and society due to the prolonged and incurable treatment.<br />
Currently, most of dementia at an early stage have not been diagnosed and only treated at a later stage when the<br />
condition becomes difficult to improve. These lead to the patient's inability to perform basic daily living activities<br />
and appear some mental behavioral disorders. Therefore, the right understanding of dementia, as well as the early<br />
recognition of symptoms of memory impairment and timely access to proven treatment methods, is extremely<br />
important. From the above reasons, memory units have recently been established in center hospitals that including<br />
specialists in many fields such as neurologists, psychologists, nutritionists, rehabilitation, occupational therapists,<br />
etc. aim to diagnose, classify, treat early and comprehensively for dementia. In addition to pharmacology, other<br />
therapeutic treatments are equally important, such as nutritional therapy, palliative care; which emphasizes the<br />
importance of occupational therapy in this unit to help patients improve their physical activities, maintain<br />
*Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh **Bệnh viện 30/4 TP. Hồ Chí Minh<br />
Tác giả liên lạc: ThS. Đỗ Ngọc Tùng ĐT: 0938996889 Email: tung.dn@umc.edu.vn<br />
<br />
<br />
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 15<br />
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5* 2019<br />
<br />
independent daily living activities, and improve memory and cognition through cognitive stimulation. The<br />
therapy proved the effect which is applied in both individual and group interventions to help patients improve<br />
their awareness, behavior, and build a safe environment with appropriate social interactions.<br />
Keyword: occupational therapy, dementia, memory unit, rehabiliation<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ cao tuổi(4).<br />
Việc điều trị SSTT rất tốn kém và kéo dài<br />
Tình hình sa sút trí tuệ trên thế giới và tại<br />
vì không phải là bệnh có thể chữa khỏi hoàn<br />
Việt Nam<br />
toàn mà chỉ tập trung vào điều trị giảm triệu<br />
Theo báo cáo của Liên đoàn quốc tế về bệnh<br />
chứng. Việc đưa người bệnh đến cơ sở y tế<br />
sa sút trí tuệ (SSTT) Alzheimer’s Disease sớm sẽ giúp cho người bệnh được chẩn đoán<br />
International, cứ 3 giây thì có một bệnh nhân đúng và có phác đồ điều trị phù hợp, giúp<br />
SSTT. Có khoảng 46,8 triệu người trên toàn thế ngăn chặn hoặc làm chậm quá trình tiến triển<br />
giới mắc chứng SSTT vào năm 2015. Con số này<br />
bệnh. Đồng thời người bệnh còn được tập thể<br />
sẽ tăng gấp đôi sau mỗi 20 năm, đạt 75 triệu dục tăng cường vận động và giao tiếp hiệu<br />
người vào năm 2030 và 131,5 triệu vào năm quả. Để đáp ứng nhu cầu đó hiện nay “Đơn vị<br />
2050(9). Ở Việt Nam, 4%-8% số người trên 60 tuổi trí nhớ” ở Bệnh viện Đại học Y Dược Thành<br />
mắc chứng SSTT và sẽ có khoảng trên 2 triệu<br />
phố Hồ Chí Minh được hình thành và đi vào<br />
người có vấn đề này vào năm 2050(11,12). hoạt động bước đầu với sự hỗ trợ đa chuyên<br />
Những bệnh nhân bị SSTT thường đi kèm ngành gồm bác sĩ đa khoa, bác sĩ thần kinh,<br />
các vấn đề khác như nguy cơ té ngã cao, bệnh lý điều dưỡng, chuyên viên tâm lý, ngôn ngữ trị<br />
nhồi máu cơ tim, bệnh lý rối loạn tiêu hóa, và liệu và hoạt động trị liệu. Trong đó hoạt động<br />
viêm phổi. Một báo cáo năm 2017 về Alzheimer trị liệu giữ vai trò quan trọng trong điều trị dự<br />
tại Mỹ người ta nhận thấy bệnh này tạo ra gánh phòng, duy trì cái thiện tình trạng cho bệnh<br />
nặng cho người nhà và người chăm sóc do đa số nhân SSTT, giúp khuyến khích bệnh nhân giao<br />
xảy ra ở người ở người trên 65 tuổi, còn trên 65 tiếp, hỗ trợ hoạt động với các bước đơn giản,<br />
tuổi càng lớn tuổi thì càng tăng. Nhóm dân số giúp cải thiện trí nhớ, thể chất, tinh thần và<br />
này nếu sống đến 85-90 tuổi thì một phần ba bị độc lập hơn trong sinh hoạt động hằng ngày.<br />
SSTT và sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống và chất<br />
TỔNG QUAN VỀ SA SÚT TRÍ TUỆ VÀ<br />
lượng chăm sóc của người chăm sóc rất nhiều.<br />
SUY GIẢM NHẬN THỨC<br />
Bệnh nhân SSTT sống từ 5 năm trở lên thì gánh<br />
nặng cho người chăm sóc so với không SSTT Sa sút trí tuệ<br />
tăng lên gấp đôi. Thường bệnh nhân SSTT sống SSTT là tập hợp các triệu chứng gây ra bởi<br />
khoảng 10 – 15 năm chính vì vậy điều này sẽ trở các rối loạn nghiêm trọng trong não, là kết quả<br />
thành gánh nặng lớn cho gia đình và xã hội(9). của sự thoái hóa trong hệ thần kinh trung ương.<br />
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và các Nó là một nhóm bệnh lý (mất trí nhớ mạch máu,<br />
báo cáo về bệnh nhân Alzhemer thế giới, năm mất trí thể lewy, chứng mất trí thùy trán – thái<br />
2015 chi phí dành cho chăm sóc, điều trị bệnh dương). Chứng SSTT phổ biến nhất là<br />
nhân SSTT trên toàn cầu ước tính khoảng hơn Alzhiemer đặc biệt ở người trên 65 tuổi(16).<br />
800 tỷ USD (tương đương 1% GDP toàn cầu) và SSTT cho thấy những thay đổi giải phẫu thần<br />
sẽ đạt tới 2.000 tỷ USD vào năm 2030(1) . Vì vậy kinh hoặc hóa học thần kinh xảy ra ở những não<br />
chúng ta cần nâng cao hiểu biết về SSTT, huấn nhạy cảm về mặt di truyền hoặc môi trường;<br />
luyện tham gia tập thể dục thường xuyên, thay nhiều tế bào thần kinh chết, ngưng chức năng<br />
đổi chế độ ăn tốt, và tập luyện nhận thức tốt sẽ hoặc mất kết nối với những tế bào thần kinh<br />
giúp cải thiện được tình trạng SSTT trên người khác. Những thay đổi bệnh lý được tìm thấy<br />
<br />
<br />
16 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Tổng Quan<br />
<br />
thông qua kính hiển vi mô não có sự tích lũy có liên quan đến tuổi già. Như quên tên một ai<br />
amyloid ở khoảng trống giữa các tế bào thần đó, quên bỏ chìa khóa ở đâu, quên ngày tháng<br />
kinh, tăng bạch cầu trung tính và rối loạn sợi hay địa danh. Tuy nhiên, nếu mất trí nhớ trở<br />
thần kinh, mất tế bào và synap thần kinh. nên ngày càng trầm trọng, và ngày càng tiến<br />
Chẩn đoán chuẩn của SSTT đòi hỏi phải có triển, có thể gọi bệnh này là suy giảm nhận<br />
sự sa sút về trí nhớ và các chức năng nhận thức thức nhẹ (MCI)(16).<br />
khác đủ nặng để ảnh hưởng đến sinh hoạt cuộc MCI là một giai đoạn trung gian giữa suy<br />
sống hằng ngày. SSTT được phân làm 3 mức độ giảm nhận thức lão ở lão hóa bình thường và<br />
SSTT nhẹ, SSTT vừa, SSTT nặng theo tiến triển bệnh Alzheimer hoặc sự suy giảm tương tự.<br />
của bệnh. Không phải tất cả mọi người bệnh MCI sẽ mắc<br />
Nguyên nhân SSTT do hậu quả của mất tế bệnh mất trí nhớ. Và cũng giống như SSTT, MCI<br />
bào thần kinh và mất sự liên kết giữa các tế bào không phải là một căn bệnh mà là một nhóm các<br />
thần kinh. Hiện tại có nhiều cách phân chia các triệu chứng làm suy nghĩ trong bạn thay đổi<br />
nguyên nhân được thực hiện như theo vị trí; và khó khăn xử lý thông tin. Vấn đề bộ nhớ là<br />
theo nguyên phát, thứ phát; theo thời gian. chỉ số phổ biến nhất của MCI. Một người bệnh<br />
MCI cũng có thể gặp khó khăn trong suy nghĩ,<br />
Về triệu chứng lâm sàng được phân chia theo<br />
tư duy phản biện và ngôn ngữ hơn là những<br />
Thay đổi nhận thức người trong quá trình lão hóa bình thường. Vì lý<br />
Quên (mới xuất hiện), khó hiểu trong giao do không rõ mà MCI thường ảnh hưởng đến nữ<br />
tiếp bằng lời nói và chữ viết, khó khăn trong việc nhiều hơn. Các thành viên trong gia đình và bạn<br />
tìm từ để dùng, rối loạn định hướng, không biết bè những người nhận thấy những vấn đề này có<br />
các sự kiện phổ biến. thể không được quan tâm bời vì các triệu chứng<br />
Các triệu chứng tâm thần sớm khó nhận biết và thường liên quan đến tuổi<br />
tác. Những người đau buồn do bệnh MCI<br />
Chứng tự kỷ hoặc lãnh đạm, trầm cảm, nghi<br />
thường nhận ra rằng họ đang gặp khó khăn<br />
ngờ, lo âu, mất ngủ, chứng sợ, hoang tưởng, ảo<br />
nhưng vẫn thực hiện trên hầu hết các hoạt động<br />
giác hoặc kích động.<br />
bình thường của họ và sống độc lập.<br />
Thay đổi nhân cách<br />
Nguyên nhân của MCI thường không rõ<br />
Các mối quan hệ không thích hợp, bàng ràng, nhưng bệnh xuất hiện ở một số có những<br />
quan, tránh các sinh hoạt xã hội, đùa giỡn hay yếu tố tương tự như bệnh Alzheimer. Nguy cơ<br />
tán tỉnh quá mức, dễ thất vọng, có các cơn của bệnh MCI bao gồm những người trên 65<br />
giận dữ. tuổi, có lịch sử gia đình về bệnh MCI, bệnh<br />
Thay đổi về hành vi Alzheimer, hoặc hình thức khác của chứng mất<br />
Đi lang thang, kích động, làm ồn, đứng ngồi trí. Có một số tình trạng về y tế, chẳng hạn như<br />
không yên. huyết áp cao, tiểu đường, đột quỵ, cholesterol<br />
cao, hoặc bệnh tim, lạm dụng thuốc, rượu, thiếu<br />
Thay đổi các hoạt động hằng ngày<br />
tập thể dục.<br />
Khó khăn trong chạy xe, bị lạc đường, quên<br />
Hình ảnh não và nghiên cứu khoa học chỉ ra<br />
công thức nấu ăn, thờ ơ chăm sóc bản thân, gia<br />
rằng một số người bị MCI cũng có những mảng,<br />
đình, khó khăn trong quản lý tiền bạc, sai lầm<br />
đám rối cơ thần kinh thoát lại ở trung tâm bộ não<br />
trong công việc.<br />
và được quan sát thấy như ở những người bị<br />
Suy giảm nhận thức (Mild cognitive bệnh Alzheimer. Một số người bị MCI không trở<br />
impairment – MCI) nên tệ hơn hoặc tiến triển đến bệnh Alzheimer,<br />
Như chúng ta đã biết một số bệnh mất trí còn một số sẽ tiếp tục tiến triển các triệu chứng<br />
<br />
<br />
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 17<br />
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5* 2019<br />
<br />
dẫn đến Alzheimer. Sảng<br />
Các triệu chứng của MCI Giảm ý thức và sự chú ý thường thấy trong<br />
Khó ghi nhớ những điều đơn giản. SSTT.<br />
Khó khăn theo kịp một cuộc trò chuyện hoặc Tiêu chuẩn chẩn đoán<br />
chỉ dẫn cơ bản. Trước đây người ta sử dụng DSM – IV<br />
Thường xuyên mất tập trung trong học tập. nhưng hiện nay sử dụng DSM-V hoặc tiêu chuẩn<br />
NIA-AA (2011). Chẩn đoán SSTT theo DSM - V<br />
Quên các cuộc hẹn hoặc các sự kiện theo<br />
(2013) dựa trên đánh giá 6 nhóm chức năng(2).<br />
lịch trình.<br />
Tập trung: duy trì,chọn lọc, phân tán và tốc<br />
Cảm thấy bị choáng khi bạn cố gắng làm kế<br />
độ xử lý.<br />
hoạch hoặc quyết định.<br />
Điều hành: lên kế hoạch, ra quyết định trí<br />
Bị mất phương hướng ngay cả ở những địa<br />
nhớ công việc, đáp ứng với phản hồi kềm chế và<br />
điểm quen thuộc.<br />
linh hoạt.<br />
Với bệnh MCI, những thay đổi này không<br />
Học tập và trí nhớ: tự nhớ, gợi nhớ, trí nhớ<br />
xảy ra đột ngột mà tiến triển nặng dần hơn theo<br />
mô tả, trí nhớ ngữ nghĩa và hình ảnh, trí nhớ dài<br />
thời gian. Ngoài những triệu chứng này, nhiều<br />
hạn, kỹ năng nội sinh.<br />
người với MCI cũng có triệu chứng về tình cảm<br />
như trầm cảm, khó chịu, lo lắng hoặc thờ ơ. Ngôn ngữ: định danh, tìm từ, trôi chảy, ngữ<br />
pháp và cấu trúc câu, hiểu lời hoặc chữ viết.<br />
Chẩn đoán SSTT và MCI<br />
Chức năng vận động trí tuệ: nhận biết thị<br />
Được chẩn đoán thông qua hỏi bệnh sử,<br />
giác, phân tích cấu trúc bằng thị giác, kết hợp<br />
khám lâm sàng, khám tổng quát, cận lâm sàng.<br />
vận động trí tuệ.<br />
Tuy nhiên cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh<br />
khác như: Nhận thức xã hội: nhận biết cảm xúc, lý giải<br />
suy nghĩ, phán đoán.<br />
Hội chứng trí nhớ<br />
Tiêu chuẩn NIA-AA(2011) dùng trên lâm sàng(7)<br />
Giảm trí nhớ gần đơn độc.<br />
Giảm nhận thức, rối loạn hành vi ảnh hưởng<br />
Thất ngôn tiếp nhận<br />
đến hoạt động sống hằng ngày.<br />
Giảm chức năng nhận thức do không hiểu<br />
Giảm so với trước đây.<br />
được ngôn ngữ.<br />
Không do sảng hoặc rối loạn tâm thần gây ra.<br />
Chậm phát triển tâm thần<br />
Suy giảm nhận thức được phát hiện và chẩn<br />
Khả năng trí tuệ suy giảm, nhưng không đoán qua việc kết hợp hỏi bệnh sử người thân và<br />
nhất thiết có giảm trí nhớ. khám trạng thái tâm thần kinh. Test đánh giá<br />
Giả SSTT (Hội chứng trầm cảm giả SSTT) được sử dụng khi bệnh sử và khám không cung<br />
Khoảng 50% bệnh nhân già có hội chứng cấp một chẩn đoán tin cậy.<br />
trầm cảm giả SSTT sẽ phát triển thành SSTT thật Suy giảm nhận thức hoặc hành vi ảnh hưởng<br />
sự trong vòng 3-5 năm. ít nhất 2 nhóm trong 5 nhóm sau:<br />
Giảm nhận thức ở người già (1): Giảm trí nhớ.<br />
Giảm trí nhớ tuổi già, quên lành tính ở người (2): Giảm chức năng điều hành.<br />
già hoặc suy giảm nhận thức nhẹ (MCI). Các (3): Giảm chức năng thị giác không gian.<br />
triệu chứng không gây giảm hoạt động chức<br />
(4): Giảm chức năng ngôn ngữ.<br />
năng hàng ngày. Tuy nhiên, khoảng 25-35% tiến<br />
(5): Thay đổi cá tính hành vi.<br />
triển thành SSTT trong vòng 18 tháng.<br />
<br />
<br />
18 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Tổng Quan<br />
<br />
Khám thực thể bao gồm khám thần kinh nhẹ (MCI), và bị ảnh hưởng bởi tuổi và trình độ<br />
Khám thực thể một cách toàn diện bao gồm học vấn, ngôn ngữ, vận động và thị lực(6).<br />
cả khám thần kinh tìm các dấu hiệu của tai biến Mini-Cog(14): trắc nghiệm Mini-Cog bao gồm<br />
mạch máu não, Parkinson... vẽ đồng hồ và nhắc lại 3 từ không liên quan<br />
Trắc nghiệm thần kinh tâm lý (không có gợi ý). Vẽ đồng hồ được xem là bình<br />
thường nếu tất cả các chữ số đúng vị trí và kim<br />
Các trắc nghiệm thần kinh tâm lý cung cấp<br />
đồng hồ chỉ đúng.<br />
các bằng chứng khách quan giúp chẩn đoán<br />
SSTT, giúp phân biệt các thể SSTT cũng như theo Cách cho điểm như sau: không nhắc lại được<br />
dõi tiến triển của bệnh. từ nào coi như SSTT; nhắc đúng cả 3 từ coi như<br />
không SSTT; nếu nhắc được 1-2 từ thì dựa vào<br />
Các trắc nghiệm sàng lọc<br />
kết quả vẽ đồng hồ (bất thường = SSTT; bình<br />
Trắc nghiệm đánh giá trạng thái tâm thần tối thường = không SSTT).<br />
thiểu (MMSE): là trắc nghiệm sàng lọc SSTT<br />
Ưu điểm của Mini-Cog là có độ nhạy cao dự<br />
được sử dụng rộng rãi nhất. Thời gian để làm<br />
đoán tình trạng SSTT, thời gian làm trắc nghiệm<br />
trắc nghiệm này khoảng 7 phút. Điểm tối đa của<br />
ngắn hơn so với MMSE, dễ quản lý và giá trị<br />
trắc nghiệm MMSE là 30 điểm, dưới 24 điểm gợi<br />
chẩn đoán không phụ thuộc vào trình độ học<br />
ý SSTT. Phân loại SSTT dựa trên điểm số đạt<br />
vấn và ngôn ngữ. Mini-Cog có độ nhạy và độ<br />
được với các mức nhẹ, trung bình (18-24 điểm),<br />
đặc hiệu tương tự như MMSE.<br />
nặng (10-17 điểm), rất nặng (dưới 10 điểm).<br />
Các trắc nghiệm đánh giá nhận thức toàn<br />
Trong đó người bệnh có khả năng bị MCI là từ<br />
diện: khi các trắc nghiệm sàng lọc nghi ngờ<br />
25-27 điểm. Với điểm ngưỡng là 24, MMSE có độ<br />
SSTT/MCI cần tiến hành các trắc nghiệm đánh<br />
nhạy 87% và độ đặc hiệu 82%. Tuy nhiên trắc<br />
giá sâu từng lĩnh vực nhận thức.<br />
nghiệm này không nhạy với suy giảm nhận thức<br />
Bảng 1. Công cụ đánh giá và tập luyện cho bệnh nhân SSTT<br />
Đánh giá của bác sĩ Đánh giá của HĐTL<br />
Chú ý tập trung<br />
Chú ý tập trung Trắc nghiệm nối dãy số-chữ (ví dụ Trail making Test A<br />
Trắc nghiệm đọc xuôi dãy số (digit span forward). (TMT- A)<br />
Trắc nghiệm nối dãy số-chữ (ví dụ Trail making Test A (TMT- A) Trắc nghiệm nối dãy số-chữ (ví dụ Trail making Test B<br />
(TMT- B)<br />
Trí nhớ<br />
Trí nhớ là lĩnh vực nhận thức bị ảnh hưởng nhiều nhất trong SSTT. Có<br />
ba loại trí nhớ: trí nhớ tức thì (immediate memory), trí nhớ gần (recent<br />
memory) và trí nhớ xa (remote memory). Trong giai đoạn đầu của bệnh Thang đánh giá nhận thức: Motreal (MOCA).<br />
Alzheimer, bệnh nhân thường có giảm trí nhớ gần, tức là khả năng học<br />
thông tin mới. Để đánh giá trí nhớ, có thể sử dụng các trắc nghiệm thần Bao gồm những khía cạnh nhận thức khác nhau: Chú<br />
kinh tâm lý như ý và tập trung, chức năng đều hành, trí nhớ, ngôn<br />
ngữ, kỹ năng kiến tạo, tư duy khái niệm, tính toán,<br />
Nhớ lại câu chuyện: đọc một đoạn, yêu cầu bệnh nhân nhắc lại những ý định hướng.<br />
chính (nhắc lại ngay và nhắc lại sau 5 phút).<br />
Tối đa là 30 điểm thêm 1 điểm nếu bệnh nhân có học<br />
Nhớ hình ảnh: cho xem 10 hình ảnh, yêu cầu bệnh nhân nhắc lại ngay vấn dưới 12 năm.<br />
và nhắc lại sau 5 phút.<br />
Tổng điểm trên 26 được coi là bình thường.<br />
Trắc nghiệm gọi tên Boston có sửa đổi (Modified Boston Naming test):<br />
cho bệnh nhân xem 1 tập gồm 15 hình vẽ in sẵn. Yêu cầu bệnh nhân Thời gian thực hiện 10 phút.<br />
gọi tên tức thì những hình vẽ này.<br />
Delayed Recognition: nhận biết muộn. Đọc lại danh sách 20 từ để bệnh<br />
nhân nhận biết những từ đã nghe trước đây.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 19<br />
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5* 2019<br />
<br />
Đánh giá của bác sĩ Đánh giá của HĐTL<br />
Ngôn ngữ<br />
Bệnh nhân SSTT thường có thể nói được công dụng của một vật nhưng không thể nói tên vật đó. Có thể đánh giá bằng trắc<br />
nghiệm gọi tên của Boston (Boston Naming Test).<br />
Nói lưu loát (Verbal fluency), là khả năng nói các từ hoặc câu liên tục không bị gián đoạn. Các trắc nghiệm đánh giá nói lưu loát<br />
bao gồm nói lưu loát theo các ký tự hoặc âm vị: trong vòng một phút nói được càng nhiều từ bắt đầu bằng một ký tự nhất định.<br />
Hoặc nói lưu loát theo loại hoặc ngữ nghĩa: nói các từ thuộc một loại nhất định (ví dụ các con vật). Bệnh nhân Alzheimer<br />
thường giảm khả năng nói lưu loát.<br />
Đọc xuôi dãy số - Digit span forward.<br />
Đọc ngược dãy số - Digit span Backward.<br />
Thị giác không gian hay chức năng kiến trúc thị giác<br />
(visuoconstructional functioning)<br />
Thường được đánh giá trên lâm sàng, sử dụng những hình vẽ Đánh giá nhận thức hoạt động trị liệu LOTCA đo<br />
chuẩn cho bệnh nhân vẽ lại (ví dụ đồng hồ, hình khối, hình chữ thập) lường các kỹ năng nhận thức cơ bản và nhận cảm thị<br />
giác ở người lớn có suy yếu về thần kinh<br />
Hình vẽ của bệnh nhân Alzheimer thường là đơn giản hoá quá<br />
mức, mất các góc, phối cảnh xa gần kém. Hơn nữa, cách bố trí và trình Gồm 26 test nhỏ trong 6 lĩnh vực: định hướng, nhận<br />
bày của họ thường thể hiện sự lên kế hoạch kém; điều này có thể phản cảm thị giác, nhận cảm không gian, lập kế hoạch vận<br />
ánh sự phối hợp giữa thiếu hụt về thị giác không gian với kỹ năng điều động, tổ chức vận động thị giác, hoạt động tư duy.<br />
hành. Tổng điểm từ 26 – 115 điểm.<br />
Sự phối hợp này có thể dẫn đến những lỗi khác nhau khi bệnh Kết quả được cung cấp dưới dạng tiểu sử cho từng<br />
nhân làm trắc nghiệm vẽ đồng hồ. test nhỏ, trong đó điểm số cao hơn cho thấy suy giảm<br />
Một trong các trắc nghiệm được sử dụng phổ biến để đánh giá kiến nhận thức hơn<br />
trúc thị giác là dưới test xếp hình (Block Design subtest) trong trắc Thời gian thực hiện : 30 – 90 phút<br />
nghiệm Wechsler. Người khám yêu cầu bệnh nhân ghép các hình khối<br />
theo hình mẫu có sẵn.<br />
Chức năng điều hành<br />
Sử dụng các trắc nghiệm thần kinh tâm lý liên quan đến kỹ năng<br />
giải quyết vấn đề mới<br />
Thực hành động tác<br />
Mất dùng động tác (Apraxia) là mất khả năng thực hiện các động tác đòi<br />
hỏi kỹ năng phức tạp, không phải do những bất thường về vận động.<br />
Bệnh nhân không thực hiện được các động tác theo yêu cầu mà trước<br />
kia họ có thể thực hiện một cách tự phát và dễ dàng. Ngoài ra, họ có thể<br />
không thực hiện được một chuỗi động tác hướng tới một mục tiêu cụ<br />
thể. Mặc dù là một trong các biểu hiện của SSTT giai đoạn muộn, mất<br />
dùng động tác thường ít gặp trong bệnh Alzheimer giai đoạn sớm. Để<br />
đánh giá khả năng dùng động tác, người ta cho bệnh nhân làm các<br />
động tác thông thường (ví dụ đánh răng, chải đầu) theo mệnh lệnh bằng<br />
lời nói hoặc bắt chước động tác.<br />
Đánh giá hành vi tâm thần: Trầm cảm (GDS), rối loạn tâm thần (NPI)<br />
Đánh giá cá tính và cảm xúc: Các bộ trắc nghiệm như Beck Depression<br />
Inventory-II, Inventory of Depressive Symptomatology, và Quick<br />
Inventory of Depressive Symptomatology có thể được sử dụng để đánh<br />
giá các triệu chứng trầm cảm. Một số bộ trắc nghiệm khác như Geriatric<br />
Depression Scale và Cornell Scale for Depression in Dementia đã được<br />
phát triển để sử dụng ở người già.<br />
Hoạt động sống hàng ngày (ADL, IADL)<br />
Hoạt động sống hàng ngày (ADLs, IADLs) Công cụ đánh giá tình trạng hoạt động cùa Canada<br />
(COPM) thông qua việc phỏng vấn để xác định vấn đề<br />
Đánh giá khả năng hoạt động chức năng hàng ngày: các trắc nghiệm<br />
đối với tình trạng vận động hiện tại mối lo ngại và các<br />
thường dùng là thang điểm đánh giá hoạt động hàng ngày có sử dụng<br />
vấn đề, liệt kê các hoạt động hàng ngày muốn thực<br />
dụng cụ (Instrumental Activities of Daily Living Scale; Lawton và Brody),<br />
hiện, cần phải thực hiện, kỳ vọng thực hiện trong các<br />
Independent Living Scales, và Daily Activities Questionnaire.<br />
hoạt động ADLs (ăn uống, mặc quần áo, tắm gội,vệ<br />
Những trắc nghiệm này giành cho người nhà (hoặc người chăm sóc) sinh,…), IADLs (đi lại, mua sắm, tài chính,…)<br />
báo cáo, hoặc yêu cầu bệnh nhân thực hiện các nhiệm vụ tương tự như<br />
Đánh giá qua việc thực hiện tác vụ trong ADLs, IADLs<br />
hoạt động hàng ngày (ví dụ trang điểm, quay số điện thoại).<br />
tại môi trường lâm sàng mô phỏng thực tế hoặc tại<br />
môi trường thực tế của khách hàng.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
20 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Tổng Quan<br />
<br />
<br />
Tuy nhiên rất nhiều trường hợp sa sút trí tuệ nhớ trên 6 tháng bị SSTT.Vì vậy phát hiện sớm<br />
không được chẩn đoán. Trong một nghiên cứu rất quan trọng.<br />
taị Châu Âu cho thấy khoảng trống giữa triệu VAI TRÒ CỦA ĐƠN VỊ TRÍ NHỚ<br />
chứng đầu tiên và điều trị là 10 – 32 tháng(8) 74%<br />
Tiếp nhận những bệnh nhân có dấu hiệu<br />
bệnh nhân tiếp cận bác sĩ đa khoa khi có tình<br />
nghi ngờ SSTT, suy giảm nhận thức (MCI). Đồng<br />
trạng hay quên và giảm nhận thức(5) Bác sĩ đa<br />
thời đánh giá y khoa, đánh giá sức khỏe tổng<br />
khoa là người có nhiều cơ hội phát hiện sa sút trí<br />
quát (bệnh sử, thăm khám, cận lâm sàng), chẩn<br />
tuệ, tuy nhiên bác sĩ đa khoa bỏ qua đến 91%<br />
đoán bệnh xác định yếu tố gây bệnh. Nhân viên<br />
trường hợp sa sút trí tuệ nhẹ(4,9). Nhận diện rối<br />
y tế tham gia bao gồm bác sĩ lão khoa tổng quát,<br />
loạn trí nhớ và SSTT: 5% người trên 60 tuổi bị<br />
chuyên gia thần kinh và sa sút trí tuệ tâm thần,<br />
SSTT, 25 – 40% bệnh nhân đột quỵ bị SSTT, 25-<br />
điều dưỡng, kỹ thuật viên (Hoạt động trị liệu,<br />
50% bệnh nhân đái tháo đường nhập viện bị<br />
Ngôn ngữ trị liệu, Vật lý trị liệu), chuyên gia tâm<br />
SSTT, 16% người trên 60 tuổi than phiền về trí<br />
lý, hoạt động xã hội, người chăm sóc (Hình 1).<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 1. Sơ đồ hoạt động đa chuyên ngành của đơn vị trí nhớ<br />
Đánh giá chức năng từ các chức năng từ cơ sức khỏe cộng đồng, giáo dục và đào tạo, nghiên<br />
bản đến nâng cao (test, hỏi bệnh) định hướng cứu.<br />
cho chẩn đoán (MCI, Dementia), định hướng cho Hiện tại, vẫn chưa tìm được phương pháp<br />
điều trị (Phục hồi chức năng, Hoạt động trị liệu điều trị dứt chứng SSTT. Do vậy, can thiệp chủ<br />
và Nghề nghiệp trị liệu (âm nhạc trị liệu, hội họa yếu tập trung vào nâng cao việc phòng ngừa<br />
trị liệu, vườn trị liệu). Ngoài ra, còn đánh giá về thông qua việc loại bỏ yếu tố nguy cơ bao gồm:<br />
xã hội bao gồm cả người chăm sóc, cân nhắc về có chế độ ăn uống tốt, chống béo phì, ổn định<br />
luật pháp, can thiệp nội khoa, can thiệp tâm lý, huyết áp, bỏ thuốc lá, ổn định đường huyết, tập<br />
các liệu pháp điều trị không dùng thuốc, liên lạc thể dục tăng cường thể chất(8).<br />
với các tổ chức xã hội khác, phục hồi chức năng, Nghiên cứu Okonkwo thực hiện năm 2014<br />
<br />
<br />
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 21<br />
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5* 2019<br />
<br />
cho thấy đối với nhóm người cao tuổi có hoạt điểm đánh giá nhận thức trên thang ADAS-cog<br />
động thể chất, ít có các thay đổi liên quan đến và thang MMSE. Chính vì vậy kết luận cho thấy<br />
tuổi tác đối với Aβ, sự chuyển hóa đường máu, chương trình kích thích nhận thức có lợi cho<br />
thể tích hồi hải mã, trí nhớ ngắn hạn, năng lực nhận thức ở những người SSTT từ nhẹ đến trung<br />
thị giác trong không gian so với nhóm người cao bình hơn và hơn bất kỳ tác dụng thuốc nào(17).<br />
tuổi không hoạt động thể chất đủ(13). Chính vì Hoạt động trị liệu tham gia điều trị thông<br />
vậy tập thể dục là một phương pháp có giá trị qua 2 phương thức: trị liệu cá nhân, trị liệu<br />
lúc nào cũng dương tính trên các nghiên cứu nhóm với mục đích và cách tiếp cận tương đối<br />
phòng ngừa ngăn ngừa chuyển từ tình trạng suy khác nhau(15).<br />
giảm trí nhớ suy giảm nhận thức nhẹ sang SSTT<br />
Trị liệu cá nhân<br />
tỉ lệ rất tốt(8).<br />
Là hoạt động cộng tác với khách hàng<br />
Liệu pháp can thiệp nhận thức (Cognitive<br />
(KH) trong việc xác định các lĩnh vực đang<br />
Interventions)<br />
khó khăn, khuyến khích hoạt động thể chất và<br />
Được chia làm 3 nhóm: hành vi khỏe mạnh. Đối với KH có các vấn đề<br />
Tập luyện nhận thức (Cognitive Training) nhẹ về trí nhớ và mất chú ý giúp KH và người<br />
Sử dụng cho những người chưa bị quên, chăm sóc thiết lập thói quen hằng ngày và dán<br />
chưa bị suy giảm nhận thức hoặc rất nhẹ những nó ở vị trí trung tâm. Nếu KH giảm sút hiệu<br />
bài tập ví dụ như chơi cờ, game trên máy tính suất công việc khám phá ý nghĩa của những<br />
chuyên về trí nhớ MindMate. hoạt động và những thay đổi vai trò đối với<br />
khách hàng và người chăm sóc. Xác định các<br />
Phục hồi nhận thức (Cognitive Rehabilitation)<br />
môi trường phù hợp, hoặc thích nghi cho<br />
Điều trị cho những người bắt đầu giảm chức<br />
những hoạt động mà nó là một thử thách hiện<br />
năng nhận thức, việc điều trị dựa trên khám xét<br />
tại của khách hàng. Các hoạt động huấn luyện<br />
xem chức năng nào bị giảm để tập luyện cho<br />
được cá nhân hoá phù hợp theo tình trạng sức<br />
phù hợp ví dụ như bệnh nhân giảm chú ý tập<br />
khoẻ, các khiếm khuyết hiện có cũng như tận<br />
trung thì cho những bài tập chú ý tập trung,<br />
dụng các thế mạnh của KH.<br />
bệnh nhân giảm khả năng tính toán điều hành sẽ<br />
Để hoạt động trị liệu có hiểu quả và giúp KH<br />
có bài tập riêng.<br />
không rút lui khỏi cuộc điều trị người kỹ thuật<br />
Kích thích nhận thức (Cognitive Stimulation) viên cần giải thích cho người chăm sóc và người<br />
Đối với bệnh nhân bị SSTT nhẹ vừa nặng. bệnh sự quan trọng của môi trường trong việc<br />
Những người bệnh sẽ ngồi chung với nhau và xử lý chứng mất trí. Hướng dẫn người bệnh duy<br />
hỗ trợ cho nhau thực hiện những bài tập kích trì các thói quen và thiết kế hỗ trợ môi trường<br />
thích nhận thức. phương pháp này được sử (vd: danh sách, áp phích, và tranh ảnh) và mức<br />
dụng rất nhiều trên thế giới với những nhóm độ hỗ trợ (những tín hiệu, gợi ý).<br />
“Day care center” - trung tâm điều trị ban ngày<br />
Đối với những KH có khuynh hướng mất trí<br />
hay nhà trẻ dành cho người già để người già<br />
nhớ trung bình như mất các vật có giá trị như<br />
được đưa đến hàng ngày để thực hiện chức năng<br />
chìa khóa nhà, khó khăn trong việc học các<br />
nhận thức.<br />
nhiệm vụ mới và giải quyết vấn đề. Cần hỗ trợ<br />
Hiện nay người ta nhận thấy rằng kích thích người bệnh thông qua phân tích và hướng dẫn<br />
nhận thức là phương pháp cải thiện chức năng các hoạt động thích nghi có ý nghĩa để tăng<br />
nhận thức dành cho bệnh nhân SSTT như một cường sự tham gia một cách an toàn, tránh các<br />
phân tích năm 2012 trên tạp chí Cochrane thì nhiệm vụ liên quan đến việc học điều mới, đơn<br />
việc kích thích nhận thức này cải thiện thang giản hóa môi trường xung quanh và nhiệm vụ,<br />
<br />
<br />
22 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Tổng Quan<br />
<br />
làm các đồ vật có thể tiếp cận được, đơn giản hóa trọng có thể quên đi tên các thành viên trong<br />
sự hướng dẫn. gia đình, trở nên bối rối với những điều quen<br />
Đối với các KH suy yếu vừa phải trong ADL thuộc xung quanh. Trong thực hiện các hoạt<br />
cao cấp (mua sắm, tài chính) thiết kế các cách để động ADL (vệ sinh, cho ăn) hướng dẫn người<br />
thích nghi với các hoạt động, cung cấp các hỗ trợ chăm sóc về những điều cần thiết cho như<br />
nhận thức (bằng lời) cho các hoạt động IADL. thực hiện các giao tiếp đơn giản, khẩu lệnh<br />
Duy trì sự tham gia về các hoạt động có ý nghĩa ngắn, gợi ý bằng lời từng bước hướng dẫn thể<br />
và những vai trò phản ứng thay thế. Để xử lý chất; khuyến khích người chăm sóc sử dụng<br />
hành vi tấn công dạy cho chăm sóc cách xác định chương trình nghỉ ngơi và duy trì các hoạt<br />
vấn đề, hiểu các nguyên nhân có thể có của hành động vui chơi cá nhân.<br />
vi đó (ví dụ: cảm nhận, các sự kiện trước đây, ai, Trong trường hợp KH không thể giao tiếp<br />
ở đâu, khi nào,vấn đề y tế, nhiệm vụ hoặc môi ngoại trừ lẩm bẩm hoặc nói những từ đơn.<br />
trường, vấn đề giao tiếp). Giúp người bệnh thích Không thể đi hoặc ăn có thể cần trợ giúp từ cơ sở<br />
nghi hành vi bản thân hoặc thay đổi môi trường. điều dưỡng tại nhà thì nên sử dụng các kỹ thuật<br />
Đối với những KH không thể thực hiện hầu về khó nuốt để thúc đẩy nuốt, ngăn ngừa sặc,<br />
hết những IADL cao cấp. Về ADL, sự hỗ trợ là khuyến khích ăn; hướng dẫn gia đình các kỹ<br />
cần thiết cho các hoạt động đi vệ sinh, vệ sinh cá thuật dịch chuyển, phòng ngừa co rút bằng đặt<br />
nhân, ăn uống và mặc quần áo. Dạy học các kỹ vị thế đúng và các bài tập ROM, hướng dẫn gia<br />
thuật như định hình (khuyến khích cũng cố dần đình kiểm tra da, cung cấp sự kích thích cảm<br />
dần để tạo ra hành vi mục tiêu), xâu chuỗi hoạt giác có kiểm soát bao gồm âm thanh, sờ chạm,<br />
động trong các phương pháp huấn luyện chuỗi thị giác để duy trì sự tiếp xúc với thực tại.<br />
ngược, chuỗi xuôi (liên kết các kỹ năng thành Trị liệu nhóm<br />
phần để dạy một hành vi phức tạp, làm mẫu Thường áp dụng cho một nhóm KH có cùng<br />
(học thông qua sự quan sát và bắt chước) một đặc điểm về nhận thức hay khó khan khi<br />
Đối với những KH bắt đầu các dấu hiệu của thực hiện hoạt động. Mục tiêu sử dụng phuơng<br />
mất kiểm soát tiêu tiểu, có các hành vi đi lang thức này giúp tạo sự gắng kết liên hệ giữa các<br />
thang. Người chăm sóc hay gia đình cần đảm thành viên ,tương tác giao tiếp với nhau; cung<br />
bảo sự an toàn ở nhà và ở những môi trường cấp hy vọng cho sự thay đổi tích cực, giúp họ<br />
khác thông qua sự thích nghi. Các ví dụ có thể nhận ra rằng mình không phải là người duy<br />
dùng là báo thức giúp xác định thời điểm cho nhất có vấn đề, tăng giá trị bản thân, phát triển<br />
từng hoạt động thường ngày, tránh sử dụng các kỹ năng hòa nhập xã hội, tạo điều kiện học tập<br />
thiết bị nhiệt và những dụng cụ sắc nhọn; chốt các hành vi tích cực thông qua bắt chước; giúp<br />
phòng lại và ban đêm, đeo vòng tay nhận dạng; các thành viên học tập lẫn nhau có thể trải<br />
sử dụng những tín hiệu gợi ý thị giác để định vị nghiệm, cung cấp phản hồi ngay lập tức. Các<br />
vị các đồ vật, khuyến khích sự di chuyển dự hình thức tập luyện được áp dụng rất đa dạng<br />
phòng hoặc được hỗ trợ và tập thể dục thường tuy nhiên chương trình học tập thường lặp đi lặp<br />
xuyên. Ở môi trường mới, gợi ý và hỗ trợ khách lại để giúp KH hình thành trí nhớ, thói quen<br />
hàng trong việc định hướng, cung cấp thêm ánh giúp duy trì, tăng kỹ năng xử lý phản xạ, tăng kỹ<br />
sáng và những biểu thị bằng hình ảnh để gợi ý, năng vận động, hỗ trợ sinh hoạt độc lập trong<br />
duy trì sự nhất quán của thối quen sinh hoạt ADL và IADL. Thông thường một buổi học<br />
hàng ngày để tạo điều kiện thuận lợi cho sự trong trị liệu nhóm gồm nhiều phần khác nhau<br />
tham gia vào những tác vụ. tuy nhiên luôn luôn có các phần cơ bản như sau:<br />
Đối với những KH suy yếu trí nhớ trầm Kích thích nhận thức.<br />
<br />
<br />
<br />
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 23<br />
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5* 2019<br />
<br />
Hoạt náo trí óc. 2018 nghiên cứu của tác giả Avila có tên là “Thúc<br />
Vận động tay chân. đẩy độc lập chức năng ở những người mắc bệnh<br />
Alzheimer: kết quả của một can thiệp Hoạt động<br />
Chơi vận động theo nhóm.<br />
trị liệu tại nhà ở Tây Ban Nha”. Hoạt động trị<br />
Tập luyện nhận thức dãy số.<br />
liệu đang hứa hẹn là một phương thức các thiệp<br />
Cung cấp vốn từ. có hiệu quả cho những người mắc bệnh<br />
Khéo tay xếp giấy. Alzheimer (AD). Nghiên cứu này cung cấp bằng<br />
Tập hát. chứng cho thấy can thiệp hoạt động trị liệu tại<br />
nhà chuyên sâu có ảnh hưởng tích cực đến các<br />
Bài tập về nhà.<br />
hoạt động hàng ngày và một số chức năng nhận<br />
Hỗ trợ người chăm sóc.<br />
thức, cho thấy chương trình này có thể có ích<br />
Phòng ngừa bệnh. như một công cụ bổ sung phi phẫu thuật trong<br />
Ngoài ra hiện nay trên thế giới đang áp dụng chăm sóc sức khỏe và xã hội cho những người<br />
một số cách can thiệp mới, được nghiên cứu cho mắc AD sống trong cộng đồng(3).<br />
thấy có kết quả bệnh nhân SSTT và suy giảm KẾT LUẬN<br />
nhận thức. Trong năm 2015-2017 liệu pháp kích<br />
thích não bằng điện hoặc từ trường của Nguyen Việc điều trị SSTT không chỉ dựa vào một số<br />
thực hiện với phương pháp cho bệnh nhân làm khía cạnh đơn thuần như thuốc và chế độ ăn mà<br />
những bài học rồi trong quá trình tập nhận thức phải kết hợp tập luyện não bộ và tập thể dục<br />
sẽ kích thích bằng từ trường hoặc kích thích điện tăng cường thể chất thường xuyên thông qua<br />
bằng những điện cực gắn bên ngoài não rồi sau tiếp cận các phương thức trị liệu đa chuyên<br />
đó lặp lại liên tục trong liệu trình 5 tuần, 5 ngày 1 ngành. Mặc dù điều trị không dùng thuốc (NPT)<br />
tuần. Sau 6 tháng kiểm tra đánh giá lại MMSE, thường được áp dụng theo cách tiếp cận đa<br />
thang điểm ADAS-Cog score có sự cải thiện ngành đối với SSTT, nhưng bằng chứng hỗ trợ<br />
điểm rõ rệt. Kết quả nghiên cứu này mở ra cách cho việc sử dụng chúng vẫn còn sơ bộ. Các<br />
điều trị mới cho bệnh nhân. Đây là phương pháp nghiên cứu tập trung ở các nước trên thế giới<br />
mới trong việc hỗ trợ hiệu quả điều trị(10). Một thực hiện trên dân số của họ hiện tại chưa có ở<br />
nghiên cứu khác về một hương pháp tiếp cận đa Việt Nam. Một số nghiên cứu cho thấy tác dụng<br />
ngành đối với bệnh Alzheimer và chứng SSTT có ý nghĩa thống kê của điều trị không dùng<br />
đánh giá tường thuật về điều trị không dùng thuốc đối với một số kết quả, nhưng ý nghĩa lâm<br />
thuốc của tác giả ZucchellaC năm 2018 về điều sàng của chúng là không chắc chắn. Cần thiết có<br />
trị phi dược lý (NPT). Nghiên cứu bao gồm một các nghiên cứu ngẫu nhiên có nhóm chứng để<br />
loạt các phương pháp và kỹ thuật, có thể đóng khám phá hiệu quả của NPT trong SSTT, các<br />
một vai trò trong điều trị Alzheimer (AD) và nghiên cứu sâu hơn để đưa ra cơ sở sinh học<br />
chứng mất trí. Mục đích để xem xét, với một thần kinh về tác dụng của NPT và so sánh hiệu<br />
cách tiếp cận tường thuật, bằng chứng hiện tại quả chi phí của nó ở những bệnh nhân mắc<br />
về NPT chính cho AD và SSTT. Kết quả cho thấy chứng SSTT.<br />
NPT có vai trò lớn trong điều trị AD và chứng Có thể thấy hiện trạng người bị SSTT không<br />
SSTT. Các loại NPT chính đã được xem xét bao ngừng gia tăng trên thế giới và cả ở Việt Nam<br />
gồm tập thể dục và phục hồi chức năng vận nhưng hiện tại ở nước ta việc chẩn đoán và điều<br />
động, phục hồi nhận thức. NPT gồm công nghệ trị còn mới, số lượng người được khám và điều<br />
thông tin và truyền thông, hỗ trợ công nghệ và trị còn hạn chế bên cạnh những người chưa<br />
domotics, thực tế ảo, chơi game và điện ảnh(18). được khám và được điều trị. Đơn vị trí nhớ ra<br />
Trên tạp chí Chăm sóc sức khỏe cộng đồng đời có vai trò thiết thực để hỗ trợ bệnh nhân<br />
<br />
<br />
<br />
24 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Tổng Quan<br />
<br />
SSTT giúp cung cấp thông tin cần thiết liên tục 6. Folstein MF, Folstein SE, McHugh PR (1975). "Mini-mental<br />
state". A practical method for grading the cognitive state of<br />
cho KH, hoạt động đa chuyên khoa, xây dựng patients for the clinician. J Psychiatr Res,12(3):189-98.<br />
dựa trên nền tảng có sẵn của bệnh viện nên tính 7. Frisoni GB, Winblad B, O'Brien JT (2011). Revised NIA-AA<br />
khả thi cao. Mô hình đơn vị Trí nhớ cần nhân criteria for the diagnosis of Alzheimer's disease: a step forward<br />
but not yet ready for widespread clinical use. Int Psychogeriatr,<br />
rộng ở các bệnh viện, trung tâm PHCN để có thể 23(8):1191-6.<br />
tiếp nhận, phát hiện sớm và điều trị cho bệnh 8. Livingston G, Sommerlad A, Orgeta V, Costafreda SG, et al<br />
nhân một cách hiệu quả, toàn diện hơn. Bên (2017). Dementia prevention, intervention and care. Lancet,<br />
cạnh đó việc nâng cao kiến thức cho bệnh nhân, 390(10113):2673-2734.<br />
9. Martin P, Anders W, Maëlenn G, Gemma-Claire A, Yu-Tzu W<br />
người chăm sóc bằng cách quảng bá, áp phích<br />
and Matthew P (2015). The Global Impact of Dementia An<br />
tuyên truyền và tờ rơi cũng có vai trò hết sức analysis of prevalence, incidence, cost and trends updates ADI's<br />
quan trọng. Trong tương lai nên tổ chức các buổi global dementia data. World Alzheimer Report, pp.1-78.<br />
<br />
hội thảo, đào tạo, nghiên cứu cho nhân viên giúp 10. Nguyen JP, Suarez A, Kemoun G, et al (2017). Repetitive<br />
transcranial magnetic stimulation combined with cognitive<br />
nâng tăng năng lực chuyên môn và hỗ trợ người training for the treatment of Alzheimer's disease. Neurophysiol<br />
bệnh tốt hơn. Clin.,47(1):47-53.<br />
11. Nguyen TA, Nguyen H, Pham T, Nguyen TH, Hinton L (2018).<br />
Một khi đã phát hiện những dấu hiệu về<br />
A cluster randomized controlled trial to test the feasibility and<br />
SSTT cần được thăm khám sớm để được điều trị preliminary effectiveness of a family dementia caregiver<br />
hiệu quả và tham gia các lớp trị liệu nhóm hay intervention in Vietnam: The REACH VN study protocol.<br />
Medicine, 97(42):e12553.<br />
trị liệu cá nhân, tập luyện kích thích nhận thức<br />
12. Nguyen VK (2009). A study of dementia characteristics in<br />
của các chuyên gia về Hoạt động trị liệu. Vai trò community. J Pract Med, 10:16–8.<br />
của hoạt động trị liệu giúp bệnh nhân tập luyện 13. Okonkwo OC, Schultz SA, Oh JM, et al (2014). Physical activity<br />
tìm ra sự cân bằng trong cuộc sống đảm bảo an attenuates age-related biomarker alterations. Neurology,<br />
83(19):1753-60.<br />
toàn trong việc duy trì sự độc lập, luyện tập trí<br />
14. Seitz DP1, Chan CC, Newton HT, Gill SS, Herrmann N,<br />
nhớ với những bài tập đơn giản phù hợp được Smailagic N, Nikolaou V, Fage BA (2018). Mini-Cog for the<br />
cá nhân hoá phù hợp với tình trạng và nhu cầu diagnosis of Alzheimer's disease dementia and other dementias<br />
của người bệnh. within a primary care setting. Cochrane Database Syst Rev, doi:<br />
10.1002/14651858.CD011415.pub2.<br />
TÀI LIỆU KHAM KHẢO 15. Smallfield S, Heckenlaible C (2017). Effectiveness of<br />
Occupational Therapy Interventions to Enhance Occupational<br />
1. Alzheimer's Association (2017). Alzheimer's disease facts and<br />
Performance for Adults With Alzheimer's Disease and Related<br />
figures. Alzheimer's Association, 13(4):325-373.<br />
Major Neurocognitive Disorders: A Systematic Review. Am J<br />
2. American Psychiatric Association (2000). Diagnostic and Occup Ther, 71(5):7.<br />
Statistical Manual of Mental Disorders, 4th Edition. Text Revision,<br />
16. Vũ Anh Nhị (2008). Bệnh Alzheimer, Sa sút trí tuệ. NXB Y học,<br />
Washington DC.<br />
pp.31-37.<br />
3. Ávila A, De-Rosende-Celeiro I, Torres G, Vizcaíno M, Peralbo M,<br />
17. Woods B, Aguirre E, Spector AE, Orrell M (2012). Cognitive<br />
Durán M (2018). Promoting functional independence in people<br />
stimulation to improve cognitive functioning in people with<br />
with Alzheimer's disease: Outcomes of a home-based<br />
dementia. Cochrane Database Syst Rev, doi:10.1002/14651858.CD005562.<br />
occupational therapy intervention in Spain. Health Soc Care<br />
Community, pp.11. 18. Zucchella C, Sinforiani E, Tamburin S, et al.(2018). The<br />
Multidisciplinary Approach to Alzheimer's Disease and<br />
4. Baumgarta M, Snyderb H, Carrillob M, et al (2015). Summary of<br />
Dementia. Front Neurol, 9(1058):1-22.<br />
the evidence on modifiable risk factors for cognitive decline and<br />
dementia: A population-based perspective. Alzheimers Dement,<br />
11(6):718-26. Ngày nhận bài báo: 20/07/2019<br />
5. Boustani Malaz, Callahan CM, et al (2005). Implementing a Ngày bài báo được đăng: 10/10/2019<br />
Screening and Diagnosis Program for Dementia in Primary<br />
Care. J Gen Intern Med, 20(7):572–577.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 25<br />