VIÊM MÀNG NGOÀI TIM CẤP
I. Viêm màng ngoài tim do virus
Nguyên nhân chủ yếu do Coxackie virus nhóm B và Echovirus gây ra. Chẩn
đoán dựa vào dấu hiệu nhiễm virus đường hô hấp, đau ngực xuất hiện sau đó
với biến đổi ĐTĐ và cuối cùng là các xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán. Đại
đa số các trường hợp bệnh tự khỏi. Đôi khi có thể dẫn đến các biến chứng như
viêm cơ tim, tái phát viêm màng ngoài tim, tràn dịch màng tim, ép tim và
viêm màng ngoài tim co thắt. Dấu hiệu lâm sàng và điều trị như trong các
trường hợp viêm màng ngoài tim không rõ nguyên nhân.
II. Viêm màng ngoài tim do lao
A. Triệu chứng lâm sàng
Tất cả các trường hợp viêm màng ngoài tim có sốt lai dai, nhất là về chiều
thì trước hết cần phải nghĩ đến viêm màng ngoài tim do lao.
1. Dấu hiệu lâm sàng điển hình thường đến muộn, đại đa số các bệnh nhân chỉ
có biểu hiện khó thở, sốt, ớn lạnh và ra mồ hôi về chiều tối.
2. Dấu hiệu ứ trệ ngoại biên trên lâm sàng hay gặp hơn dấu hiệu đau ngực và
tiếng cọ màng ngoài tim.
B. Nguyên nhân: Viêm màng ngoài tim do lao là nguyên nhân hàng đầu dẫn
đến viêm màng ngoài tim co thắt. Viêm màng ngoài tim gặp khoảng từ 1 đến 2%
các trường hợp lao phổi.
C. Các xét nghiệm chẩn đoán
1. Điện tâm đồ: Đoạn ST chênh lên kinh điển thường không thấy trong viêm
màng ngoài tim do lao.
2. Chụp tim phổi: thấy dấu hiệu của lao phổi mới hoặc cũ trong một số các
trường hợp và dấu hiệu bóng tim to ra do có dịch ở màng ngoài tim.
3. Cấy tìm vi khuẩn lao BK (AFB): là xét nghiệm đặc hiệu cho chẩn đoán.
Dịch cấy có thể lấy từ các dịch tiết của cơ thể (đờm, dịch dạ dày, dịch màng
phổi...) hay từ chính dịch chọc hút của màng ngoài tim.
4. Xét nghiệm máu: thường tăng bạch cầu đa nhân giai đoạn sớm và bạch cầu
lympho giai đoạn muộn hơn, máu lắng thường tăng trong đa số các trường hợp.
5. Siêu âm tim: Thấy dấu hiệu có dịch ở khoang màng tim với nhiều sợi fibrin,
đồng thời có thể có dấu hiệu màng ngoài tim dày hơn so với bình thường.
D. Điều trị
1. Rifampicin 600mg/ngày, Isoniazid 300mg/ngày, Pyridoxine 50mmg/ngày
phối hợp với Streptomycin 1g/ngày hoặc Ethambutol 15mg/kg/ngày trong 6 đến 9
tháng.
2. Cần sớm phẫu thuật cắt màng ngoài tim trong các trường hợp tràn dịch tái
phát gây ép tim nhiều lần hay màng ngoài tim dày nhiều dẫn đến viêm màng ngoài
tim co thắt.
Viêm màng ngoài tim là một tình trạng bệnh lý có nguồn gốc do phản ứng viêm
của màng ngoài tim với các triệu chứng chính là đau ngực, tiếng cọ màng ngoài
tim và các biến đổi điện tâm đồ. Bệnh hay gặp ở nam giới hơn so với nữ giới.
Các thể bệnh và nguyên nhân gây bệnh của viêm màng ngoài tim cấp rất đa dạng.
Nguyên nhân hay gặp nhất là: viêm màng ngoài tim cấp vô căn, do virus, do vi
khuẩn (nhất là vi khuẩn lao), tăng urê máu, sau nhồi máu cơ tim, ung thư và chấn
thương.
I. Viêm màng ngoài tim cấp không rõ căn nguyên
Có khá nhiều các trường hợp viêm màng ngoài tim cấp không tìm thấy nguyên
nhân gây bệnh, người ta cho rằng đại đa số các trường hợp này có nguồn gốc do
virus. Tuy nhiên việc phân lập tìm ra chính xác virus gây bệnh hiện còn gặp nhiều
khó khăn về mặt kỹ thuật.
A. Triệu chứng lâm sàng
1. Triệu chứng cơ năng:
a. Đau ngực do viêm màng ngoài tim thường đau ở sau xương ức, đau buốt, có
thể mức độ nặng dữ dội nhưng cũng có thể âm ỉ kéo dài suốt ngày, đau thường lan
lên cổ và ra sau lưng. Kinh điển đau thường tăng lên khi ho và khi hít vào sâu.
b. Thường kèm theo sốt và dấu hiệu đau mỏi cơ như các trường hợp nhiễm
virus thông thường.
c. Khó thở đôi khi có thể gặp nhưng thông thường xuất hiện sau giai đoạn đau
ngực khi viêm màng ngoài tim cấp diễn biến thành tràn dịch màng ngoài tim.
d. Bệnh nhân thường cảm giác căng thẳng, buồn bã và khó chịu.
2. Triệu chứng thực thể:
a. Nghe tim là dấu hiệu chủ yếu để chẩn đoán. Nghe thấy có tiếng cọ màng
ngoài tim. Tiếng cọ thường thô, ráp, rít, có âm độ cao. Nó có thể thay đổi theo thời
gian và tư thế bệnh nhân hoặc khi bệnh nhân hít vào sâu. Kinh điển tiếng cọ sẽ có
ba thời kỳ tương ứng với tâm nhĩ co, tâm thất co và tiền tâm trương. Tuy nhiên,
thông thường chúng ta chỉ nghe thấy tiếng cọ trong thời kỳ tâm nhĩ và tâm thất
co, thậm chí chỉ nghe thấy trong một thời kỳ nhất định mà thôi.
b. Vị trí tốt nhất để nghe thấy tiếng cọ màng ngoài tim là ở phía thấp của bờ trái
xương ức, khi bệnh nhân ngồi hơi cúi ra trước và hít sâu vào rồi nín thở.
B. Các xét nghiệm chẩn đoán
1. Điện tâm đồ (ĐTĐ): Kinh điển ĐTĐ sẽ diễn biến qua 4 giai đoạn. Đây là
xét nghiệm rất có giá trị để chẩn đoán xác định, chẩn đoán phân biệt và đánh giá
giai đoạn viêm màng ngoài tim cấp.
a. Giai đoạn đầu thường xuất hiện vài giờ sau cơn đau ngực đầu tiên. Đây là
giai đoạn rất khó phân biệt với dấu hiệu tái cực sớm hay nhồi máu cơ tim cấp trên
điện tâm đồ. Kinh điển giai đoạn 1 sẽ gồm các dấu hiệu đoạn ST chênh lên đồng
hướng với sóng T dương ở các chuyển đạo trước tim.
b. Giai đoạn thứ hai xuất hiện vài ngày sau với đoạn ST trở về đường đẳng
điện, sóng T dẹt xuống.
c. Giai đoạn ba là giai đoạn sóng T âm đảo ngược.
d. Sau vài ngày đến vài tuần sóng T sẽ dương trở lại, đây là giai đoạn cuối cùng
của bệnh.
e. Nếu viêm màng ngoài tim cấp có tràn dịch màng tim, ĐTĐ có thể có dấu
hiệu điện thế giảm (nhất là ở các chuyển đạo ngoại vi) và dấu hiệu luân phiên điện
học.
Hình 22-1. Tiến triển trên điện tim từ giai đoạn VMNT cấp (trên) chuyển
sang giai đoạn bán cấp (dưới).
2. Chụp tim phổi: hình tim to thường chỉ thấy trong các trường hợp có tràn
dịch màng ngoài tim phối hợp và đây cũng không phải là dấu hiệu đặc hiệu giúp
chẩn đoán.
3. Cấy máu, cấy đờm và dịch hút dạ dày có khả năng giúp chẩn đoán một số
các trường hợp viêm màng ngoài tim phức tạp như do lao (sau 1 tuần), nhiễm
khuẩn huyết hay viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn.
4. Xét nghiệm máu: thường có tăng bạch cầu, máu lắng tăng và tăng men
creatine phosphokinase MB.
5. Siêu âm tim:
a. Siêu âm tim thường được chỉ định trong các trường hợp ở giai đoạn sau của
bệnh (vài tuần sau dấu hiệu lâm sàng đầu tiên xuất hiện) hay khi có biến đổi huyết
động tuy nhiên cũng có thể thực hiện thường quy trong tất cả các trường hợp để
chẩn đoán loại trừ. Dấu hiệu có thể gặp trên siêu âm là khoảng trống siêu âm do
dịch màng ngoài tim gây ra (8 đến 15% các trường hợp viêm màng ngoài tim cấp).
Hiếm gặp hơn có thể có dấu hiệu màng ngoài tim dày hơn so với bình thường.
b. Mặt khác trong các trường hợp bệnh nhân mới phẫu thuật tim hay nghi ngờ
có tràn dịch màng tim, lúc này siêu âm tim trở thành xét nghiệm khá quan trọng,
cần thực hiện nhiều lần để đánh giá sự tiến triển của bệnh.
6. Các xét nghiệm khác như siêu âm tim qua thực quản, chụp cắt lớp vi tính,
cộng hưởng từ hạt nhân có thể áp dụng trong một vài trường hợp cá biệt để nghiên
cứu kỹ hơn về màng ngoài tim.
C. Chẩn đoán phân biệt
1. Đau ngực do tách thành động mạch chủ, nhồi máu phổi, viêm phổi hay nhồi
máu cơ tim.
2. Biến đổi ĐTĐ cần phân biệt với các biến đổi do thiếu máu cơ tim cục bộ gây
ra. Diễn biến của đoạn ST và sóng T cho phép phân biệt trong đại đa số các trường
hợp. Tuy nhiên ở các trường hợp ST chênh lên lan tỏa các chuyển đạo cần làm
siêu âm để chẩn đoán loại trừ nhồi máu cơ tim (tìm rối loạn vận động vùng trên
siêu âm tim).
D. Điều trị
1. Nguyên lý chung: Đại đa số các trường hợp viêm màng ngoài tim cấp
không có biến chứng, bệnh sẽ tự khỏi và đáp ứng tốt với điều trị nội khoa.
a. Thuốc điều trị chủ yếu là thuốc kháng viêm không steroid.
b. Điều trị viêm màng ngoài tim có biến chứng tràn dịch màng ngoài tim hay
viêm màng ngoài tim co thắt sẽ được bàn luận ở những bài sau.
2. Điều trị nội khoa:
a. Ibuprofen 600 đến 800mg uống chia 3 lần trong ngày, trong 3 tuần hay
Indomethacin 25 đến 50mg uống chia 3 lần trong ngày, trong 3 tuần.
b. Trong các trường hợp bệnh nhân không đáp ứng với kháng viêm không
steroid hay trong trường hợp tái phát viêm màng ngoài tim có thể sử dụng
prednisone uống trong 3 tuần, cũng có thể dùng đường tiêm tĩnh mạch với
Methylprednisone trong các trường hợp nặng. Colchicine 1mg trong ngày cũng
được một vài nghiên cứu chỉ ra tính hiệu quả trong điều trị viêm màng ngoài tim
cấp.
3. Điều trị chọc dẫn lưu dịch màng ngoài tim qua da (tràn dịch màng tim
có ép tim): Chỉ áp dụng trong các trường hợp viêm màng ngoài tim có tràn dịch
nhiều, có ảnh hưởng đến huyết động hay trong trường hợp cần chọc dò để chẩn
đoán bệnh nguyên. Chọc dẫn lưu với gây tê tại chỗ có thể đặt dẫn lưu trong các
trường hợp dịch nhiều, tái phát liên tục.
4. Phẫu thuật:
a. Mở dẫn lưu màng ngoài tim ở dưới xương ức thường chỉ áp dụng trong các
trường hợp viêm màng ngoài tim do ung thư.
b. Phẫu thuật cắt màng ngoài tim thường áp dụng trong tràn dịch tái phát nhiều
hay viêm co thắt màng ngoài tim.
IV. Viêm màng ngoài tim sau nhồi máu cơ tim
Do viêm màng ngoài tim phối hợp với hoại tử cơ tim nên bệnh nhân có nguy
cơ suy tim ứ huyết và tỷ lệ tử vong trong vòng một năm cao. Trong nhóm các
bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp được tái tưới máu (tiêu sợi huyết hay nong
động mạch vành), tỷ lệ viêm màng ngoài tim thấp hơn ở nhóm điều trị bảo
tồn.
Viêm màng ngoài tim hay gặp trong các trường hợp nhồi máu cơ tim thành
trước rộng kéo dài vài giờ đến vài ngày sau nhồi máu.
A. Triệu chứng lâm sàng
Tất cả các trường hợp sau nhồi máu cơ tim cấp mà thấy bệnh nhân có tái
phát đau ngực và nghe tim có tiếng cọ màng ngoài tim thì cần phải nghĩ đến
viêm màng ngoài tim sau nhồi máu cơ tim.
B. Các xét nghiệm chẩn đoán
Điện tâm đồ cho thấy sóng T có thể dương cao hơn trong hai ngày hoặc
sóng T đảo ngược trước đó trở nên dương. Tuy nhiên, các dấu hiệu ĐTĐ
điển hình cho viêm màng ngoài tim thường không thấy rõ.
C. Điều trị
1. Aspirin là lựa chọn điều trị hàng đầu.
2. Chống chỉ định các thuốc kháng viêm không steroid do có thể gây co thắt
động mạch vành, còn các thuốc steroid thì lại có thể gây thủng tim trong viêm
màng ngoài tim sau nhồi máu co tim cấp.
V. Hội chứng Dressler
Xuất hiện vài tuần cho đến vài tháng sau nhồi máu cơ tim với tỷ lệ gặp
khoảng 1%. Sinh bệnh học còn chưa rõ ràng tuy nhiên người ta nghĩ nhiều
đến nguyên nhân do cơ chế tự miễn. Bệnh nhân thường có biểu hiện sốt, tràn
dịch màng phổi, tiếng cọ màng tim, màng phổi, xỉu và đau ngực nhiều. Điều
trị bằng Aspirin và thuốc chống viêm không steroid, nghỉ ngơi tại giường.
Nếu dùng thuốc chống đông có thể dễ gây ra tràn máu màng ngoài tim tuy
nhiên tiên lượng của hội chứng này thường rất tốt. Hãn hữu các trường hợp
không khống chế được phản ứng viêm mới phải dùng steroid để điều trị.
VI. Hội chứng sau mở màng ngoài tim
Hội chứng này cũng gần giống hội chứng Dressler, xuất hiện một tuần sau phẫu
thuật. Tỷ lệ gặp khoảng 10 đến 40% các trường hợp. Bệnh thường tự khỏi song
đôi khi kéo dài vài tuần. Điều trị bằng Aspirin, chống viêm không steroid,
Corticoid chỉ dùng trong các trường hợp không đáp ứng với điều trị. Biến chứng
có thể gặp là ép tim và hiếm gặp hơn là viêm màng ngoài tim co thắt.
VII. Viêm màng ngoài tim do tăng urê máu
A. Triệu chứng lâm sàng
1. Hay gặp ở các bệnh nhân vừa bắt đầu lọc máu, rất hay nghe thấy tiếng cọ
màng tim trên lâm sàng.
2. Thường gặp tràn dịch màng ngoài tim số lượng nhiều sau giai đoạn viêm
cấp.
B. Sinh bệnh học: Còn chưa thật rõ ràng cơ chế sinh bệnh học của bệnh và
không thấy mối liên hệ với nồng độ urê máu cũng như ngộ độc với sự xuất hiện
của viêm màng ngoài tim.
C. Điều trị
1. Điều trị nội khoa: Hạn chế sử dụng chống viêm không steroid; steroid nhiều
khi đạt hiệu quả tốt.
2. Điều trị dẫn lưu dịch màng ngoài tim qua da: Lọc máu là lựa chọn hàng
đầu cho các bệnh nhân viêm màng ngoài tim do tăng urê máu nếu có triệu chứng.
Nếu không có triệu chứng của hội chứng urê máu cao thì lọc máu không phải là
bắt buộc. Nếu tràn dịch màng tim số lượng nhiều với tăng bạch cầu, sốt hay có ép
tim thì việc chọc dẫn lưu dịch màng tim là cần thiết.
3. Điều trị ngoại khoa. Mở màng ngoài tim dưới xương ức, cắt màng ngoài
tim tối thiểu được chỉ định cho các trường hợp tái phát nhiều lần hoặc không hút
dẫn lưu dịch qua da được.
VIII. Viêm màng ngoài tim do ung thư
Đại đa số các trường hợp là do di căn đến màng ngoài tim (ung thư phổi, ung thư
vú, Hodgkin và không Hodgkin, lơ-xê-mi...). Ung thư nguyên phát màng ngoài
tim hiếm gặp có thể do sarcome, mesothelioma, teratoma hay fibroma.
A. Triệu chứng lâm sàng
1. Bệnh nhân thường không có triệu chứng lâm sàng gì đặc biệt, ngoài các triệu
chứng của bệnh lý ung thư. Viêm màng ngoài tim thường phát hiện khá muộn.
2. Có thể gặp dấu hiệu cơ năng là khó thở, tràn dịch màng phổi và đôi khi bệnh
nhân đến viện vì ép tim.
3. Cần sớm phát hiện ép tim ở các bệnh nhân ung thư khi đột ngột xuất hiện
khó thở, mệt mỏi hoặc phù.
B. Các xét nghiệm chẩn đoán
1. Điện tâm đồ (ĐTĐ): Các dấu hiệu ĐTĐ điển hình cho viêm màng ngoài tim
thường không thấy rõ. Biến đổi đoạn ST-T không đặc hiệu, đôi khi có thể thấy dấu
hiệu luân phiên điện học.
2. Xét nghiệm giải phẫu bệnh vi thể: tìm tế bào ung thư trong dịch chọc hút
màng ngoài tim hoặc các dịch tiết khác của cơ thể. Tỷ lệ gặp tế bào ác tính cao
trong dịch màng ngoài tim ở các bệnh nhân ung thư phổi, ung thư vú nhưng tỷ lệ
này thấp ở các bệnh nhân ung thư máu và các ung thư khác.
3. Siêu âm tim: giúp đánh giá mức độ tràn dịch màng tim, huyết động và theo
dõi sự diễn biến của bệnh.
C. Điều trị
1. Điều trị dẫn lưu dịch màng ngoài tim qua da:
a. Chọc dẫn lưu dịch màng tim: Rất tốt nếu có sự hướng dẫn của siêu âm, chỉ
định cho các bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng của tràn dịch màng ngoài tim mà
số lượng khá nhiều.
b. Dùng bóng nong màng ngoài tim là kỹ thuật nguy hiểm hơn, chỉ nên áp dụng
ở các bệnh nhân tái phát tràn dịch màng ngoài tim nhiều lần.
2. Phẫu thuật: có thể áp dụng một vài thủ thuật sau trong những trường hợp
cần thiết:
a. Mở màng ngoài tim dưới xương ức.
b. Làm cứng màng ngoài tim bằng Tetracycline với nước muối sinh lý. Biến
chứng có thể gặp của thủ thuật này là đau nhiều trong thủ thuật, rối loạn nhịp và
sốt.
c. Cắt màng ngoài tim. Phẫu thuật này không là lựa chọn hàng đầu cho các
bệnh nhân tràn dịch màng ngoài tim do ung thư.
IX. Theo dõi các trường hợp viêm màng ngoài tim
Các bệnh nhân viêm màng ngoài tim do virus hay không rõ nguyên nhân cần được
theo dõi trong vòng một tháng kể từ sau khi hết các triệu chứng lâm sàng để khẳng
định không có tái phát bệnh và không có viêm màng ngoài tim co thắt.
Các bệnh nhân có tràn dịch màng ngoài tim cần phải theo dõi định kỳ bằng siêu
âm để khẳng định không có tái phát hay tăng mức độ dịch trong khoang màng tim.
X. Biến chứng
A. Tái phát viêm màng ngoài tim
Thường gặp với tỷ lệ 20 đến 30% các trường hợp, hay gặp trong viêm màng
ngoài tim không rõ nguyên nhân, sau phẫu thuật tim hở, chấn thương, hội
chứng Dressler. Điều trị nếu không đáp ứng với kháng viêm không steroid
có thể dùng Prednisone 40-60mg/ngày từ 1 đến 3 tuần. Phẫu thuật được chỉ
định trong các trường hợp tái phát nhiều lần viêm màng ngoài tim có đau
ngực nhiều mà không đáp ứng với điều trị nội khoa. Phòng ngừa tái phát có
thể sử dụng Colchicine 1mg/ngày trong một thời gian với việc giảm dần
liều trước khi dừng hẳn. Tuy nhiên còn cần có thêm một số các nghiên cứu
lâm sàng để khẳng định vấn đề này.
B. Ép tim: chiếm khoảng 15% các trường hợp.
C. Viêm màng ngoài tim co thắt: khoảng 9% các trường hợp viêm màng ngoài
tim sẽ bị viêm dính màng ngoài tim mức độ từ trung bình trở lên.