Vũ Trụ Nhân Linh
I. Cơ Cấu Thời Gian
Phần 2
2. Có một khởi điểm và chung điểm của không thời chăng?
Muốn tìm lời đáp cho u hỏi trên tcần phải biết Thiên cầu một
lúc bắt đầu và một lúc chung cục chăng: khởi điểm đi tìm li đáp cho u
này nm trong trái đất.
Trên kia nói đến Không thời liên tương đối áp dụng cho từng người
quan sát, nay nói vtrụ tổng quát, liệu thtìm ra một hệ thống nào
chung cho mọi ngưi chăng, một hướng chung tương tnhư của trái đất vi
đường kinh có hai cực nam bắc và vĩ tuyến chạy vòng quanh ti đất theo
hướng Đông y. Vấn đề đặt ra là trong Không thời liên của toàn ththiên
cầu có tìm ra được những đưng hướng tương tự. Nếu có thì đường sẽ là
một không gian cong vòng tn, nên có cùng, nhưng giới hạn (fini mais
illimité): có cùng nghĩa là nếu ta đi thẳng truớc mặt mãi tngày trli
điểm khởi hành theo đường cong và vòng tr li trên mình; còn hn vì
không mốc gii và ngưi ta thể cứ tiếp tục đi nữa. Dựa trên hai đường
kinh vĩ với hai tính cách cùng nhưng hạn, chúng ta có thể hình
dung ra một mẫu thiên cu tương tự với trái đất, nghĩa là các đường kinh gặp
nhau hai cực Nam Bắc coi đó như nguồn gốc của các đường kinh và
cũng là nguồn gốc của thời gian. Còn đường vĩ là nguồn gốc ca không gian.
Vđường kinh vn đề đặt ra là thi gian về vãng là vô cùng hay
một khởi điểm. Sự phát kiến ra phương pháp khác nhau để đo tuổi các
núi, c bin và nhận ra trái đất đã khi đầu từ quãng mười tỉ năm trở li,
với việc đo tuổi các vân hà bng cách tính độ các sao ran ra nhau ra, thì cũng
xuýt xoát hợp vi con số mươi tỉ m. Như thế là thiên cu đã có một khởi
điểm, nên thi gian cũng có một lúc bắt đầu.
Còn vđường thuộc hình thái Thiên cu thì xem ra cũng tương tự
với ti đất, nghĩa là vừa cùng vừa hạn. cùng nghĩa là không một
điểm nào trong thiên cu xa người quan sát cách cùng, khối lượng
không gian không th giãn ra cùng. Đến một lúc nào đó mật độ ng
lượng sẽ đi tới độ không thể giãn thêm được nữa, nên có cùng.
Nhưng vô hạn, vì nếu tiến thẳng trước thì một lúc nào lại trở về khởi
điểm nhưng không gặp mốc, vì nếu có thì bên kia giới mốc li cũng vn còn
là thiên cu, nên không gii một thiệt thụ, do đó thể hình dung ra
Thiên cu theo đường vòng cầu, tương tvới ti đất của ta. Như thế thiên
cầu sẽ không theo hình học phẳng của Euclide, hay hình học hyperbol của
Lobatchewski, thtách rời khỏi thời gian nhưng theo hình học vòng cu
của Riemann, vì chhình học này mi hi được hai điều kiện vừa cùng
vừa vô hạn.
Đó mấy yếu tố của khoa học ta thể dùng làm điểm tựa để hình
dung là qtrình din tiến của mật độ năng lượng trong khoảng thiên cầu
với sức ng từ cao đến thấp và nhất đường kính của thiên cu vi sức
nóng xuyên qua các chng tiến triển của nó. Để kiếm câu đáp cho vấn đề
này, cn trước hết phải tìm ra luật chung chi phối tất cả thiên cu. Luật
chung đó tất cũng như các luật tắc khác của khoa học tức phải tính cách
bất biến, để giúp cho nhà khoa học căn cứ vững chắc đng dtoán tương
lai. Trước hết phải đặt giả thiết rằng trong thiên cu đó một lúc mà t
trọng (densité) năng lượng khắp nơi đồng đều nhau. i khác đi, thay vì
xem qng kng hu như rỗng và chứa đng các ngôi sao rất đông đặc như
quan nim im lìm quen m thế thì người ta giả thiết một lúc nhất định nào
đó tất cả thiên cu đều được cht đầy bằng một thể lỏng mà ttrọng khắp nơi
bằng nhau. Không gian giả thiết như thế sẽ những đặc tính như nhau
trong mi kng điểm. Đó đại để hình thái của thiên cu. Chỉ còn thiếu
một hệ thống phương trình để xác định cách tiến triển và ttrọng năng ng
cùng slên xuống của sức ng cũng như tầm thước đường kính của thiên
cầu xuyên qua qtrình tiến triển ca nó. m 1915, thuyết tương đối tổng
quát liệu biện đphương trình cn thiết, nhưng phải trải qua rất nhiều đề
nghkhác nhau cho mãi tới năm 1927 nhà khoa học Georges Lemaitre mi
đưa ra được một mu thiên cu vi ttrọng đồng đều một lúc nào đó,
vừa hợp các phương trình tương đi thuyết, li vừa đổi thay theo thời gian.
Theo đó thì ban sơ thiên cầu chỉ là một hạt nhân cc kỳ đông đặc với đường
kính rng chừng ít tm y số, rồi nlên giãn ra liên tục cho tới ngày
nay vẫn còn bành trướng tiếp diễn. Điều đáng chú ý đặc biệt năm 1930
nhà thiên văn Hubble đã minh chng được s nh trướng của thiên cu
đang giãn ra đã bằng chứng kiểm điểm được. Tuy nhiên lại gặp kkn
khác nếu giãn ra mãi tthời gian sẽ cùng trong tương lai, là điều
trái vi không gian cùng tuy vô hạn. Và nếu thế thì kng thời hết liên
kết nữa sao? Nhưng may thay cũng năm đó thuyết gia Eddington đã dùng
phương trình ca Einstein để trình y tính cách thay đổi của thiên cu tức
thgiãn ra cũng thể co rút lại. Tính cách thể co rút này gii
đáp vấn nạn nêu lên trên: tức là thi gian cũng cùng y như kng gian
và từ đó người ta cý đến quan niệm của thiên cu có mt co một giãn như
kiểu vũ trụ quan Ấn Độ với một thở ra một hít vào, hay theo chu kỳ nht hạp
nhất tịch kiểu Kinh Dịch. Tuy nhiên còn một số khuyết điểm: trước hết đó
chlà một biểu tượng, một số ng thức tưởng tượng kiểu toán học, người ta
không hình dung ra được. Thứ đến tại sao cái nhân sơ khi lại chỉ ln chừng
vài trăm cây s mà không hơn hay kém. Thứ ba khoa Thiên văn mới ch
chứng minh được có s giãn ra, còn đợt co rút lại chưa tìm được bằng
chứng.
Các quy nht thuyết (les doctrines unitaires) sẽ gii quyết ba khó khăn
bằng rút nhỏ cái nhân sơ khởi vào tm kích một dương-điện tử (proton) vi
dương điện tử n ng (antiproton) c đó người ta vừa hình dung ra được
csự giãn ra ln sự co vào v.v… Nhưng đó mới là những giả thuyết tuy
đóng góp thêm nhiều điểm giải đáp xuôi hơn. Dầu sao thì khoa học đã nm
vững một số điểm sau: trước hình cu của Thiên cu; rồi đến s biến
chuyển của thiên cu theo chiều giãn ra là khi sự từ lối 10 tỉ năm trước đây;
ba là đường kính hạt nhân khởi c đó cực kđông đặc hơn đường
kính thiên cu hiện đại vô số ln; bốn độ nóng của thiên cu hạ xuống dần
theo đà giãn ra của thiên cu.