
VỐN NHÂN LỰC TRONG NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN,
CHẾ TẠO TRƯỚC CUỘC CÁCH MẠNG 4.0
ThS. Nguyễn Thị Hồng1- ThS. Nguyễn Thị Cẩm Nhung2
Tóm tắt: Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu của thời đại. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
sẽ kéo theo sự biến đổi của nhân loại cả về quy mô, phạm vi và độ phức tạp của nó. Trong một số lĩnh vực,
theo dự báo, với sự xuất hiện của robot, số lượng người cần thiết sẽ chỉ còn 1/10 so với hiện nay. Đó là một
thách thức không hề nhỏ đặt ra đối với nguồn nhân lực ở nước ta. Bài viết tập trung làm rõ về vốn nhân lực,
phản ánh thực trạng và đưa ra đề xuất cải thiện, nâng cao vốn nhân lực trong ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo – ngành công nghiệp được coi là điểm sáng kinh tế của nước ta những năm gần đây nhưng cũng là
ngành chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi cuộc cách mạng 4.0.
Từ khóa: Vốn nhân lực; chế biến, chế tạo; cách mạng 4.0
Abstract: Globalization and international integration are vital trends of the times. The industrial revolution
4.0 will entail the transformation of humanity both in term of scale, sphere and complexity. In some areas,
according to the forecast, with the appearance of robots, the number of employees will be only one tenth
compared to today.This is not small challenge for human resources in our country. The article focuses on
clarifying human capital, reflecting the situation and making suggestions to improve and enhance human
capital in the processing and manufacturing industry - the industry is considered to be the economic bright
spot of the country in recent years, but also is the industry most affected by the 4th industrial revolution.
Keywords: human capital; processing and manufacturing; revolution 4.0.
1. VÀI NÉT VỀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Hiện nay, thế giới đang phát triển mạnh mẽ cuộc cách mạng với nền tảng công nghệ 4.0
(CMCN 4.0). Có rất nhiều tổ chức đã sử dụng các công nghệ khác nhau và tạo ra những giá trị
khác nhau. Những đột phá khoa học và công nghệ mới dường như là vô hạn, diễn ra trên rất nhiều
phương diện khác nhau và ở nhiều nơi khác nhau. Về bản chất, cách mạnh công nghiệp 4.0 là cuộc
cách mạng của khoa học và công nghệ, do đó, cuộc cách mạng này có những đặc điểm cơ bản sau:
• Hệ thống sản xuất điều khiển - vật lý (CPPS): là sự hợp nhất giữa thế giới vật lý và thế giới
ảo, là nền tảng cho việc xây dựng các nhà máy thông minh, nhà máy số ngày nay. CPPS là mạng
lưới giao tiếp trực tuyến giữa các máy móc với nhau, được tổ chức như mạng xã hội. Đơn giản chỉ
cần cấp địa chỉ mạng, chúng sẽ tạo liên kết IT với các thành phần cơ - điện tử, sau đó giao tiếp với
nhau thông qua hạ tầng mạng.
1 Email:hong174ulsa@gmail.com, Khoa Quản lý NNL, Trường Đại học Lao động - Xã hội.
2 Khoa Quản lý NNL, Trường Đại học Lao động – Xã hội

538 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
• Internet kết nối vạn vật (IoT) - là một liên mạng, trong đó các thiết bị, phương tiện vận
tải (được gọi là “thiết bị kết nối” và “thiết bị thông minh”), phòng ốc và các trang thiết bị khác
được nhúng với các bộ phận điện tử, phần mềm, cảm biến, cơ cấu chấp hành cùng với khả năng
kết nối mạng máy tính giúp cho các thiết bị này có thể thu thập và truyền tải dữ liệu
• Internet của các dịch vụ (IoS) - là công nghệ blockchain thế hệ tiếp theo, cung cấp mạng cơ
sở hạ tầng để hỗ trợ hệ sinh thái hướng dịch vụ. Nền tảng IoS không chỉ cung cấp cho người dùng
một cách hoàn toàn phi tập trung để trao đổi các dịch vụ trực tuyến và hàng hóa kỹ thuật số, mà
còn cho phép các nhà phát triển triển khai các ứng dụng công nghệ quy mô lớn với khả năng hỗ
trợ số lượng lớn người dùng
• Internet của dữ liệu (IoD) - trong trường hợp này, dữ liệu được quản lý và chia sẻ bằng công
nghệ Internet. Điều này là do hệ thống vật lý điện tử đang tạo ra dữ liệu lớn, có sự phát triển của
một nền văn hóa an ninh và an toàn toàn diện.
Cách mạng công nghiệp 4.0 là xu hướng tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong công nghệ sản
xuất. Nó làm thay đổi sâu, rộng toàn bộ các hoạt động của tổ chức. Quy mô của cuộc cách mạng
4.0 là sự đột phá về công nghệ đồng thời diễn ra trong nhiều lĩnh vực, tương tác thúc đẩy lẫn nhau,
với tốc độ phát triển chưa từng có trong lịch sử loài người, đồng thời thách thức chúng ta về vai
trò thực sự của con người.
2. VỐN NHÂN LỰC TRONG NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN, CHẾ TẠO TRƯỚC CUỘC CÁCH MẠNG 4.0 VÀ YÊU CẦU
ĐẶT RA
2.1. Vốn nhân lực
Vốn nhân lực được coi là quan trọng cho sự thành công của các tổ chức trong giai đoạn hiện
nay. Với người sử dụng lao động, vốn nhân lực được đánh giá cao khi mức độ đầu tư và phát triển
vốn nhân lực gắn liền với khả năng tăng năng suất lao động. Với người lao động, vốn nhân lực rất
được coi trọng vì đầu tư cho vốn nhân lực được coi là một phương cách hiệu quả để gia tăng thu
nhập trong tương lai.
Vốn nhân lực được các nhà nghiên cứu tiếp cận theo các góc độ khác nhau, tuy nhiên đều xuất
phát chung từ một lý thuyết được gọi là “lý thuyết vốn con người”. Theo Sveiby (1997), vốn nhân
lực bao gồm ba thành phần chủ yếu: vốn bản năng, vốn cơ cấu và vốn quan hệ. Nguồn nhân lực
đại diện cho nhân tố con người trong tổ chức là sự kết hợp trí thông minh, kỹ năng và chuyên môn
mang lại cho tổ chức các giá trị đặc biệt (Bontis 1998). Các nhà nghiên cứu cho rằng nguồn nhân
lực là tài sản quan trọng nhất của tổ chức vì nó là nguồn sáng tạo, là sự đổi mới, thay đổi và cải tiến.
Richard Blundell và cộng sự (1999) đề cập đến khái niệm vốn con người “... xuất phát từ sự
công nhận rằng quyết định đầu tư vào vốn con người của một cá nhân hoặc doanh nghiệp (nghĩa
là đầu tư cho giáo dục, đào tạo nhiều hơn) tương tự như các quyết định về đầu tư sản xuất cho các
cá nhân hoặc doanh nghiệp đó” . Theo các tác giả, nguồn vốn con người có thể được chia thành ba
thành phần: (1) “khả năng sớm”, có thể thu được hoặc bẩm sinh; (2) kiến thức thu được thông qua
giáo dục chính quy; và (3) kỹ năng, năng lực và kiến thức chuyên môn đã đạt được và phát triển
trong suốt quá trình làm nghề.

539
PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP
Bảng 1.1. Định nghĩa vốn con người của một số nhà nghiên cứu
STT Tác giả Định nghĩa
1 Ulrich (1997) Là năng lực thực hiện công việc của cá nhân
2 Gableta (1998) Là yếu tố gắn bó không thể tách rời với các đặc tính về thể chất, tinh thần,
trí tuệ cũng như đạo đức của cá nhân con người.
3 Dross (1999) Bao gồm kiến thức và kỹ năng thu được trong quá trình học tập và thực hành
chuyên môn
4 Sajkiewicz (1999) Là yếu tố liên kết thường xuyên với tổ chức và sứ mệnh của tổ chức đó,
được đặc trưng bởi kỹ năng hợp tác, sáng tạo, thái độ. Chúng tạo thành động
cơ và trái tim của tổ chức, mà không có nó, tổ chức không thể phát triển
được.
5 Bontis (2002) Bao gồm trí tuệ, kỹ năng và kiến thức chuyên môn mang lại cho tổ chức đặc
tính riêng của tổ chức đó
6 Grodzicki (2003) Bao gồm kiến thức, kỹ năng và khả năng của cá nhân đem lại giá trị cho tổ
chức
7 Pocztowski (2003) Là những đặc điểm chung và đặc trưng cụ thể được thể hiện trong nhân
viên, đem lại giá trị cho cá nhân và tổ chức
8 Baron, Armstrong
(2008)
Bao gồm kiến thức, kỹ năng, cơ hội và khả năng tiềm ẩn để phát triển và đổi
mới trong công việc của người lao động
9 OECD (2012) Kiến thức, kỹ năng, năng lực và các thuộc khác tạo điều kiện cho các giá trị
phúc lợi cá nhân, xã hội và kinh tế
10 Miciuła (2015) Là các giá trị vốn có trong bản chất của con người, không thể tạo thành giá
trị mà không có kiến thức và kỹ năng, kỹ năng xã hội, thái độ và hành vi
hướng tới tổ chức (động cơ và cam kết)
Như vậy, có thể thấy rằng,vốn nhân lực được tiếp cận theo nhiều tiêu chuẩn, thang đo khác
nhau. Từ việc tổng hợp quan điểm của các nhà nghiên cứu, tác giả đồng quan điểm về vốn nhân
lực của Miciula (2015) và cho rằng vốn nhân lực trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 cần
phải có là kiến thức (đặc biệt có kiến thức, trình độ về khoa học công nghệ), ngoại ngữ, kỹ năng
và thái độ, hành vi, tác phong làm việc chuyên nghiệp.
2.2. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là một trong các ngành kinh tế được phân loại theo Hệ
thống ngành kinh tế Việt Nam 2007 ban hành theo Quyết định số 10/2007/QĐ-TTg ngày 23 tháng 1
năm 2007. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là là một bộ phận trong khu vực thứ hai của một nền
kinh tế, bao gồm các ngành sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh và có thể sử dụng cũng như sản xuất vật
liệu xây dựng. Khu vực này thường sử dụng các sản phẩm của khu vực sơ khai (hay khu vực thứ nhất
của nền kinh tế) làm đầu vào để sản xuất ra các sản phẩm công nghệ tiêu dùng. Khu vực chế tạo có
thể phân thành hai tiểu khu vực là công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ (vi.wikipedia.org).
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành được đánh giá mang lại hiệu quả kinh tế cao
nhất trong các ngành công nghiệp và là điểm sáng kinh tế năm 2018. Tổng cục Thống kê cho biết,
tính chung cả năm 2018, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 10% so với năm trước. Trong
các ngành công nghiệp, ngành chế biến, chế tạo tiếp tục đóng vai trò chủ chốt, thúc đẩy tăng trưởng

540 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
chung của toàn ngành với mức tăng 12% (mặc dù thấp hơn mức tăng 14% của năm 2017 nhưng
vẫn cao hơn mức tăng của các năm 2012-2016); ngành sản xuất và phân phối điện đảm bảo cung
cấp đủ điện cho sản xuất và tiêu dùng của dân cư với mức tăng 10%; ngành cung cấp nước và xử
lý rác thải, nước thải tăng 6,3%; riêng ngành khai khoáng giảm 2% (chủ yếu do khai thác dầu thô
giảm 11%). (Tổng cục thống kê, 2018)
Bảng 2. Một số chỉ số phản ánh tình hình hoạt động ngành chế biến, chế tạo
Đơn vị: %
STT Chỉ số Năm 2016/2015 Năm 2017/2016 Năm 2018/2017
1 Chỉ số sử dụng lao động 103,5 105,4 102,8
2 Chỉ số sản xuất công nghiệp 111,2 114,5 112,3
3 Chỉ số tiêu thụ 108,4 108 112,4
Nguồn: Tổng cục Thống kê các năm 2016, 2017, 2018
Được đánh giá là một trong những ngành công nghiệp tiềm năng của quốc gia, tuy nhiên, với
sự tác động của CMCN 4.0, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo sẽ tạo ra những thay đổi lớn trong
cơ cấu cũng như đóng góp của ngành trong tăng trưởng kinh tế của nước ta thời gian tới. Trong cơ
cấu sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo hiện nay, chiếm tỷ trọng lớn là các ngành chế biến thực
phẩm (luôn chiếm tỷ trọng cao nhất, mặc dù có xu hướng giảm nhẹ ở mức trên 17%), tiếp theo ngành
sản xuất điện tử, máy vi tính và thiết bị viễn thông (trên 12%). Ngoài ra, phải kể đến các ngành như
dệt may (8,12%), thiết bị giao thông (4,85%), máy tính và điện tử (3,54%), v.v… Các ngành công
nghiệp công nghệ thấp tiếp tục chiếm tỷ trọng cao, chiếm khoảng 65% tổng sản phẩm chế biến, chế
tạo ở Việt Nam, trong khi con số này của toàn cầu chỉ là 18% (Tổng cục Thống kê, 2018). Những
ngành công nghiệp này đều sử dụng nhiều lao động hoặc sản xuất sản phẩm cuối cùng có giá trị gia
tăng thấp, dẫn đến sự tăng trưởng chậm về giá trị gia tăng trong sản xuất công nghiệp Việt Nam. Đây
là một trong những cản trở lớn đối với phát triển công nghiệp khi Việt Nam cần từng bước chuyển
dịch sang các ngành công nghệ cao, sản xuất các sản phẩm giá trị gia tăng cao, để đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng, tiếp cận cuộc CMCN 4.0. Với xu hướng siêu tự động hóa và sự tham gia của các robot
thông minh, thế hệ mới, có khả năng tùy chỉnh cao, CMCN 4.0 sẽ có những tác động lớn trong việc
thay đổi mô hình tổ chức sản xuất của nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo của Việt Nam trong
thời gian tới. Do vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ
với hạn chế về năng lực đầu tư, đổi mới hoạt động sản xuất và khả năng thích ứng nhanh chóng với
những thay đổi của thị trường sẽ có thể dẫn tới xu hướng suy giảm đáng kể.
CMCN 4.0 sẽ có tác động cụ thể lên ngành công nghiệp chế biến, chế tạo theo xu hướng sau:
- Các ngành công nghiệp với công nghệ thấp: Đặc trưng của các ngành công nghiệp với
công nghệ thấp là sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày…Những ngành này, năng suất
lao động chủ yếu phụ thuộc vào trình độ, năng lực của người lao động. Hay nói cách khác, lao
động có tác động lớn hơn công nghệ. Tuy nhiên, trong bối cảnh CMCN 4.0, đây sẽ là một trong
những thách thức lớn, khi lao động được dần thay thế bằng robot và các nhà máy thông minh.
Do đó, yếu tố quan trọng trong thời gian tới là tập trung dần vào cải tiến công nghệ và nâng cao
chất lượng lao động.

541
PHẦN 3: MÔI TRƯỜNG VẬN HÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ ĐỔI MỚI QUẢN TRỊ NHÂN LỰC TRONG DOANH NGHIỆP
- Các ngành công nghiệp với trình độ công nghệ ở mức trung bình: điển hình như ngành
sắt thép, xi măng, cao su, bao bì và các ngành công nghiệp khoáng sản phi kim loại. Đối với
các ngành này, các quốc gia công nghiệp tập trung vào công nghệ trong khi các nước đang
phát triển như Việt Nam vẫn dựa vào tài nguyên, năng lượng nhưng chủ yếu là xuất khẩu tài
nguyên thô (ở Việt Nam là xuất khẩu khoáng sản thô). Công nghệ, lao động và tài nguyên là
các yếu tố cần tác động, đây là các ngành có thị trường phát triển mạnh và nhu cầu cao từ các
nước phát triển. Dưới tác động của CMCN 4.0, yếu tố cần tập trung cải tiến đó là chất lượng
lao động và cải tiến công nghệ cao.
- Các ngành công nghiệp với trình độ công nghệ ở mức độ cao: Các quốc gia công nghiệp
có lợi thế cao, với các quốc gia đang phát triển, bên cạnh công nghệ, yếu tố vốn và năng lượng
cũng đóng vai trò quan trọng. Do đó, dưới tác động của CMCN 4.0, cần tập trung đầu tư phát
triển KHCN, đổi mới và ứng dụng công nghệ tiến tiến; dịch chuyển mạnh sang những ngành công
nghiệp công nghệ cao; lựa chọn và tập trung xuất khẩu các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, Việt
Nam có lợi thế; giảm nhanh xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản thô.
Cách mạng công nghiệp 4.0 đem lại những cơ hội lớn cho nước ta để phát triển kinh tế
xã hội, đồng thời tạo ra những thách thức lớn, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo – nhóm ngành luôn được coi là sử dụng nhiều lao động và cần sử dụng công nghệ hiện
đại. Do đó, việc phát triển vốn nhân lực trong nhóm ngành này trong giai đoạn hiện nay là
điều cần thiết.
2.3. Một số yêu cầu về vốn nhân lực ngành công nghiệp chế biến chế tạo trước cuộc cách mạng 4.0
Những đột phá về công nghệ mới trong mọi lĩnh vực: trí tuệ nhân tạo, robot, in 3D, công nghệ
nano, công nghệ sinh học, kỹ thuật mới,...sẽ tác động mạnh mẽ vào sự phát triển kinh tế. Muốn
đáp ứng được sự thay đổi từng giây về công nghệ đó, vốn nhân lực nói chung, vốn nhân lực ngành
công nghiệp chế biến, chế tạo nói riêng cần phải bổ sung những yêu cầu mới:
Về kiến thức: giỏi chuyên môn, giỏi tay nghề, có kiến thức sâu rộng về các lĩnh vực có liên
quan; nắm bắt được các quy định pháp luật của Nhà nước.
Về kỹ năng: cần có kỹ năng tương tác, giỏi về khoa học công nghệ, có khả năng sử dụng thiết
bị khoa học hiện đại; sử dụng ngoại ngữ một cách thành thạo; có đầy đủ các kỹ năng cứng và kỹ
năng mềm; kỹ năng ứng xử và giao tiếp; phát triển năng lực xã hội... Đối với lao động quản lý, cần
có tầm nhìn, định hướng đúng, liên kết mọi người cùng đồng thuận, có khả năng tự chủ và tự chịu
trách nhiệm trong công việc, có khả năng quản lý và lãnh đạo. Vận dụng tốt kiến thức, kỹ năng
quản lý vào quá trình quản lý nhằm mang lại hiệu quả quản lý cao nhất.
Về thái độ, hành vi: trên cơ sở các quy định pháp luật của Nhà nước, các văn bản nội bộ của
doanh nghiệp, người lao động cần tuân thủ đúng, nghiêm túc; bản lĩnh nghề nghiệp, chịu được áp
lực công việc, tư duy sáng tạo; học hỏi cầu thị; có trách nhiệm và tinh thần tương trợ trong công
việc; xác định động cơ làm việc đúng đắn để định hướng hành vi đúng đắn.
Để đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới, lao động ngành chế biến, chế tạo phải trang bị
cho mình vốn nhân lực với những kiến thức, kỹ năng, thái độ và hành vi một cách đẩy đủ và hiện
đại để có thể cạnh tranh các vị trí việc làm, tránh bị đào thải.