Vũ Trụ Nhân Linh
I. Cơ Cấu Thời Gian
Phần 3
3. Tầm quan trọng của cơ cấu thời gian.
Nói về cơ cấu thời gian là bàn đến những điu rất tế vi không thể dùng
giác quan thấy được, trái li phải dùng đến m thanh lọc mới nhìn nhận
ra. Bởi chúng ta không biết được thời gian cách trực tiếp như kng gian,
nhưng chỉ biết qua những sbiến động của vạn vật, svận hành của tinh
sao, sự đắp đối sáng tối, ngày đêm, "tứ thời". Nhưng vật là gì, ánh sáng gì,
tthời là gì? Ta không biết, nên người ta chỉ có những ý niệm lờ mờ về thời
gian qua những sự cảm nhận do sdi chuyển của vạn vật, của ánh ng…
Những ý nim đó được sắp đặt cái nliên hvới i kia tạo ra cho chúng ta
cấu thời gian. Nthế cơ cu thời gian chỉ là sn phẩm của cảm c của
trí, coi như kng liên hệ gì ti svật, vì đổi thay tuỳ theo ý niệm của
từng người, từng nền văn minh. Nng chính vì thế mà nó lại một mối
liên hmật thiết tới sinh mệnh của mỗi các nhân cũng như của mỗi xã hội,
nên nó mang theo mt tầm quan trọng vô biên.
Trước hết vì thời gian cũng như không gian vấn đề bao quát tổng
hợp hơn hết, đến nỗi ta không thể quan niệm một biến cố hay một vật thể
nào kng nm trong kng gian và thi gian. Cho nên được một
cấu trung thực về thời gian được chìa khóa vạn năng mở được hết các
ngõ bí cho mọi vấn đề rắc rối trong triết học. Việc giải quyết chỉ còn ngh
thuật áp dụng cấu thời gian cách đúng mức vào nhng vấn đề thay đổi
nên khác nhau. Ngược lại cu thời gian đã sai thì hết mọi vấn đề trong
triết đều đổ vỡ hết trọi. Nhà giột t nóc không thể chữa, nếu trước hết
không chữa li i nóc là cấu thời gian. Chính vì thế mà cấu thời gian
trong mỗi nền triết thuyết thước đo chính xác n hết về tầm mức cao
thấp của nền triết thuyết đó, ch không phải lời hay ý đẹp. i đó chỉ là
những cái trang trí bên ngoài.
do thhai là thi gian tính các rất co giãn: ktthời gian đồng
đều đo đếm được như không gian, qua thời gian tương đối, lên nữa là giấc
mơ tiên, thần xảy ra trong một c người tưởng như là trăm năm,
ngàn m… ta thể cảm nghiệm được hoặc nhận xét qua những phút sáng
tạo: tdbằng một i nhìn trực giác bậc hiền triết thể nhận ra những
chân mà hng bao thế kỷ luận (tức theo thời gian đo đếm trước có
sau) không sao tìm được.
do thba sự co giãn đó lại nằm trong quyền lực con người, trước
hết kể từ giác cảm trở lên. Cùng một tảng đá nằm bên đường mà hai ngưi
đi đêm, một người tưởng đó là con hđang rình mình (kiến tẩm thạch vi
phục hổ dã) n toát mhôi, về nhà bnh đến bạc cả tóc, thtổn thọ mất
ít m. Ngược lại người nhìn ra tng đá có thể ghé vào nghcn, nếu lại
gặp bạn đi qua ngồi lại để cùng đàm đạo hàn huyên tâm sự thì còn khonữa:
m hn thanh thản, thể xác an lành có thsống lâu tm. Khác nhau như thế
chỉ vì cái nhìn trúng vi trật.
Đó không phải là u i cũ hết thời, nhưng vẫn mang theo thời s
tính của nó. Hãy lấy một thí dtrong triết học hiện đại. Cũng là chu bột mà
Sartre thấy đó là i thuộc ý thức khốn khổ. Khốn khổ vì cm thấy mình
như bbủa y trong sự keo dẻo của vật chất, thấy mình như lần lần biến
thành vật chất bằng cách sa lầy vào một cái gì nhy nhụa, một yếu tố kng
những nhận chìm mình mà còn nuốt trôi mình đi…
Trái li cũng là chu bột nhưng lại cho Bachelard một sự suy về
bột (cogito de la pâte) như là một bản chất "tốt nhất", mà tốt nhất vì một lý
do klạ "chưa xong" còn "vtế", chưa mặc hình thnào nhthế tài
sáng tạo của mình có thhoạt động ch thần diệu bằng mặc cho "mt
hình". n tay cn cù và quyết đoán của mình shọc biết được thần tính linh
động của thực tại trong khi nặn bột. Ban đầu bột chống đối như xác thịt của
tình nhân tuy yêu thương lắm đấy, nhưng còn cnự để cuối cùng mi chịu
nhận cho!" (L eau et les ve trang 119). Chịu nhận từ bàn tay sáng tạo một
hình thái của riêng mình như của một hóa công sáng tạo ra.
Chậu bột chỉ là tdkng quan trọng, quan trọng trong i nhìn:
nhìn chậu bột như thành phần của ý thức khốn khổ thì skéo theo i nhìn
tha nhân như hoả ngục. Và do lđó Sartre kng thể yêu tha nhân, do vì
tha nhân có yêu Sartre đâu! Sartre chỉ yêu trlại kiểu đổi chác (troc) trong
giai đoạn bộ lạc! "Do ut des!"= tôi cho anh là cốt để anh cho li i. Lợi
hành nhi dĩ ! Ngược lại vì Bachelard nhìn chậu bột như dịp may cho mình
thi th i năng sáng tạo, thì cũng sẽ nhìn thế giới như một i thơ, như
những giấc mộng đẹp đẽ, nó sẽ ru mình o một vũ trụ trong an hòa thư ti,
vũ trcủa mình nên kng n tính chất lầm lỳ đặc sệt là i chiếu vào
svật một bmặt khốn đốn hoặc đe loi mình "triết gia như được nhuần
tm trong một môi trường không có gì ngãng trkng một vật thể nào nói
tiếng "kng" để chối tmình. Vì triết gia sống trong thế giới đồng nhất với
mình điều đó là nhmộng" (La poétique de la verie, trang 141). Đó
mới mộng phưong chi nếu những phép tinh lọc m thức, thì i
nhìn sẽ biến đổi đời sống con người biết bao nữa. Khi cái nhìn đã đạt độ tinh
lọc cùng cực, thì snhư thần thể nhìn ra "Cơ trời" là chhướng tới của
con người học chữ Thời. Vì "Cơ" chính cửa Trời cửa Đất, cửa Đạo thể,
Tính Thmà cứu nh của con người là phi tìm đến đó bằng cách noi theo
những vết chân, những dấu tích, mà không du tích nào đưa về tới Tiềm
ThViên Dung, đưa về với dòng ng sinh sinh bng chữ Thời. Nên khi suy
nim về thời gian, Khổng Tử kng còn mun nói nữa "Dư dục ngôn".
Thưa thầy nếu thế thì người ta làm sao hiểu được đạo của Thầy? Thưa rằng:
kchi đâu, chỉ vic suy về chữ Thời, Tứ thời hành n, vật sinh yên.
Thiên hà ngôn tai! (L.N. XVII.18). Tri i chi đâu, chỉ n ẩn hiện hiện,
không ai thấy bóng hình mà chỉ thấy dấu vết thấy tác động qua vận hành của
bốn mùa, thế mà bách vật đều nảy nở sinh sôi. Làn ng bất tuyệt như toé ra
tnhững dấu chân của Tiềm Thể, người học triết muốn cho linh động, muốn
cho triết mình học được nhiều chất sống chỉ việc ngắm tứ thời như mốc
chỉ đường dẫn về căn tính của mình, cũng chín là Đạo Thể Viên Dung.
Đó i học chữ thời của bậc hiền triết xa xưa. Nhưng ngày nay n
minh ng tiến bộ thì con người càng sng xa thời thiên nhiên vi hoa xuân
nắng hạ, với thâu hoạch thu và ng n đông, nghĩa là càng xa cái tiết