Tư tưởng Hồ Chí Minh - Hệ tư tưởng chính trị
lượt xem 26
download
Tán thành Đề án này đề cập đến hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn, bao gồm đảng bộ, chi bộ cơ sở, chính quyền (hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân), các tổ chức chính trị - xã hội. Còn các cơ quan, doanh nghiệp... cũng là đơn vị cơ sở, nhưng không thuộc phạm vi Đề án. Nội dung Đề án cần đề cập đầy đủ và sâu hơn về hệ thống chính trị ở phường (nay đang có xu hướng phát triển đô thị hoá, số phường và thị trấn sẽ tăng lên); làm rõ những giải...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tư tưởng Hồ Chí Minh - Hệ tư tưởng chính trị
- Tại phiên họp ngày 01-02 và 02-02-2002, sau khi nghe Ban cán sự đ ảng Chính phủ trình bày v ề Đ ề án đ ổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở; Bộ Chính trị có ý kiến chỉ đ ạo như sau : Về phạm của Đề 1- vi án. - Tán thành Đề án này đề cập đến hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn, bao gồm đảng bộ, chi bộ cơ sở, chính quyền (hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân), các tổ chức chính tr ị - xã h ội. Còn các c ơ quan, doanh nghiệp... cũng là đơn vị cơ sở, nhưng không thuộc phạm vi Đề án. Nội dung Đ ề án cần đ ề cập đ ầy đủ và sâu hơn về hệ thống chính trị ở phường (nay đang có xu hướng phát tri ển đô thị hoá, số phường và thị trấn sẽ tăng lên); làm rõ những giải pháp được thực hiện cho cả xã, phường, thị trấn và cả nh ững gi ải chỉ dụng đối với phường. pháp áp riêng - Với phạm vi của Đề án như trên, Bộ Chính trị đồng ý tên của Đề án là "Đổi mới và nâng cao chất l ượng hệ thống chính trị cơ sở". Kết cấu của Đề án đi thẳng vào những vấn đ ề bức xúc phải đ ổi mới đ ể nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị. Từng vấn đề lấy yêu cầu mới để đánh giá thực trạng, làm nổi bật những điểm cần đổi mới; cơ sở đề chủ trương đến giải trên đó ra pháp. Tuy nhiên, cân nhắc thêm ý kiến đề nghị nên có một phần riêng về đổi mới phương thức và phong cách làm việc của hệ thống chính trị ở cơ sở theo hướng : gần dân, sát dân, trực ti ếp với dân và phục vụ nhân dân; nên có một mục riêng về hệ thống chính trị cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, gắn kết được vị trí, vai trò của già làng với trưởng bản cho phù hợp với tình hình thực tế hi ện nay. Tuy việc đánh giá tình hình Đề án không đặt thành vấn đề trung tâm. Song, cũng cần thể hiện một cách khái quát nêu rõ những bất cập về hệ thống tổ chức (cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ), năng l ực lãnh đ ạo, quản lý và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị ở xã, phường trước yêu cầu phát triển của nông thôn trong thời nghiệp hiện đại kỳ công hoá, hoá. 2- Những vấn đề cơ bản và bức xúc về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính tr ị t ừ nay đến năm 2005. Cấp cơ sở có vai trò rất quan trọng, là cấp chấp hành và hành động, là cấp trực tiếp với dân, có trách nhiệm tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đ ảng và pháp lu ật c ủa Nhà n ước. Do vậy, việc kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở có quan hệ đến toàn bộ hệ thống chính trị các cấp; phải dùng sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị để thúc đẩy hệ thống chính trị ở cơ sở vươn lên đáp ứng yêu cầu mới. Nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở phải nhằm mục đích thực hiện chủ trương kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước; nâng cao dân sinh, dân trí và dân chủ; bảo đảm ổn đ ịnh chính trị xã hội. Với yêu cầu trên, từ nay đến năm 2005, cần tập trung giải quyết ba vấn đề cơ bản và bức xúc sau : Một là, xác định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị, đồng thời xây dựng mối quan hệ phối hợp giữa các tổ chức dưới sự lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ cơ sở. Đ ổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị thật sự gắn bó với dân, được dân tin cậy. Hai là, thực hành dân chủ thực sự trong nội bộ các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở và trong quan hệ với dân, phát huy quyền làm chủ của dân, thực hiện tốt Quy chế dân chủ, đ ồng thời tăng cường k ỷ cương, trật tự theo pháp luật, nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị làm cơ sở cho khối đ ại đoàn k ết toàn dân. Ba là, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở, chú ý công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ chuyên trách và cán bộ không chuyên trách ở cơ sở, xây d ựng đ ội ngũ bộ ở cơ sở thạo việc, tận tuỵ với cán công tâm, dân. 3- Về đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng ở cơ sở. - Phải làm rõ hơn vai trò hạt nhân chính trị của tổ chức đảng ở cơ sở, Đ ảng vừa phải là lực l ượng lãnh đ ạo chính trị toàn diện, lấy phát triển kinh tế làm nhiệm vụ trung tâm, xây d ựng Đ ảng làm nhi ệm v ụ then ch ốt; vừa phải là hạt nhân lãnh đạo để gắn kết và phát huy được vai trò các tổ chức trong hệ thống chính trị, khơi dậy trí tuệ và nguồn lực của nhân dân, đem lại quyền dân chủ thực sự cho nhân dân. - Phải cụ thể hoá hơn nhiệm vụ của người đảng viên trong cộng đồng dân cư. Đảng viên phải thực hiện tốt các nhiệm vụ và đúng với tiêu chuẩn người đảng viên đã ghi trong Điều lệ Đảng; đồng thời, nhấn mạnh việc đáp ứng được nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới, đảng viên phải là người lao đ ộng gi ỏi, nếu là đ ảng viên sản xuất kinh doanh phải là người làm kinh tế giỏi, đi đầu trong việc áp dụng ti ến bộ kỹ thuật và công nghệ mới; biết làm giầu chính đáng cho mình và lôi cuốn, giúp đ ỡ bà con làng xóm cùng nhau làm giàu, không cam chịu đói nghèo; có đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Làm rõ và đậm nét trách nhiệm chính trị của đảng viên, phải hết lòng vì sự nghiệp của Đảng, vì lợi ích chung của cộng đồng, phải là người đi đầu trong vận động, thuyết phục và tập hợp qu ần chúng cùng làm. - Về đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ cơ sở : + Phân định rõ hơn vai trò lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ cơ sở với sự đi ều hành của chính quy ền và ho ạt động của các đoàn thể nhân dân, để vừa bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, vừa không quyết đ ịnh làm thay công việc điều hành của chính quyền và đoàn thể. Cần nhấn mạnh tổ chức đảng phải chịu trách nhiệm toàn diện về mọi mặt của đời sống xã hội, an ninh chính trị ở xã, phường; mọi vi ệc quan trọng ở xã, phường, t ổ chức đảng phải được bàn để có biện pháp xử lý, nhưng không lấy quyết định của Đảng thay cho quyết định của quyền thể. chính và đoàn
- + Cần bổ sung, làm rõ trong đề án về chức năng, nhiệm vụ của chi bộ, đảng bộ cơ sở cho phù hợp với giai đoạn triển mới. phát - Về đổi mới công tác cán bộ, đa số ý kiến đồng tình với những nội dung nêu trong Đ ề án, nh ư : t ổ ch ức thăm dò tín nhiệm và lấy giới thiệu trong dân về các chức danh chủ chốt trước khi bầu; bí thư cấp uỷ cơ sở nên đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân hoặc chủ tịch uỷ ban nhân dân; có th ể b ầu các ch ức danh chính quyền trước, sau đó mới bầu các chức danh trong Đảng. Tuy nhiên, phải đ ảm bảo nguyên tắc Đ ảng lãnh đạo trực tiếp công tác tổ chức và cán bộ. Nên cân nhắc kỹ việc thí điểm dân bầu trực ti ếp chủ tịch uỷ ban nhân dân, trước mắt chỉ vận dụng thí điểm ở một số nơi có đủ đi ều kiện. Về đổi mới hiệu lực của quyền cơ sở. 4- và nâng cao chính - Xác định rõ hơn chức năng quản lý nhà nước của chính quyền cấp xã trong quản lý kinh tế - xã hội, không trực tiếp chỉ đạo hay can thiệp vào hoạt động sản xuất - kinh doanh. Nhưng cần thấy rõ, việc xác định ranh giới giữa quyền quản lý nhà nước với quyền tự chủ sản xuất - kinh doanh ở cấp cơ sở không giống như cấp tỉnh và cấp huyện, mà chính quyền cấp xã vừa là người quản lý, đi ều hành bằng pháp lu ật, v ừa là ng ười đứng tổ chức mọi việc địa ra công cho nhân dân trên bàn. - Làm rõ vai trò, vị trí của thôn, tổ, khu phố trong việc giúp chính quyền xã, phường, thị trấn thực hi ện ch ức năng quản lý nhà nước và chức năng hướng dẫn, giám sát việc thực hi ện các yêu c ầu t ự qu ản c ủa nhân dân. Tuy thôn, tổ, khu phố không phải là một cấp hành chính, nhưng là cầu nối và là n ơi ph ối h ợp gi ữa s ự quản lý của chính quyền xã, phường, thị trấn với quyền tự quản của cộng đồng dân cư. Khi quyền dân chủ và dân trí của dân càng được nâng cao, thì nhu cầu tự quản của dân càng mở rộng và vai trò thôn, t ổ dân phố càng trở nên có ý nghĩa. Vì vậy, trong đề án cần phải nghiên cứu tổ chức của thôn, tổ dân phố như thế hợp. nào cho phù - Đổi mới cơ chế bầu cử và nâng cao chất lượng đại biểu hội đồng nhân dân cấp xã. Các ý ki ến đ ều đ ồng tình với đề án (như tăng số lượng đại biểu hội đồng nhân dân lên từ 25-30 người). Vi ệc tăng t ỉ l ệ ng ười ngoài đảng là đại biểu hội đồng nhân dân là cần thiết, song không nên quy đ ịnh là 30-40%. - Tăng cường các điều kiện, phương tiện và kinh phí hoạt động cho cấp xã. Vấn đề này, trong đề án có thể một số mục cụ thể đến nêu tiêu cho năm 2005. 5- Về đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Cần nghiên cứu, tiếp thu để bổ sung trong đề án một số vấn đề sau : - Từ thực tiễn hoạt động, nên tổng kết rút kinh nghiệm về những cách làm mới vừa qua (như giao các đề án, chương trình phù hợp cho các tổ chức đoàn thể triển khai thực hiện...) để từ đó khuyến khích, tạo điều kiện cho cách làm này, nhằm tránh việc hành chính hoá và nâng cao hi ệu quả ho ạt đ ộng c ủa các đoàn th ể. - Đổi mới cơ chế nhà nước tài trợ một phần kinh phí cho các tổ chức chính trị - xã hội theo cách : cân đ ối trong ngân sách địa phương và do hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định mức trợ cấp này cho các đoàn thể ở địa phương (như một đề cách đã nêu trong án). Đổi mới đối với bộ cơ sở. 6- chính sách cán - Đa số ý kiến đồng tình phải có chính sách và chế độ đãi ngộ thoả đáng cho cán bộ xã, đồng ý với việc xác định cán bộ xã có bộ phận chuyên trách và không chuyên trách (bộ phận chuyên trách có từ 17-21 ng ười); cán bộ chuyên trách được hưởng các chế độ tương tự như công chức nhà nước, được trả lương thay vì trả sinh hoạt phí; có thang, bảng lương riêng cho cán bộ cơ sở... Một số ý ki ến còn băn khoăn v ề vi ệc đ ề án không làm rõ chế độ cho người không chuyên trách; sự hành chính và quan liêu hoá khi b ộ ph ận cán b ộ chuyên trách ở cơ sở được xếp vào "cán bộ, công chức cơ sở", chế độ và thời gian hưởng bảo hi ểm xã hội của cán bộ cơ sở; Tiểu ban cần nghiên cứu để hoàn chỉnh đề án. - Về đào tạo và bồi dưỡng cán bộ cơ sở, các ý kiến cho rằng đây là vấn đ ề rất quan trọng và bức xúc hi ện nay. Cần đổi mới căn bản cách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở (từ chương trình, nội dung, phương thức và phân cấp đào tạo) cho thật rõ ràng và thiết thực vào các chức danh quy đ ịnh đ ể cán bộ có khả năng x ử lý mọi vấn đề, mọi tình huống có thể xảy ra ở xã, phường. Cần coi đây là giải pháp lớn trong đề án và phải đặt vấn đề cán bộ một cách toàn diện, không chỉ là chính sách cán bộ. Về đổi mới sự chỉ đạo của cấp đối với cơ sở. 7- trên Đồng ý với những nội dung nêu trong đề án, song cần nhấn mạnh vào hai vấn đ ề : - Trên cơ sở Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 về "đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở", cần tập trung ngay vào việc điều chỉnh, sửa đổi Luật và các văn bản pháp quy có liên quan đến hệ thống chính trị cơ sở (như Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Pháp l ệnh công chức...) để Nghị quyết sớm thực cuộc sống. thi đi vào - Phải thực sự đổi mới phong cách làm việc, trước hết là ở cấp tỉnh và cấp huyện, tập trung hướng về cơ sở, gần lắng kiến của dân, sát dân và nghe ý nhân dân. * * * Trên cơ sở ý kiến chỉ đạo trên và ý kiến phát biểu của Bộ Chính trị, Ban Bí thư t ại cu ộc h ọp này, Ti ểu ban hoàn chỉnh đề án, dự thảo Nghị quyết để gửi Trung ương trước ngày 06-02-2002.
- T/M BỘ CHÍNH TRỊ Phan Diễn Các từ khóa theo tin: Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm số 17-NQ/TW ngày 18/3/2002 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn 08:54 | 19/06/2006 I. Đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở, đáp ứng yêu cầu phát tri ển c ủa đấ t nước 1. Qua hơn 15 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to l ớn và quan trọng về kinh t ế, xã h ội, giữ vững ổn định về chính trị và hiện nay đang đứng trước yêu cầu mới của sự phát triển tầm cao hơn trước. Để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, hệ thống chính trị từ Trung ương tới cơ sở phải đ ổi m ới nội dung, phương thức hoạt động và chỉnh đốn tổ chức, nâng cao hiệu l ực lãnh đ ạo và quản lý. Các cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống. Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận đ ộng nhân dân thực hi ện đ ường l ối, chính sách c ủa Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ c ủa dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của công đồng dân cư. Trong thời gian qua, hệ thống chính trị ở phần lớn cơ sở đã tích cực thực hiện nhiệm vụ, thực hi ện quy chế dân chủ, cùng với nhân dân tạo nên những thành tựu đổi mới và phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, làm thay đổi rệt bộ mặt thị. rõ nông thôn và thành Tuy nhiên, hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay còn nhiều mặt yếu kém, bất cập trong công tác lãnh đ ạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng. Tình trạng tham nhũng, quan liêu, mất đoàn kết nội bộ, vừa vi phạm quyền làm chủ của dân, vừa không giữ đúng kỷ cương, phép nước xảy ra ở nhi ều n ơi, có những nơi nghiêm trọng. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống chính trị chưa đ ược xác định rành mạch, trách nhiệm không rõ; nội dung và phương thức hoạt đ ộng chậm đ ổi mới, còn nhi ều bi ểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đội ngũ cán bộ cơ sở ít được đào tạo, bồi d ưỡng; chính sách đối với bộ cơ sở chắp cán còn vá. Những yếu kém đó có phần trách nhiệm của bản thân hệ thống chính trị ở cơ sở, có phần thuộc trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị. Một nguyên nhân quan trọng là từ Trung ương đến các cấp, các ngành chưa nhận thức đúng vai trò, vị trí của cơ sở; quan liêu, không sát cơ sở, sát nhân dân, không k ịp th ời bàn đ ịnh các chủ trương, chính sách để củng cố, tăng cường các tổ chức và đội ngũ cán bộ cơ sở. 2. Để đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở, từ nay đến năm 2005, cần tập trung gi ải quyết mấy vấn đề cơ bản bức và xúc sau đây: Một là, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị, đ ồng thời xây dựng mối quan hệ đoàn kết, phối hợp giữa các tổ chức dưới sự lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ cơ sở; đổi mới nội dung và phương thức hoạt động hướng vào phục vụ dân, sát với dân, được dân tin cậy. Hai là, thực hành dân chủ thực sự trong nội bộ các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của dân trên cơ sở thực hi ện quyền dân chủ tr ực ti ếp, phát huy quyền dân chủ đại diện, quy định cụ thể việc thực hiện quyền của dân giám sát tổ chức và cán bộ ở cơ sở và thay thế người không đủ tín nhiệm. Phát huy dân chủ phải đi liền với củng cố và nâng cao kỷ luật, kỷ cương luật. theo pháp Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hi ện đ ường l ối c ủa Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, bi ết phát huy s ức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân; trẻ hoá đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đ ồng bộ đối với bộ cơ sở. chính sách cán II. Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng ở cơ sở nhận thức hạt trị 1. Nâng cao và làm đúng vai trò nhân chính - Đảng bộ, chi bộ cơ sở là hạt nhân lãnh đạo toàn diện các mặt công tác ở cơ sở, cần nắm vững nhi ệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, chăm lo xây dựng chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức trong hệ thống chính tr ị h ướng vào phục vụ nhân dân, đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến mọi ng ười dân và tổ chức thực hiện tốt ở cơ sở, phản ánh và giải đáp mọi tâm tư nguyện vọng của nhân dân, khơi dậy trí tuệ và nguồn lực của dân, không ngừng nâng cao trình độ dân sinh, dân trí, dân chủ ở c ơ s ở.
- - Mọi đảng viên phải nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu, vững vàng về chính trị, có đạo đức trong sáng, có lối sống lành mạnh, gắn bó với nhân dân, thật sự tiêu biểu cho lực lượng tiến bộ nhất ở cơ sở, phấn đ ấu trở thành người lao động giỏi, người công dân mẫu mực. Đảng viên hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh phải phấn đấu làm kinh tế giỏi, đi đầu trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới, ra sức làm giàu chính đáng và lôi cuốn, vận động bà con cùng làm giàu, không cam chịu đói nghèo. - Công tác phát triển đảng viên mới nhằm vào những người lao động giỏi, có đạo đức và lối sống lành mạnh, có uy tín trong quần chúng, những người có lý tưởng cách mạng, tích cực hoạt động trong hệ thống chính trị, có vai trò nòng cốt trong các đoàn thể nhân dân và các tổ chức tự quản của dân. Đ ối với nh ững đ ảng viên không chịu khó làm việc, lười học tập, đã được tập thể giúp đỡ mà không ti ến bộ thì vận đ ộng họ ra khỏi Đảng. Từng đảng bộ, chi bộ cơ sở phải phấn đấu không còn đảng viên yếu kém. Đổi mới phương thức đạo 2. lãnh - Đổi mới việc ra nghị quyết của đảng bộ, chi bộ, của cấp uỷ đ ảng: Đ ối với những vấn đ ề l ớn, quan h ệ t ới cuộc sống và quyền lợi của đông đảo nhân dân địa phương, đòi hỏi sự phối hợp của cả hệ thống chính trị ở cơ sở, đảng bộ, chi bộ và cấp uỷ đảng đề ra chủ trương và các giải pháp có tình định hướng và phân công, giao trách nhiệm cho các tổ chức trong hệ thống chính trị đề ra biện pháp và tổ chức thực hi ện theo quy ền hạn, trách nhiệm của từng tổ chức. Những chủ trương công tác thuộc thẩm quyền quyết đ ịnh của chính quyền và đoàn thể thì chính quyền và đoàn thể chủ động đề xuất, cấp uỷ đảng bàn và có ý kiến về những nội trọng. dung quan Xây dựng và thực hiện quy chế làm việc giữa Bí thư cấp uỷ với Chủ tịch Hội đ ồng nhân dân, Ch ủ t ịch U ỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và những người đứng đầu các đoàn thể nhân dân để bàn và giải quyết kịp thời những công việc quan trọng và bức xúc trên địa bàn, bảo đảm cho cấp uỷ đ ảng quán xuyến được mặt ở phường, thị trấn. các công tác xã, - Đảng bộ, chi bộ và cấp uỷ đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ gồm nhiều thế hệ bổ sung, kế tiếp nhau thông qua việc rèn luyện đội ngũ đảng viên, đồng thời phát hiện và bồi d ưỡng những ng ười có tài, có đ ức trong dân để đảm đương các vị trí công tác trong hệ thống chính trị. Dựa vào dân và thông qua ho ạt đ ộng thực tiễn ở cơ sở để phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, kiểm tra cán bộ. Sự lãnh dạo của Đảng đối với các cuộc bầu cử ở cơ sở trước hết là bảo đảm phát huy dân chủ, th ực hi ện đúng nguyên tắc, tiêu chuẩn. Việc giới thiệu đảng viên và người ngoài Đ ảng đ ể nhân dân, h ội đ ồng nhân dân, đại hội và ban chấp hành các đoàn thể bầu vào các chức danh lãnh đ ạo phải dựa trên s ự đ ề c ử, ứng cử từ dưới lên. Thực hiện nghiêm túc việc thăm dò, lắng nghe ý kiến nhân dân trước khi bầu cử cấp uỷ. Việc bố trí Bí thư đảng uỷ đồng thời làm Chủ tịch Hội đồng nhân dân hay Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tuỳ theo tình cụ thể ở từng nơi. hình - Tăng cường công tác kiểm tra việc chấp hành nghị quyết của đảng bộ, đ ảng uỷ; kiểm tra công tác đ ồng thời kiểm tra tư cách đảng viên. Chú trọng tìm hiểu, lắng nghe ý kiến nhận xét, đánh giá của quần chúng đối với đảng viên và tổ chức đảng thông qua việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Hàng năm, Bí thư cấp uỷ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tự phê bình trước dại diện của nhân dân. Theo tinh thần trên, Ban Bí thư ban hành quy chế và hướng dẫn cho các tổ chức đảng ở xã, phường, thị trấn thực hiện hợp với điều kiện thực tế. phù Đổi mới hiểu lực của quyền cơ sở III. và nâng cao chính định chức nhiệm vụ của quyền cơ sở 1. Xác rõ năng, chính Chính quyền cơ sở có chức năng, nhiệm vụ tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các mục tiêu kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng ở cơ sở; thực hiện việc quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn theo thẩm quyền được giao; hướng dẫn và giám sát các hoạt động tự quản của dân, tạo thuận lợi cho dân và doanh nghiệp làm ăn theo pháp luật. Cấp trên không d ồn cho cơ s ở nh ững công việc thuộc chức năng cấp trên phải làm và không buộc cơ sở phải làm tất cả mọi việc về quản lý hành chính nước. nhà Phân cấp rành mạch cả nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và phương tiện thực hi ện cho chính quyền c ấp cơ sở trong việc thu, chi ngân sách, sắp xếp và quản lý cán bộ, quản lý đ ất đai, bảo vệ đê đi ều, thuỷ nông, quản lý hộ tịch, quản lý các dự án đầu tư thuộc vốn ngân sách và vốn huy động trong dân, quản lý cơ sở vật chất về giáo dục, y tế, văn hoá phục vụ cho nhân dân trong xã, phường, thị trấn. Chính quy ền c ấp c ơ s ở được cấp trên uỷ quyền thực hiện trên địa bàn việc thu một số loại thuế, quản lý tài nguyên, thực hiện chính sách xã hội bằng kinh phí ngân sách, thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh... Chính quyền phường không quản lý toàn diện các hoạt động sản xuất, đ ời sống dân cư trên đ ịa bàn nh ư chính quyền xã, thị trấn, song có nhiệm vụ rất quan trọng trong quản lý đô thị. Cần phân đ ịnh rõ h ơn th ẩm quyền, trách nhiệm và tạo điều kiện để chính quyền phường thực hiện tốt nhi ệm vụ, đ ặc bi ệt là trong vi ệc quản lý thực hiện quy hoạch, quản lý đất đai, nhà ở, hộ tịch, vệ sinh môi trường, trật t ự đô th ị. Thôn, làng, ấp, bản, sóc (gọi chung là thôn) là địa bàn quan trọng đ ể phát huy các hình th ức t ự qu ản c ủa cộng đồng dân cư trên cơ sở quan hệ truyền thống gắn bó trong đời sống vật chất và văn hoá. Khu ph ố hoặc tổ dân phố (tổ chức dưới phường) cũng có điều kiện và khả năng thực hiện một số hoạt động tự quản như giúp đỡ nhau sản xuất, giảm nghèo, bảo thọ, xây dựng đời sống văn hoá, phòng chống các tệ nạn xã hội, giữ gìn trật tự, vệ sinh, môi trường... Thôn, khu phố hoặc tổ dân phố không phải là một cấp hành chính. Trưởng thôn, trưởng khu phố hoặc tổ trưởng dân phố do dân trực tiếp bầu vừa là ng ười đ ại diện cho dân,
- vừa là người đại diện cho chính quyền xã, phường, thị trấn để thực hiện một số nhi ệm vụ hành chính t ại thôn, khu phố, tổ dân phố. Ở những nơi đông đồng bào dân tộc thiểu số phải coi trọng vai trò của già làng, vận động nhân dân bầu già làng có điều kiện làm trưởng thôn, trưởng bản. Hoàn thiện quy chế dân chủ ở cơ sở, sửa đổi những quy định không phù hợp, bổ sung điều kiện và phương tiện để đưa việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở vào nền nếp thường xuyên. Đổi mới hoạt động của Hội đồng 2. nhân dân Hội đồng nhân dân quyết định mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng tại cơ sở, những công vi ệc mà xã, phường, thị trấn được phân cấp và những việc đáp ứng yêu cầu tự quản của cộng đồng dân cư ở cơ sở; bầu và phê chuẩn các chức danh hành chính theo luật định; giám sát hoạt động của cơ quan hành chính và những công việc do cấp trên thực hiện trên địa bàn, nhất là việc sử dụng đất đai, quỹ công, tài sản công, kể cả các quỹ do dân đóng góp, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. - Đổi mới cơ chế bầu cử, bảo đảm cho dân đề cử, ứng cử, lựa chọn các đại bi ểu Hội đ ồng nhân dân th ực sự là người đại diện cho dân; tăng thêm số lượng đại biểu đồng nhân dân so với hi ện nay; tăng tỷ l ệ thích đáng đại biểu Hội đồng nhân dân là người ngoài Đảng; tăng số kỳ họp và nâng cao chất lượng các kỳ h ọp Hội đồng nhân dân. - Các đại biểu Hội đồng nhân dân, ngoài việc thực hiện nhi ệm vụ, quyền hạn trong các kỳ h ọp h ội đ ồng, còn được phân công tham gia các hoạt động thường xuyên, gắn bó với dân như tổ chức giám sát của Hội đồng nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, ban thanh tra nhân dân, tổ hoà gi ải, các tổ chức tự quản của dân... hiệu lực của cơ 3. Nâng cao quan hành chính - Đề cao trách nhiệm và thẩm quyền của cơ quan hành chính xã, phường, thị trấn + Đối với những nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, những công vi ệc đ ược phân cấp và nh ững việc tự quản của cộng đồng dân cư, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân đưa ra Hội đ ồng nhân dân bàn, quy ết đ ịnh chủ trương, tổ chức thực hiện. sau đó + Đối với những công việc được cấp trên uỷ quyền, cơ quan hành chính tổ chức thực hi ện theo đúng quy định của cấp trên. + Đối với công việc tự quản của thôn và các tổ chức tự quản khác, cơ quan hành chính hướng d ẫn, h ỗ tr ợ việc thủ luật. và giám sát tuân pháp + Đối với các khiếu kiện của dân, phải đề cao trách nhiệm gi ải quyết theo thẩm quyền, không đ ể dây d ưa kéo dài. Về tổ chức cơ - quan hành chính Giữ chế độ Uỷ ban nhân dân, nhưng thu gọn số thành viên. Quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của tập thể Uỷ ban nhân dân, của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân và các thành viên trong Uỷ ban nhân dân. Kiện toàn bộ máy giúp việc gồm văn phòng Uỷ ban nhân dân và ba khối công việc: khối kinh tế - tài chính (kể cả kế toán), khối văn hoá - xã hội và khối nội chính (đối với phường, có thể vận dụng quy đ ịnh chung đ ể t ổ ch ức các khối việc hợp). công cho phù Về điều kiện phương tiện việc - và làm Tạo điều kiện cho chính quyền cơ sở chủ động về ngân sách, mở rộng các khoản thu, bảo đảm cho những cơ sở ở trình độ phát triển trung bình có thể tự cân đối được chi thường xuyên. Thực hi ện quy chế đ ịnh kỳ kiểm nước, bi ết. toán nhà công khai thu, chi ngân sách cho dân Xây dựng trụ sở làm việc phục vụ chung cho các cơ quan trong hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là ở mi ền núi và các vùng có khó khăn. Phấn đấu đến năm 2005 các xã, phường, thị trấn đ ều có tr ụ s ở làm vi ệc. Trang bị các phương tiện làm việc cần thiết và từng bước hiện đại hoá theo yêu cầu tin học hoá h ệ th ống quản lý hành chính nhà nước. Bảo đảm tốt hệ thống truyền thanh, nhà bưu điện - văn hoá để nhân dân tiếp nhận hội họp. thông tin và Đổi mới mặt trận thể IV. công tác và các đoàn nhân dân 1. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân đóng vai trò nòng cốt xây dựng khối đ ại đoàn k ết toàn dân và th ực hiện chế chủ ở cơ sở quy dân Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân sát h ợp v ới nhu cầu và lợi ích của hội viên, đoàn viên; trên cơ sở đó, tập hợp rộng rãi và nâng cao tính t ự giác c ủa h ội viên, đoàn viên, xây dựng tổ chức vững mạnh; tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đ ảng và Nhà nước đến mọi người dân; vận động nhân dân thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng; tiến hiệu quả cuộc vận động hành có các và phong trào thi đua. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thúc đẩy việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, phản ánh ý ki ến c ủa quần chúng về xây dựng Đảng và chính quyền, phát giác hành vi tham nhũng, lãng phí, vi ph ạm dân ch ủ; tham gia hoà giải các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, bày tỏ thái độ đối với những khiếu kiện của dân đ ể phần giải quyết từ gốc. góp Đa dạng hoá các hình thức tập hợp quần chúng; coi trọng và mở rộng các tổ chức và hoạt động tự quản của nhân dân dưới nhiều hình thức phong phú; các hội viên, đoàn viên chủ đ ộng tham gia vào các t ổ ch ức đó, làm nòng cốt vận động và tổ chức hoạt động đúng mục đích, đúng pháp luật. 2. Đổi mới cơ chế bảo đảm kinh phí hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở c ơ s ở
- Phát huy tính chủ động của các đoàn thể ở cơ sở trong việc tạo nguồn và sử dụng kinh phí. Sửa đổi những quy định không còn phù hợp về hội phí, đoàn phí; thu đ ủ hội phí, đoàn phí và ưu tiên dành cho c ơ s ở. Nhà nước cấp một phần kinh phí hoạt động cho Mặt trận và các đoàn thể nhân dân và tạo điều kiện để các đoàn thể gây quỹ theo đúng pháp luật. Kinh phí do Nhà nước cấp đ ược Hội đ ồng nhân dân ở c ơ s ở giao khoán cho Mặt trận và từng đoàn thể nhân dân chủ động quyết định việc chi tiêu, k ể cả vi ệc tr ả ph ụ c ấp bộ cho cán không chuyên trách. dựng đội bộ cơ sở V. Xây ngũ cán 1. Hệ thống chính trị ở cơ sở có cán bộ chuyên trách và cán bộ không chuyên trách Cán bộ chuyên trách là những cán bộ phải dành phần lớn thời gian lao đ ộng làm vi ệc công đ ể th ực hi ện chức được gồm trách giao, bao : - Cán bộ giữ chức vụ qua bầu cử gồm: cán bộ chủ chốt của cấp uỷ đảng, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, những người đứng đầu Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. - Cán bộ chuyên môn được Uỷ ban nhân dân tuyển chọn gồm: công an trưởng, xã đ ội trưởng, cán bộ văn phòng, địa chính, tài chính - kế toán, tư pháp, văn hoá - xã hội. Số lượng cán bộ chuyên trách do Chính phủ định. quy Cán bộ chuyên trách ở cơ sở có chế độ làm việc được hưởng chính sách về cơ bản như cán bộ, công chức nhà nước; khi không còn là cán bộ chuyên trách mà chưa đủ điều kiện để hưởng chế đ ộ hưu trí, đ ược ti ếp tục tự đóng bảo hiểm xã hội hoặc hưởng phụ cấp một lần theo chế độ nghỉ việc. Cán bộ, công chức cơ sở có đủ điều kiện được thi tuyển vào ngạch công chức ở cấp trên. Pháp lệnh cán bộ, công chức hi ện hành cần được sửa đổi theo hướng bao gồm cả cán bộ, công chức cơ sở. Cán bộ không chuyên trách là những người chỉ tham gia việc công trong một phần thời gian lao đ ộng. Căn cứ hướng dẫn của Trung ương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định khung về số lượng và mức phụ cấp cho cán bộ không chuyên trách trong hệ thống chính trị ở cấp cơ sở (kể cả trưởng thôn). Chế độ tạo, bồi dưỡng 2. đào Tích cực trẻ hoá và từng bước chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở. Phấn đấu từ nay đ ến hết năm 2005 có khoảng 70-80% cán bộ chuyên trách giữ chức vụ qua bầu cử đ ược đào tạo, bồi d ưỡng đ ạt tiêu chuẩn quy định khoảng 80% cán bộ, công chức chuyên môn có trình độ trung cấp trở lên đối với đồng bằng, sơ cấp trở đối với miền lên núi. Đổi mới căn bản chương trình, nội dung và phương pháp giảng dạy đối với cán bộ cơ sở theo hướng đào tạo cơ bản, bồi dưỡng theo chức danh, bảo đảm tính thiết thực. Nâng cao chất lượng đội ngũ gi ảng viên và tăng cường cơ sở vật chất ở các trường chính trị cấp tỉnh, các trung tâm giáo d ục chính tr ị c ấp huy ện. Nâng cao mặt bằng dân trí; mở rộng mạng lưới trường dạy nghề, trung cấp, cao đẳng ở các tỉnh, huyện, các trường, lớp nội trú cho con em đồng bào các dân tộc để tạo nguồn cán bộ cho cơ sở. Có chính sách thu hút những người được đào tạo chuyên môn, nhất là sinh viên tốt nghiệp đ ại học và cao đ ẳng v ề làm cán b ộ, công chức ở cơ sở và đưa cán bộ giáo dục, y tế về công tác ở cơ sở. Ở những nơi còn thiếu cán bộ tại chỗ, nhất là các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, cần kết hợp đào tạo cán bộ thông qua việc thực hiện nghĩa vụ quân sự, luân chuyển cán bộ ở huyện, tỉnh về công tác ở cơ sở với nhiệm vụ chính là dìu dắt, bồi d ưỡng bộ tại chỗ. cán Đổi mới sự chỉ đạo của cấp đối với cơ sở VI. trên Các tổ chức trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cấp huyện phải đổi mới phương thức chỉ đạo, khắc phục bệnh quan liêu, xa dân, hướng mạnh tới cơ sở, tới thôn, xóm, ấp, bản, tăng cường đi sát, làm vi ệc trực tiếp với cơ sở, với dân, thấu hiểu nguyện vọng của dân, cùng với cơ sở giải quyết vướng mắc cho dân, tổng kết những điển hình tốt từ cơ sở, những sáng kiến của dân. Mỗi cấp có quy chế cụ thể về thời gian làm việc tại cơ sở, giảm bớt sự chỉ đạo bằng giấy tờ và triệu tập cán bộ cơ sở lên họp. Trong năm 2002, đồng thời với việc tiếp tục cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, Mặt trận Tổ quốc cùng với Nhà nước phát động một cuộc vận động mới về kinh tế. “Toàn dân thi đua làm kinh tế giỏi, từng nhà làm giàu cho mình, cho cộng đồng cơ sở và cho đ ất nước”. Cuộc vận đ ộng r ộng l ớn về kinh tế này liên kết và phát huy các cuộc vận động của từng đoàn thể đang tiến hành về tổ chức làm ăn, cải thiện đời sống. Sớm sửa đổi, bổ sung Luật về tổ chức Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân (với quy đ ịnh cụ thể v ề phân cấp, uỷ quyền cho chính quyền cơ sở), Pháp lệnh về cán bộ, công chức (bổ sung quy đ ịnh đ ối với cán bộ, công chức cơ sở), ban hành Luật về hội, các quy chế về tổ chức, phương thức làm vi ệc của tổ chức đ ảng thể ở cơ sở, đối với bộ ở cơ sở. và đoàn các chính sách cán Trong việc hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết này đối với cơ sở, cần có biện pháp sát hợp với những nơi tập trung đồng bào dân tộc thiểu số, vận dụng những nguyên tắc chung đ ối với hệ thống chính trị ở cơ sở để quy định cụ thể cho phường. Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đ ạo các quận, huy ện, thành phố, thị xã tổng kết, đánh giá đúng thực chất của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở, có sự phân loại các cơ sở và đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là đội ngũ cán bộ chủ chất để có gi ải pháp phù hợp. Có biện pháp cụ thể với sự hỗ trợ về cán bộ và tài chính để sớm khắc phục tình trạng yếu kém của hệ thống chính trị trong một số xã, phường; trước hết phải tập trung chấn chỉnh cho đ ược các cơ sở đang có cơ trở điểm nguy thành nóng. Nghị quyết này cần được sự phối hợp tổ chức thực hiện của các cơ quan chỉ đ ạo các tổ chức trong h ệ
- thống chính trị ở cả 4 cấp. Trung ương và các cấp tỉnh, huyện phân công một số đ ồng chí trong B ộ Chính trị, Ban Bí thư, thường vụ cấp uỷ trực tiếp chỉ đạo thực hiện nghị quyết Trung ương và có cơ quan thường trực ở từng cấp để thống nhất chương trình hành động từng thời gian, định kỳ kiểm đi ểm k ết quả, đ ề xuất các giải pháp thúc đẩy và nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện. ĐCSVN) – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia vừa xuất bản cuốn sách “Nhà n ước trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay" do PGS.TS Lê Minh Quân – Vi ện Chính tr ị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh chủ biên. Nhà nước Việt Nam có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ th ống chính trị đ ược quy đ ịnh bởi chức năng và nhiệm vụ của nó trong hệ thống chính trị, trong đ ời s ống xã h ội và đ ược th ể hiện trong mối quan hệ giữa Nhà nước với Đảng và các t ổ ch ức chính trị - xã h ội trong h ệ th ống chính trị. Nhà nước thể chế hóa chủ trương, đường l ối của Đảng thành hi ến pháp, pháp lu ật và chính sách làm công cụ quản lý nhà nước đối với mọi lĩnh vực của đời s ống xã hội. Trong hệ thống chính trị nước ta, Nhà nước Cộng hòa xã h ội ch ủ nghĩa Vi ệt Nam là tr ụ c ột, là công cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay m ặt nhân dân, ch ịu trách nhiệm trước nhân dân quản lý toàn bộ hoạt động của đời s ống xã h ội. Đó chính là Nhà n ước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác, Nhà n ước ch ịu s ự lãnh đ ạo và th ực hi ện đường lối chính trị của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hi ện và đ ảm b ảo đ ầy đ ủ quy ền làm chủ của nhân dân. Những đặc trưng của Nhà nước tạo nên những nét khác biệt nh ất định v ề t ổ ch ức và ph ương thức hoạt động giữa Nhà nước với Đảng và các t ổ chức chính trị - xã hội trong h ệ thống chính trị ở nước ta hiện nay. Việc xác định đúng vị trí, vai trò và nhi ệm v ụ c ủa Nhà n ước trong h ệ th ống chính trị có ý nghĩa lý luận và thực ti ễn trong quá trình đ ổi m ới h ệ th ống chính tr ị, kh ắc ph ục s ự chồng chéo, lấn sân giữa các thành t ố trong hệ thống chính trị, nh ất là trong m ối quan h ệ gi ữa Đảng và Nhà nước ở nước ta trong điều kiện nền kinh tế th ị trường đ ịnh h ướng xã h ội ch ủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đ ẩy m ạnh công nghi ệp hóa, hi ện đ ại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Cuốn sách được chia thành 5 phần: Phần I: Địa vị chính trị - pháp lý của nhà nước trong hệ th ống chính tr ị ở Việt Nam hiện nay. Địa vị chính trị - pháp lý của Nhà nước ta đ ược ghi nh ận trong các văn ki ện chính tr ị và pháp lý quan trọng của Đảng và Nhà nước, được sự công nhận của các nước và các t ổ ch ức qu ốc t ế. Ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước ta đã mang tính h ợp hi ến, h ợp pháp và tính đ ại di ện r ất cao. Các Hiến pháp của nước ta luôn ghi nhận địa vị chính trị - pháp lý c ủa n ước ta, xác đ ịnh v ị trí và vai trò của Nhà nước trong đời sống chính trị nói chung và hệ th ống chính tr ị n ước ta nói riêng. Nhà nước là thành quả vĩ đại của cuộc đấu tranh ch ống thực dân, đ ế qu ốc lâu dài và gian kh ổ của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí th ức và c ủa toàn th ể dân t ộc ta, do Đ ảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Nhà nước ta là tổ chức chính trị - pháp lý quản lý nhà n ước đ ối v ới m ọi m ặt c ủa đ ời s ống xã h ội. Nhà nước tác động, ở những mức độ khác nhau, đến t ất cả các lĩnh v ực và đ ối t ượng xã h ội. Địa vị chính trị - pháp lý c ủa Nhà nước ta trong hệ th ống chính tr ị còn đ ược th ể hi ện trong m ối quan hệ với các thành tố khác của hệ thống chính trị là quan h ệ gi ữa Nhà n ước v ới Đ ảng và quan hệ giữa Nhà nước với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các t ổ ch ức chính trị - xã h ội khác. Với địa vị chính trị - pháp lý quan trọng như vậy, yêu cầu đ ổi m ới và hoàn thi ện Nhà n ước nh ằm củng cố và tăng cường địa vị chính trị - pháp lý của Nhà nước trong h ệ th ống chính tr ị tr ở thành
- một yêu cầu tất yếu, trong đó, tiếp tục đổi mới t ổ chức và phương th ức hoạt đ ộng c ủa Qu ốc h ội; đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng một nền hành chính dân ch ủ, trong s ạch, v ững m ạnh và từng bước hiện đại, tiếp tục cải cách tư pháp, nâng cao ch ất l ượng hoạt đ ộng c ủa các c ơ quan tư pháp. Chương II: Nhà nước – trụ cột của hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay Đặc trưng của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà n ước c ủa dân, do dân, vì dân, các cơ quan quyền lực nhà nước được lập nên thông qua các cuộc bầu c ử ph ổ thông, dân chủ, tự do và bình đẳng. Quyền lực của Nhà nước là quyền l ực c ủa nhân dân, do nhân dân ủy nhiệm thông qua lá phiếu của mình; t ổ chức, cơ chế vận hành c ủa bộ máy nhà n ước do nhân dân quyết định. Các vấn đề trọng đại của đất nước đều ph ải hỏi ý ki ến nhân dân. Nh ững đóng góp, khiếu nại, tố cáo của nhân dân đối với Nhà nước đều đ ược tôn tr ọng, xem xét, ti ếp thu và giải quyết. Do đó, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có ch ức năng và nhi ệm v ụ c ơ b ản là cung cấp các loại dịch vụ công ích đem lại lợi ích cho m ọi ng ười dân sinh s ống trên lãnh th ổ c ủa mình, những hàng hóa công cộng thuần túy. Ngoài ra, Nhà nước ta th ực hi ện hai ch ức năng chính trị và xã hội thống nhất với nhau, do lợi ích của giai c ấp công nhân và nhân dân lao đ ộng là thống nhất với nhau. Nhà nước ta hiện nay được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền xã h ội ch ủ nghĩa. T ừ nguyên t ắc này, bộ máy nhà nước được xây dựng theo hướng vừa đ ảm b ảo s ự thống nh ất quy ền l ực, v ừa có sự phân công, phân nhiệm ngày càng rành mạch. Bộ máy t ổ ch ức Nhà nước ta g ồm: Quốc hội (là cơ sở của hệ thống các cơ quan nhà nước khác, là cơ quan đ ại bi ểu cao nh ất c ủa nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Mọi quyền l ực nhà nước đ ược th ống nh ất ở Qu ốc hội. Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu như lập pháp, hi ến pháp, giám sát t ối cao vi ệc tuân thủ hiến pháp, pháp luật; quyết định những vấn đề quan tr ọng trong phát tri ển kinh t ế - xã hội của đất nước và nhiều nhiệm vụ quan trọng về t ổ chức cán b ộ, v ề các chính sách…). Chủ tịch nước (người đứng đầu nhà nước, thay mặt đất nước về đối nội và đ ối ngoại, do Qu ốc h ội bầu. Chủ tịch nước phải báo cáo công việc của mình trước Quốc h ội và chịu trách nhi ệm tr ước QH). Chính phủ (được xây dựng theo hướng tập trung vào lĩnh vực hành chính nhà nước, v ừa là cơ quan chấp hành củ cơ quan quyền lực nhà nước cao nh ất, Chính ph ủ cũng đ ược xác đ ịnh là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Chính ph ủ thống nh ất quản lý vi ệc th ực hi ện các nhi ệm vụ kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đ ối ngoại nhà n ước). Ngoài ra, b ộ máy nhà nước ta còn có Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân. Để đổi mới và hoàn thiện Nhà nước, chúng ta cần đổi mới và hoàn thiện t ất cả b ộ máy t ổ ch ức nh ằm đ ảm b ảo v ị trí và vai trò của nhà nước trong hệ thống chính trị. Chương III: Mối quan hệ giữa nhà nước và Đảng ở Việt Nam hiện nay Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập năm 1930, kể t ừ đó, Đảng đã lãnh đ ạo nhân dân ta tiến hành thắng lợi cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, l ập nên Nhà nước Vi ệt Nam dân ch ủ cộng hòa ngày 2/9/1945, chấm dứt ngàn năm xã h ội Vi ệt Nam b ị thống tr ị b ởi nhà n ước phong kiến, và dân tộc Việt Nam chỉ có thể giữ vững được quyền độc l ập dân t ộc d ưới s ự qu ản lý c ủa Nhà nước mới được Đảng và nhân dân ta thiết lập nên. Nhà nước ki ểu m ới và Đ ảng ta g ắn bó với nhau trong một thể thống nhất. Nhờ thể thống nhất này mà dân t ộc Vi ệt Nam đã vi ết ti ếp được trang sử vàng chói lọi trong các giai đoạn tiếp theo trong s ự phát triển c ủa dân t ộc. Về mối quan hệ giữa Nhà nước và Đảng Cộng s ản Việt Nam, các tác gi ả nh ận đ ịnh, giai đo ạn 1945-1946, khi chưa có chính quyền, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đ ứng lên giành chính quy ền. Khi đã có chính quyền, Đảng ra trở thành Đảng cầm quy ền lãnh đ ạo nhà n ước, b ảo v ệ s ự t ồn tại của nhà nước. Đây là mối quan hệ hợp pháp nhưng không công khai.
- Giai đoạn 1946-1954, để thực hiện t ốt nhiệm vụ chính trị là huy đ ộng s ức m ạnh toàn dân t ộc tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thi ệp M ỹ, vai trò lãnh đ ạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị đ ược th ực hi ện theo ph ương châm lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện. Giai đoạn 1954-1975, giai đoạn này, chúng ta ph ải đối m ặt v ới âm m ưu chia c ắt đ ất n ước lâu dài của đế quốc Mỹ, do đó, phương châm lãnh đạo trực ti ếp, tuyệt đối và toàn di ện c ủa Đ ảng đ ối với Nhà nước và xã hội vẫn được thực hiện trong giai đoạn này. Quan h ệ gi ữa Nhà n ước v ới Đảng lúc này được thực hiện theo nguyên t ắc “hai trong một” hay “m ột mà hai” và đã phát huy được tính hiệu quả trong hoạt động lãnh đạo cũng như trong quản lý xã h ội. Giai đoạn 1975-1986, nước ta đang trong cơ ch ế t ập trung và bao c ấp t ồn t ại, theo đó, Đ ảng cũng tập trung và bao cấp đối với Nhà nước và xã h ội. Nh ưng khi c ả n ước b ước vào th ời kỳ hòa bình, xây dựng thì cơ chế lãnh đạo và quản lý cũ không còn phù h ợp. Nh ững h ạn ch ế và y ếu kém trong lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước ngày càng b ộc l ộ rõ ràng và quy ết li ệt hơn. Mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước từ năm 1986 trở l ại đây đã có s ự thay đ ổi, đ ổi m ới chính tr ị và hệ thống chính trị. Nhận thức về chức năng, vị trí và vai trò c ủa nhà n ước ngày càng đúng đắn và rõ ràng hơn; phân định rõ chức năng quản lý c ủa Nhà nước và ch ức năng lãnh đ ạo c ỉa Đảng; Nhà nước thực hiện đúng chức năng và nhiệm vụ là c ơ quan qu ản lý c ủa Nhà n ước đ ối với xã hội; vị trí vai trò và trụ cột của nhà nước trong h ệ th ống chính tr ị đ ược xác đ ịnh rõ ràng hơn và được củng cố vững chắc hơn. Đảng và Nhà nước ta ch ủ trương đ ổi m ới và hoàn thi ện mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh t ế th ị tr ường đ ịnh h ướng xã hội chủ nghĩa; yêu cầu dân chủ hóa, xây dựng nhà nước pháp quy ền và xã hội công dân; đáp ứng yêu cầu hội nhập. Chương IV: Mối quan hệ giữa Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã h ội ở Việt Nam hi ện nay. Hiện nay, ở Việt Nam có hơn 320 tổ chức hội quy mô hoạt động toàn quốc, hàng ngàn h ội c ấp tỉnh, hàng vạn hội cấp huyện, xã... nhưng chỉ có m ột s ố ít đ ược coi là các t ổ ch ức chính tr ị xã hội. Các tổ chức này đều do Đảng lãnh đạo, là cơ sở chính trị - xã h ội c ủa Đ ảng và g ắn bó v ới Đảng, với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Các tổ chức này đều ch ịu sự lãnh đ ạo c ủa Đ ảng, s ự quản lý của Nhà nước. Tổ chức hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội g ắn bó ch ặt ch ẽ v ới tổ chức và hoạt động của Đảng và nhà nước. Đảng lãnh đ ạo Nhà nước và các t ổ ch ức chính tr ị - xã hội bằng cương lĩnh đường lối chiến lược, bằng nghị quyết, các đ ịnh h ướng về ch ủ tr ương, chính sách… bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục và vận động, t ổ ch ức kiểm tra, b ằng hành động gương mẫu của mọi đảng viên và bằng công tác cán bộ. Nhà nước cũng cần sự phối hợp của Mặt trận tổ quốc và các t ổ ch ức chính trị xã h ội, làm c ầu nối giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước; tuyên truyền vận đ ộng các t ầng l ớp nhân dân th ực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.. Chương V: Xây dựng Nhà nước pháp quyền, thực hiện đúng ch ức năng, nhi ệm v ụ c ủa nhà nước trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hi ện nay xu ất phát t ừ t ất y ếu kinh tế, là một nhu cầu chính trị khách quan. Thông qua xây d ựng nhà n ước pháp quy ền, Nhà nước ta mới có thể xác định đúng chức năng và nhi ệm vụ, vị trí và vai trò c ủa mình trong h ệ thống chính trị nói riêng và trong đời sống chính trị nói chung. Đến nay, nhà n ước pháp quy ền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được định hình trên những nét cơ b ản và trở thành trụ c ột c ủa h ệ thống chính trị nước nhà. Trong quá trình đổi m ới h ệ th ống chính trị, cùng v ới vi ệc xây d ựng và chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt, cần xác định xây d ựng và hoàn thi ện nhà n ước là nhi ệm vụ trọng tâm. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã h ội ch ủ nghĩa Vi ệt Nam chính là xây d ựng và
- thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng và thực hi ện quy ền làm ch ủ c ủa nhân dân; làm cho quyền lực nhà nước và hệ thống t ổ chức th ực thi quyền l ực - h ệ th ống chính tr ị - đ ược xác định đúng đắn và có hiệu quả hơn. Quyền l ực Nhà nước đ ược c ủng c ố và tăng c ường cũng có nghĩa là quyền lãnh đạo của Đảng được củng cố và tăng c ường. Gi ữ v ững và tăng c ường s ự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là nhằm củng cố và tăng cường sức mạnh của Nhà nước. Các tác giả cũng nhấn mạnh, nhận thức đầy đủ và gi ải quyết t ốt h ơn m ối quan h ệ gi ữa các thành tố của hệ thống chính trị, trong đó có m ối quan hệ giữa Nhà n ước v ới Đ ảng, Nhà n ước v ới Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội là một yêu c ầu khách quan ở n ước ta hi ện nay. Đổi mới và tăng cường mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các t ổ ch ức chính tr ị - xã h ội trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay cần hướng vào mục tiêu chung là xây d ựng và c ủng c ố quyền làm chủ của nhân dân, mà trước hết là của giai c ấp công nhân, giai c ấp nông dân, đ ội ngũ trí thức và những người lao động khác. Gi ải quyết t ốt nh ững m ối quan h ệ c ơ b ản này s ẽ góp phần làm cho hệ thống chính trị nước ta vận hành có hi ệu l ực, hi ệu qu ả h ơn, đáp ứng t ốt hơn những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước theo m ục tiêu dân giàu, n ước m ạnh, xã h ội công bằng, dân chủ, văn minh. Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ "Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội". Như vậy, giám sát của nhân dân, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thể hiện bản chất dân chủ của chế độ chúng ta. Hệ thống chính trị của nước ta vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Ba chủ thể của hoạt động: lãnh đạo, quản lý, làm chủ có vai trò, vị trí rõ ràng, đồng thời có mối quan hệ khăng khít. Lãnh đạo, quản lý và làm chủ đều có chức năng giám sát, đó vừa là quyền vừa là trách nhiệm. Đảng lãnh đạo đề ra chủ trương, đường lối. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội nên thường xuyên kiểm tra, giám sát việc triển khai và thực hiện chủ trương, đường lối đã đề ra. Nhà nước quản lý xã hội, do đó phải kiểm tra, giám sát việc thi hành và chấp hành pháp luật. Nhân dân với tư cách người làm chủ có quyền trực tiếp hoặc thông qua đại diện Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thông qua đại biểu do mình cử ra để giám sát. Như vậy, giám sát ở nước ta cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa giám sát của Đảng, hoạt động giám sát của Nhà nước và giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam như Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã đề ra. Quyền giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp 1992, tại Điều 9, đó là Mặt trận "giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ viên chức nhà nước". Cũng tại Hiến pháp 1992, Điều 8 quy định: "Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải... chịu sự giám sát của nhân dân". Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ: "Hoạt động của Đảng và Nhà nước phải chịu sự giám sát của nhân dân. Sự tin tưởng, ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân là cội nguồn của sức mạnh, là cái gốc của thắng lợi, là tài sản quý báu của Đảng"(1). Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ngày 26-6-1999, đã thể chế hóa Hiến pháp 1992, quy định rõ những vấn đề cơ bản về hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại Điều 12: "1 - Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám sát mang tính nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước, nhằm góp phần xây dựng và bảo vệ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Quyền giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp 1992, tại Điều 9, đó là Mặt trận "giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ viên chức nhà nước". Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật. 2 - Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thực hiện bằng các hình thức sau đây: a) Động viên nhân dân thực hiện quyền giám sát; b) Tham gia hoạt động giám sát với cơ quan quyền lực nhà nước; c) Thông qua hoạt động của mình, tổng hợp ý kiến của nhân dân và các thành viên của Mặt trận kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biểu dương, khen thưởng người tốt, việc tốt, xem xét, giải quyết, xử lý những trường hợp vi phạm pháp luật. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện nhiệm vụ giám sát. Khi nhận được kiến nghị của Mặt trận thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm xem xét, trả lời trong thời hạn theo quy định của pháp luật". Sau Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhiều đạo luật khác có liên quan đã thể chế hóa quyền giám sát của Mặt trận trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
- đã chủ động phối hợp với ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành từng bước cụ thể hóa thành cơ chế giám sát trong một số đối tượng, chuyên ngành thông qua việc xây dựng luật, pháp lệnh, nghị quyết liên tịch. Đây là hoạt động giám sát được pháp luật quy định tương đối đầy đủ về cơ chế, chính sách, pháp luật, thể hiện quyền giám sát của nhân dân và vai trò tổ chức, chỉ đạo hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đó là: Luật Thanh tra và các văn bản dưới luật ghi nhận giám sát của nhân dân thông qua ban thanh tra nhân dân; Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn quy định quyền và trách nhiệm Mặt trận lấy phiếu tín nhiệm các chức danh chủ chốt của chính quyền nhân dân ở xã, phường, thị trấn; Nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ và ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về Mặt trận giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về giám sát đầu tư của cộng đồng. Thực hiện quyền và trách nhiệm của mình, trong những năm qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã cố gắng, chủ động tổ chức nhiều hoạt động giám sát, như giám sát thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, giám sát việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư, giám sát đầu tư của cộng đồng v.v.. Những nơi thực hiện tốt quy trình giám sát, đem lại kết quả và hiệu quả thiết thực, được nhân dân đồng tình, hưởng ứng tham gia, được xã hội thừa nhận và cấp ủy đánh giá cao. Hoạt động giám sát của Ban Thanh tra nhân dân đã đi vào nền nếp và đạt kết quả tốt. Giám sát thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở với việc lấy phiếu tín nhiệm các chức danh chủ chốt do Hội đồng nhân dân cấp xã bầu đã tiến hành được trong 2 năm 2005 - 2006; năm 2008 tiếp tục thực hiện theo quy định mới của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Hoạt động này có tác động tích cực tới cán bộ chính quyền ở cơ sở. Việc giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư được tiến hành thí điểm ở 5 tỉnh, thành phố trong 2 năm 2006 - 2007 đã được cấp ủy lãnh đạo chặt chẽ, chính quyền phối hợp thực hiện, dư luận xã hội quan tâm, đem lại hiệu quả thiết thực, có thể mở rộng trên phạm vi cả nước. Kết quả hoạt động giám sát đối với những lĩnh vực đã có cơ chế, chính sách, pháp luật cụ thể còn khiêm tốn. Điều đó càng khẳng định, nhân dân và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chỉ có thể giám sát khi có cơ chế, chính sách, pháp luật quy định cụ thể. Vì, giám sát là việc rất khó, nhạy cảm, đòi hỏi sự kiên trì, bản lĩnh và tinh thần trách nhiệm của cán bộ Mặt trận, của cán bộ, đảng viên, sự quan tâm lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự phối hợp đồng bộ của chính quyền và các cơ quan nhà nước. Trên thực tế, hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc còn nhiều hạn chế, tồn tại và khó khăn. Cụ thể là: Kinh nghiệm thực tế rút ra là nơi nào, cấp nào, cấp ủy đảng hoặc đồng chí bí thư quan tâm lãnh đạo, thì ở đó hoạt động giám sát có kết quả, hiệu quả, thực sự góp phần xây dựng Đảng, xây dựng và củng cố chính quyền, nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý ở địa phương, vai trò giám sát của Mặt trận được nâng lên, nhất là trong việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; Thứ nhất, trong hầu hết các văn bản pháp luật hiện nay, vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chỉ mới dừng ở quy định có tính nguyên tắc về quyền năng giám sát, chưa có quy định cụ thể và đầy đủ về cơ chế, chính sách, quyền và trách nhiệm của chủ thể bị giám sát và chủ thể giám sát, điều kiện bảo đảm cho hoạt động giám sát, cơ chế tiếp nhận, giải quyết, xử lý vi phạm và trả lời cho chủ thể giám sát. Thứ hai, ở những lĩnh vực hoạt động giám sát tuy có cơ chế đầy đủ, rõ ràng, hoặc pháp luật quy định cụ thể trình tự, thủ tục thực hiện, nhưng việc xem xét, xử lý của cơ quan chủ quản không thực hiện đúng các quy định về thời hiệu giải quyết vụ việc, về việc trả lời kiến nghị của Mặt trận, làm cho hoạt động giám sát trong nhiều trường hợp trở nên bế tắc, không có kết quả, hoặc kéo dài nhiều năm, gây bức xúc cho công dân và nản chí đối với cán bộ Mặt trận thực thi công việc giám sát. Thứ ba, tổ chức và cán bộ của hệ thống Mặt trận các cấp còn nhiều bất cập và hạn chế. Muốn tổ chức hoạt động giám sát phải có bộ máy đồng bộ ở các cấp Mặt trận. Trong khi các lĩnh vực hoạt động giám sát của Mặt trận hiện nay tập trung ở cơ sở xã, phường, nhưng ở xã, phường, Mặt trận chỉ có chủ tịch và phó chủ tịch Mặt trận là những người được Nhà nước xếp loại là cán bộ chuyên trách và bán chuyên trách; trình độ, năng lực cán bộ còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, kinh phí hoạt động của Mặt trận được khoán gọn với tiền lương và phụ cấp rất hạn hẹp tùy theo nguồn thu ngân sách của từng địa phương, do đó kinh phí chi cho các hoạt động giám sát rất khó khăn. Thiếu thông tin về chủ trương, chính sách, pháp luật cũng là trở ngại lớn cho hoạt động giám sát. Những tồn tại, thiếu sót trên đây bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trước hết là nhận thức về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc nói chung và về vai trò giám sát của nhân dân, của Mặt trận trong một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên chưa đồng bộ, đầy đủ và sâu sắc, nhất là nhận thức về mục đích, yêu cầu hoạt động giám sát, phạm vi đối tượng và nội dung giám sát, sự cần thiết phải giám sát như là tính tất yếu của lãnh đạo, quản lý và làm chủ trong cơ chế vận hành của hệ thống chính trị nước ta. Tiếp đến là, chưa có đạo luật về giám sát của nhân dân, trong đó quy định đầy đủ, cụ thể quyền năng, cơ chế, chính sách, chế tài, trình tự thủ tục giám sát, quy định rõ vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cùng với đó là, tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đổi mới chậm so với yêu cầu đổi mới của Đảng, Nhà nước. Đội ngũ cán bộ chuyên trách Mặt trận các cấp còn nhiều bất cập. Cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, huyện và nhất là cơ sở nhiều nơi chu chuyển nhanh, thậm chí trong một nhiệm kỳ có nơi thay đổi 2 đến 3 lần chủ tịch Mặt trận. Một số cán bộ trình độ, năng lực có hạn, lại thiếu bản lĩnh, thiếu kiên trì, ngại khó, ngại va chạm, còn
- nể nang, do đó ảnh hưởng đến tính liên tục và hiệu quả của hoạt động giám sát, dễ dẫn đến tình trạng hình thức trong hoạt động giám sát. Sau cùng là, ở nhiều nơi cấp ủy đảng chưa quan tâm sâu sắc lãnh đạo lĩnh vực hoạt động giám sát của Mặt trận. Kinh nghiệm thực tế rút ra là nơi nào, cấp nào, cấp ủy đảng hoặc đồng chí bí thư quan tâm lãnh đạo, thì ở đó hoạt động giám sát có kết quả, hiệu quả, thực sự góp phần xây dựng Đảng, xây dựng và củng cố chính quyền, nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý ở địa phương, vai trò giám sát của Mặt trận được nâng lên, nhất là trong việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; giúp việc quản lý cán bộ, đảng viên, nhất là quản lý cán bộ, đảng viên ngoài thời gian làm việc, ở khu dân cư, được chặt chẽ và hiệu quả hơn. Từ những vấn đề nêu trên, xin có một số kiến nghị: Một là, các cấp ủy đảng, cơ quan nhà nước và chính quyền các cấp cần chú trọng nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân về vai trò, vị trí Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị, trong đó có vai trò giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ công chức. Trong điều kiện chỉ có một Đảng, việc phát huy vai trò của Mặt trận trong hoạt động xây dựng Đảng, xây dựng và củng cố chính quyền có ý nghĩa vô cùng to lớn, nhằm phát huy dân chủ và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, củng cố mối quan hệ máu thịt giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, phấn đấu vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Trong chương trình giảng dạy ở hệ thống Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia và các trường chính trị địa phương cần có nội dung các bài giảng những vấn đề cơ bản về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, về công tác Mặt trận tham gia xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động trên các phương tiện thông tin đại chúng để cán bộ, đảng viên, công chức, nhân dân thông hiểu về vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, về hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của nhân dân, nhất là giới thiệu các văn bản pháp luật về thanh tra nhân dân, về giám sát cán bộ, đảng viên, công chức ở khu dân cư, giám sát đầu tư của cộng đồng, lấy phiếu tín nhiệm các chức danh chủ chốt do Hội đồng nhân dân cấp xã bầu; về giám sát xã hội trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí v.v.. Đẩy mạnh thực hiện các đề án về tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong chương trình hành động quốc gia của Chính phủ về phổ biến giáo dục pháp luật. Ba là, kiến nghị Quốc hội sớm ban hành Luật về giám sát của nhân dân, nhằm tạo hành lang pháp lý để nhân dân thực hiện quyền và trách nhiệm giám sát hoạt động của Đảng, Nhà nước; để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực sự là tổ chức của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng và củng cố Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Đề nghị Chính phủ phối hợp chặt chẽ với ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức chỉ đạo thực hiện tốt các nghị định, nghị quyết liên tịch giữa hai bên về các lĩnh vực hoạt động giám sát ở cơ sở và khu dân cư như đã nêu ở trên. Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói chung và hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói riêng. Nhằm tiếp tục tạo cơ sở về chủ trương của Đảng đối với lĩnh vực hoạt động giám sát và phản biện xã hội, đề nghị Bộ Chính trị sớm ban hành các quy chế về giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X của Đảng, để trên cơ sở đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sẽ phối hợp với các cơ quan chức năng tiếp tục triển khai các hoạt động giám sát và từng bước triển khai thực hiện hoạt động phản biện xã hội một cách phù hợp. Năm là, Mặt trận Tổ quốc các cấp cần tiếp tục củng cố, tăng cường tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động. Trước mắt, tổ chức tốt Đại hội Mặt trận Tổ quốc các cấp theo tinh thần Chỉ thị số 18, ngày 22-11- 2007, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, bảo đảm quá trình chuẩn bị và tổ chức Đại hội trở thành đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc; về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn mới. Thông qua Đại hội để củng cố, kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc các cấp, nhất là ở cơ sở và Ban Công tác Mặt trận ở khu dân cư. Trên cơ sở đó, sẽ có tác dụng tích cực đến hiệu quả hoạt động nói chung và hiệu quả hoạt động giám sát nói riêng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Sáu là, ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tỉnh, thành phố cần tăng cường các hoạt động giám sát; chỉ đạo, hướng dẫn cấp xã thực hiện tốt Luật Thanh tra nhân dân, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Quyết định số 80 của Thủ tướng Chính phủ về giám sát đầu tư của cộng đồng, Nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ và ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư. Quá trình thực hiện cần tổng kết kinh nghiệm hoạt động, có kiến nghị với Đảng, Chính phủ, ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn nhằm thực hiện tốt các văn bản pháp luật cụ thể về hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam./. Vấn đề còn lại cần bàn thảo là làm thế nào để có thể bảo đảm được dân chủ trong điều kiện một đảng độc quyền lãnh đạo như ở nước ta. Để làm rõ vấn đề này, nên đi sâu phân tích một số điểm.
- Một là, nên tìm hiểu kỹ thêm quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự ra đời và bản chất của ĐCS Việt Nam. Bởi vì đây vừa là chiến lược, vừa là sách lược của Đảng có liên quan rất nhiều đến việc tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và thực thi dân chủ. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề này rất độc đáo, rất sáng tạo và rất Việt Nam. Trước hết, Người khẳng định: Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Ba yếu tố đó có quan hệ rất biện chứng, rất chặt chẽ, song Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn đặc biệt chú ý tới phong trào yêu nước. Phong trào yêu nước là một yếu tố rất quan trọng hình thành nên Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, Người khẳng định: Đảng ta không chỉ là đảng của giai cấp công nhân mà còn là đảng của nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Xác định Đảng ra là đảng của nhân dân lao động, của toàn dân tộc, cho nên trong nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, mặc dù rất chú ý tới mối quan hệ biện chứng giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ, song Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn muốn chúng ta phải đặc biệt quan tâm tới việc phát huy yếu tố dân chủ. Bởi vì, có phát huy tốt yếu tố dân chủ thì mới giữ gìn được sự đoàn kết trong Đảng. Và "trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, có dân chủ trong Đảng thì mới có dân chủ ngoài xã hội". Quán triệt tư tưởng nêu trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới việc bảo đảm và phát huy dân chủ trong điều kiện Đảng độc quyền lãnh đạo. Hai là, cũng cần điểm qua một chút thực trạng dân chủ ở nước ta hiện nay ra sao ? Tất nhiên, những giá trị dân chủ mà Đảng đã mang lại cho dân là rất lớn. Song, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật ta phải thừa nhận còn khá nhiều khuyết điểm, tồn tại. Thí dụ, dân chủ ngay trong nội bộ Đảng vẫn còn hạn chế. Quyền lực thường tập trung vào người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, ngành, địa phương, hay cơ quan, đơn vị. Mục đích của đấu tranh, phê bình trong Đảng là để tăng cường đoàn kết, thắt chặt tình đồng chí, nhưng ở một số nơi việc này dẫn đến tình trạng mất đoàn kết, tình đồng chí càng phai nhạt. Những hiện tượng trên không phải là phổ biến nhưng cũng không phải là cá biệt. Trong Đảng đã vậy thì ngoài xã hội không thể tránh khỏi tình trạng mất dân chủ. Nói tới thực trạng đó đương nhiên không phải để bi quan, nhìn Đảng, nhìn xã hội với bức tranh màu tối, mà là để có biện pháp khắc phục một cách tích cực hơn và có hiệu quả hơn. Ba là, làm thế nào để có dân chủ trong điều kiện chỉ có một đảng duy nhất lãnh đạo ? Phải có các yếu tố sau đây: Thứ nhất, xác định thật rõ Đảng từ nhân dân mà ra. Đảng luôn được nhân dân đùm bọc, nuôi dưỡng, chở che. Đảng sống trong lòng nhân dân và dân tộc. Không có dân, Đảng không tồn tại. Vì thế, Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân nhưng Đảng cũng là "của dân, do dân, vì dân". Chỉ có quan niệm một cách đúng đắn như thế thì việc thực thi dân chủ mới đúng hướng, đúng đối tượng (dân chủ cho nhân dân). Thứ hai, Đảng phải xây dựng được một đường lối chính trị thật đúng đắn. Đường lối đó phải hội tụ được các yêu cầu: nắm vững các quy luật khách quan đang vận động trong hiện tại và dự báo chính xác sự vận động của nó trong tương lai. Nắm vững tình hình thực tế của đất nước, của nội bộ Đảng và xu thế của thời đại. Nắm vững tâm tư, nguyện vọng của nhân dân... Khi có đường lối đúng thì đất nước sẽ phát triển, tránh được nguy cơ rơi vào khủng hoảng, đời sống nhân dân được cải thiện. Như thế tức là dân chủ cho dân đã được bảo đảm về cơ bản rồi. Thứ ba, bản thân Đảng phải bảo đảm dân chủ nội bộ cho thật tốt, bởi vì có dân chủ trong Đảng thì mới có dân chủ ngoài xã hội. Thứ tư, phải nâng cao dân trí, trang bị cho người dân những hiểu biết tối thiểu về dân chủ, về pháp luật. Không có những hiểu biết đó thì người dân rất dễ rơi vào một trong hai tình trạng: hoặc là an phận, nhẫn nhục chịu đựng khi những quyền dân chủ của mình bị xâm phạm; hoặc là dễ bị lôi kéo, kích động, dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật một cách vô ý thức. Thứ năm, phải chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Thực tế đã cho thấy nơi nào để cho lực lượng thù địch hoặc những kẻ xấu lộng hành thì ở đó quyền dân chủ của nhân dân lập tức bị xâm phạm, thậm chí bị tước đoạt. Vì thế, dân chủ phải đi liền với chuyên chính. Không chuyên chính tốt sẽ không có dân chủ đầy đủ. Thứ sáu, phải xác định rõ vị trí, vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị. Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị, không đứng trên hoặc đứng bên ngoài hệ thống chính trị. Là một bộ phận, một thành viên của hệ thống chính trị nhưng Đảng lại phải đảm nhận trọng trách lãnh đạo hệ thống chính trị. Không xác định rõ vị trí, vị thế ấy thì hoặc là Đảng sẽ buông lỏng vai trò lãnh đạo, hoặc là Đảng sẽ độc đoán chuyên quyền. Dù buông lỏng, hay độc đoán chuyên quyền thì hệ quả của nó đối với việc thực thi dân chủ cho nhân dân đều rất xấu ./.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị): Phần 1
121 p | 368 | 40
-
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị): Phần 2
151 p | 60 | 25
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh: Chương 6 - ThS. Hồ Trần Hùng
35 p | 13 | 8
-
Ebook Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và việc vận dụng trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam: Phần 1
97 p | 5 | 4
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh: Chương 7 - ThS. Hồ Trần Hùng
62 p | 14 | 4
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh: Chương 2 - ThS. Hồ Trần Hùng
45 p | 5 | 4
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh: Chương 1 - ThS. Hồ Trần Hùng
53 p | 6 | 4
-
Đề cương chi tiết học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh - Trường ĐH Kinh tế và Quản trị Kinh Doanh (ĐH Thái Nguyên)
29 p | 7 | 4
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh: Chương 3 - ThS. Hồ Trần Hùng
27 p | 4 | 3
-
Đề cương học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh (Mã học phần: PLT06A)
13 p | 8 | 3
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh: Chương 5 - ThS. Hồ Trần Hùng
73 p | 5 | 3
-
Đề cương chi tiết học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh (Mã học phần: 0101120600)
14 p | 8 | 2
-
Đề cương chi tiết học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh (Mã học phần: CT005)
39 p | 5 | 2
-
Đề cương chi tiết học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh (Hệ đào tạo Đại học – Ngành: Tài chính - Ngân hàng) - Trường Đại học Kinh tế Nghệ An
33 p | 9 | 2
-
Đôi điều suy nghĩ về phong cách Hồ Chí Minh trong việc nghiên cứu, giảng dạy, tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh
3 p | 4 | 2
-
Xây dựng đội ngũ nhà giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh
5 p | 4 | 2
-
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay
5 p | 3 | 1
-
Giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường chuyên nghiệp tỉnh Sơn La qua giảng dạy môn “Tư tưởng Hồ Chí Minh”
11 p | 3 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn