Vũ Trụ Nhân Linh
II. Hòa Thi Trước Khoa Lượng Tử Và
Quy Nhất Thuyết
Phần 4
Vị trí hòa thời trước các khoa học hiện đại.
Trong đồ biểu sau những nét lin chỉ nh hưởng không gian, nét đứt
chỉ ý nim thi gian, nét ngang to chỉ đà tăng trưởng về ý nim thời gian
(mất trang 67, 68)
Quy nhất thuyết tương đối thuyết nối i do chính Einstein đặt nền
móng được c khoa học gia khác nối tiếp để giải quyết vấn nạn đặt ra
cho tương đối thuyết do khoa ng tử. Khoa này ch trương rằng những
hòn "gạch" xây nên thiên cu là những vi thể (corpuscules) mà trước nhất họ
cho là nguyên tử, rồi về sau lại cho là electron, proton, neutron ri sau đến
một chui các thứ méson và cuối cùng nhn ra mỗi vi thể một âm vi thể
(antiparticule), tất cđều là biệt cách (discontinu) ngược với chủ trương vạn
vật có tính cách liên tục kiểu làn sóng Einstein. Smâu thun này thực ra đã
lâu đời làm cho các nhà khoa học không biết chn bên nào. Biệt ch hay
liên tục (dicontinu ou continu).
m 1833, ông Faraday đã minh chứng được vi thể ca đin kbằng
tìm ra được âm điện tử lectron) và như thế là thuyết "biệt cách" thng lợi,
nhất là thuyết nguyên tchủ trương biệt cách lúc đó cũng đang phát trin
mạnh nên chủ trương "biệt cách" càng thắng thế.
Nhưng đến năm 1865, ông Maxwell li chứng minh được tính chất làn
sóng (ondulatoire: tức là liên tục) bằng hiện thực sự đúc kết thuyết quang
học với từ trường và điện k. Khoa học điện tử xut hiện từ đấy và sau được
những công trình t nghim của ông Hertz đưa đến bước khải hoàn. Thêm
vào đó m 1905, chính Einstein cũng đã gii nghĩa thuyết lượng hóa ánh
sáng kết thành do những hạt gi là phquang. Thế mà thuyết tương đối chủ
trương là liên tục, nên gây hỗn độn. Mức hn độn ng gia ng thêm khi
năm 1920 ông Louis de Broglie nhận ra chính những vi thể tính chất làn
sóng. Ý nim này được hai ông Schroedinger và Heisenberg quảng diễn
thêm. Thế là các nhà khoa học không biết y cứ vào đâu. Nhiều người theo đề
nghông Bohr đưa ra thuyết "bổ túc": sự vật vừa tính ch liên tục như
làn sóng, vừa tính chất cách biệt như hạt nhân vi lun i nhiên
(probabiliste). Nng nếu chấp nhận luận i nhiên tli không thể din
tquỹ đạo của âm đin tử vì nếu biết được đích xác vận tốc của trong
một c nhất định tli không thxác định vị tcủa nó trong c đó, và
ngược lại. Đấy là điều làm bn m các nhà bác học khoa học. Mấy tháng
trước khi qua đời, Einstein đã nhìn thấy i điểm khó khăn xoay quanh
cái điểm toán học không có khối lượng. Ông nhận ra cần thêm vào khoa học
một đim vật lý với những chiu kích tối thiu mà lý trí con người không thể
xuống thấp hơn nữa. Nói khác kh năng tối hậu phân biệt ca con người
(pouvoir séparateur) slà bdài ti lối mt ngàn tphần milimét, viết tắt
là lo - longeur élémentaire, công thức lo này s giúp vào skiến tạo ra Quy
nhất thuyết để giải quyết kkhăn giữa biệt cách và liên tục bằng đưa ra
phân biệt giữa stri và thực tại (distinction entre le connu et le réel). Sở dĩ
svật xuất hiện như cách biệt nhau là do giác quan chthâu nhận được có
một ka cạnh của sự vật. Rồi trí dùng nhng dkin đó để kiến tạo ra
dạng thực tại, nên cũng thấy svật cách biệt nhau. Nng đó chưa phi
là thực tại tự thân, là cái tim n đối với giác quan, và cái đó tính cách
liên tục. Nếu đem thực tại với biển c thì những làn sóng nhô nhấp là
những ka cạnh sự vật lần lần làm biến đổi hình ảnh cụ thể về tr theo đà
khám pra chúng, nhưng đại dương vẫn là một toàn thliên tục. Đó là li
giải gkhó khăn giữa biệt cách và liên tục. Kể ra cũng là một bước tiến đến
sát cạnh thực tại và đặt cho một tên. Tuy nhiên, thc tại bàn đây cũng là
biểu ng chưa phải là thực tại tthân, vì Liên thi của Einstein mới do
trí ý thức đạt được, chưa phải là do m linh nên chưa có hàng dọc tâm linh,
mới là Không thời ý, tính cách khách quan, chưa không thời m được
quan nim như một Ai, như một chủ thể, một đại ngã m linh. Điu đó
không do li ca Einstein chính ông đã tìm lối thoát vượt bằng n giáo,
bằng huyền niệm. Vậy là do nhng gii mốc mà tri thức khoa học không thể
nào vượt qua được nữa.
Nhưng hng số c, h, lo. là nhng biên gii ca t(h: một hột
năng lượng chứa trong một hột ánh sáng được công thức hóa do Planck) và
cũng là những hng số ti hu không thgiản lược hơn được nữa (constantes
irréductibles).
Đó những tiêu biểu ca sự biệt cách và cũng là những mốc giới ca
tri thức con người chứ kng phi của thực thể. Nói rằng triết Đông thiếu
hằng số chưa nhận ra bình din ca đã lên đến đợt 4 hoặc 5, đợt đã
vượt những gii mốc của tri thức mà khoa học kêu là hằng số. Nền triết học
nào còn có hằng số thì chưa phải là triết đạt thân, vì n nói ti số, là n
trong ng đếm đo hiện tượng đợt 3 trở xuống. Triết học chân thực không
nên có hằng số nhưng phải Hằng m. Từ trái đất ta đi lên đến n hà gn
nhất là Andromèdre, ánh sáng phải đi hết hai triệu năm. Với hng số c ta biết
không vật nào đi mau hơn ánh ng tức gần 300.000 cây số một giây.
Nhưng khi i đến sao Andromèdre hay những vân xa hơn gấp bội, trí ta
lin đạt tới liền. Tuy nhiên đó mi là cách mường tượng nên tru tượng; còn
với hằng m, thì ch bằng một trực thị (uno intuitu) toàn ththân m với
hết mọi năng trong người: ý, tình, c đều tham dvào dòng sng viên
mãn, như u i ca Boetius: "chiếm trọn vẹn được ssống trong một trật
cách hoàn hảo, toàn thdòng sng" (tota vitoe simul et perfecta posessio,
Boèce) hay nói "Nm tiên thtrụ" cũng thế. đợt ba ta mới hằng