Vai trò của mã vạch trong hoạt động thư viện
Mã vạch bắt đầu được áp dụng vào thực tế công tác thông tin thư viện ở
những nước công nghiệp phát triển đặc biệt là ở Hoa Kỳ và Pháp khoảng đầu
những năm 1980, nhất là sau khi chỉ s ISBN (International Standard Book
Number) và ISSN (International Standard Serial Number) được tạo lập, để
kiểm soát nguồn sách báo trên phạm vi toàn thế giới và có liên quan cht ch
với quá trình tin học hoá thư viện.
Vào cui những năm 1980, một số nước thành viên của hệ thống IBSN đã đạt
tới trình độ mới trong việc tổ chức đối thoại trên máy và kiểm tra điện tử việc
thực hiện các đơn hàng. Các mã sđã được cải tiến thành dạng đọc trên máy.
Mã vạch được phản ánh trên nhiều loại hàng hoá, trong đó có cả xuất bản
phẩm của nhiều nước. Trong nhiều kiểu mã vạch thì kiểu được thế giới yêu
chuộng hơn cả là kiểu của Châu Âu EAN (European Article Number)
Ở nhiều nước, mã vạch đã dùng làm ký hiệu của các kiện sách gửi qua bưu
điện. Chẳng hạn như ở Mỹ có tiêu chuẩn về mã vạch thông tin trên các kiện
sách, trong đó ghi rõ ISBN, giá, s lượng bán, kiểu bìa, số lượng đặt, số đơn
đặt. Các hệ thống đặt sách từ xa trên cơ sở mã vạch đầu tiên được hoạt động
ở Cộng hoà Liên bang Đức vào giữa những năm 1980. Hệ thng đặt sách từ
xa là một tổ hợp các hệ thng điện tử kiểm tra các kho, nghiên cứu nhu cầu
bạn đọc, hệ thống đơn đặt của các công ty phát hành sách và các thư viện
chuyển đến nhà xuất bản. Cơ sở của nó là sự liên lạc trực tiếp của máy tính
đầu cuối với các nguồn thông tin thư mục.
Ở Pháp, hệ thống tự động hoá công tác thư mục sách phát hành đơn đặt từ
xa có thiết bị dùng để thống kê tất cả các thao tác và chuẩn bị nhãn có ghi mã
vạch. Nhãn được dán hoặc gài vào sách. Nhãn của những sách đã bán được
người bán giữ lại để nghiên cứu giải quyết vấn đề bổ sung mặt hàng, mã vạch
tự động tái hin trên ISBN
Vào cui những năm 1980, các thư viện thuộc trường Đại học Tổng hợp ở
bang Alânt Hoa K đã áp dụng mã vạch để kiểm soát quá trình xuất tài liu
có liên quan đến sử dụng mục lục công cộng online (OPAC)
Cũng trong thời gian này, ở Châu Mỹ Latinh, nhiu quan ISBN quốc gia
trong đó có Braxil, Chilê đã có những nỗ lực đáng kể trong việc nghiên cứu
áp dụng mã vạch hoá chỉ số này. Ở Anh, thu viện trường Đại học Tổng hợp
Kembrit hệ thống kiểm tra tự động việc sử dụng kho được cấu tạo từ 56
terminal và các thiết bị dò tìm mã vạch, các thiết bị này được nối với các hệ
thng mục lục điện t và hệ thống chuẩn bị dữ liệu. Những xu hướng tương
tự cũng xuất hiện ở nhiều nước khác. Nhiều thư viện ở Ấn Độ và các nước
Đông Nam Á cũng đã sử dụng mã vạch trong công tác phục vụ bạn đọc.
Ứng dụng công nghệ mã vạch trong lưu thông tài liệu
Đối với các thư viện ở nước ta, việc áp dụng mã vạch trong lưu thông tài liệu
đang được áp dụng một cách rộng rãi. Đầu tiên phải kể đến đó là Trung tâm
thông tin Tư liệu khoa học và Công nghệ Quốc gia là đơn vị đi đầu trong việc
sử dụng mã vạch, kế đến là các thư viện thuộc các trường Đại học Khoa học
tự nhiên, Đại học Sư phạm kỹ thuật, Đại học Nông lâm ....
Các thư viện đã s dụng các hệ thống để lưu trữ và truy nhập thông tin về bạn
đọc và tài liệu có liên quan đến việc cho mượn tài liệu. Phần mềm của hệ
thng này sử dụng kỹ thuật nhận dạng đọc mã vch in trên các nhãn đặc biệt
dán chặt vào tài liệu lưu thông và thẻ đọc của người mượn.
Trước hết chúng ta phải có một tệp dữ liệu gồm các biểu chứa đựng các
thông tin v bạn đọc, bao gồm: mã sbạn đọc, sthẻ, địa chỉ, điện thoại, nơi
công tác, nghề nghiệp... Mã số của bạn đọc được nhập vào cơ sở dữ liệu của
bạn đọc đồng thời được mã hoá dưới dạng mã vạch để gắn vào thẻ bạn đọc.
Một cơ sở dữ liệu thứ hai chứa đựng các thông tin về sách như là tên sách, tác
giả ,mã scủa sách (ký hiệu sách), nhà xut bản, năm xuất bản... cũng được
mã hoá dưới dạng mã vạch và gn vào sách theo như trong cơ sở dữ liệu. Nói
một cách khác, khi bạn đọc mượn sách, họ xuất trình thẻ, nhân viên thư viện
đưa vào chế độ cho mượn rồi dùng đầu đọc quét lên nhãn mã vạch của thẻ
bạn đọc, sau đó quét lên mã vạch của tài liệu mà bạn đọc muốn mượn. Máy
tính sẽ lưu toàn bộ thông tin về một bạn đọc đã mượn những loại sách nào,
tên sách, ký hiệu cuốn sách, thời gian mượn... Khi bạn đọc trả, nhân viên thư
viện sẽ đưa vào chế độ sách trả rồi dùng đầu đọc mã vch quét lên nhãn mã
vạch của thẻ bạn đọc, sau đó quét lên mã vạch của sách mà bn đọc muốn trả
. Máy tính sẽ tự động đánh dấu số sách bạn đọc đã trả, thời gian trả sách... Số
sách này sẽ trở về kho tài liệu trong tình trạng chưa có người mượn. Nhân
viên thư viện có thể biết được hiện trạng về sách, về bạn đọc ncác loại
sách đang có người mượn, loại sách đã quá hạn, thời gian quá hạn là bao
nhiêu ngày.
Ở nhiều thư viện nước ngoài, bạn đọc sử dụng thẻ thư viện có mã vạch mà h
thng tự động kiểm soát mượn có thể tiếp thu được. Hiện nay, các máy vi