
29
8
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐỊNH HƯỚNG SÁNG NGHIỆP:
NGHIÊN CỨU TỪ GÓC ĐỘ THỂ CHẾ ĐỐI VỚI CÁC
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VIỆT NAM
TS. Bùi Anh Tuấn
Công ty Cổ phần Hà Nội - Hưng Yên
PGS.TS. Nguyễn Thị Tuyết Mai
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Tóm tắt
Bài viết này tập trung nghiên cứu tác động của các yếu tố thể chế chính thống
và không chính thống tới định hướng sáng nghiệp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Việt Nam. Để kiểm định mô hình và các giả thuyết nghiên cứu, một cuộc khảo sát
được thực hiện đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở ba trung tâm kinh tế lớn nhất
của Việt Nam: Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả phân tích mô
hình cấu trúc tuyến tính (SEM) đã khẳng định vai trò quan trọng của thể chế (chính
thống và không chính thống) đối với định hướng sáng nghiệp. Cụ thể, lòng tin thể chế
có tác động tích cực tới định hướng sáng nghiệp, trong khi đó sự không phù hợp của
hệ thống chính sách, qui định và tham nhũng có tác động tiêu cực tới các khía cạnh
của định hướng sáng nghiệp. Bài viết cũng đưa ra một số gợi ý để thúc đẩy định
hướng sáng nghiệp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.
Từ khóa: Thể chế chính thống, thể chế không chính thống, định hướng sáng
nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1. Giới thiệu
Vai trò quan trọng của thể chế trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đã
được đề cập trong rất nhiều nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam. Đặc biệt, thể chế
với vai trò là môi trường kinh doanh ảnh hưởng đến sự phát triển của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Trong
bối cảnh các quốc gia đang chuyển đổi, thì thể chế không chính thống có thể có ảnh
hưởng lớn hơn thể chế chính thống (Peng & Heath, 1996; Williamson, 2009). Việt
Nam là một quốc gia mới nổi và đang trong giai đoạn chuyển đổi (emerging and
transitional economy) thì các DNVVN khó có thể tránh khỏi các tác động của thể chế
không chính thống. Vì vậy, việc xem xét tác động của cả thể chế chính thống và
không chính thống là cần thiết.

299
Trong những năm gần đây, định hướng sáng nghiệp (entrepreneurial
orientation) đã trở thành một nội dung quan trọng và chính yếu trong hầu hết các
nghiên cứu về doanh nghiệp và doanh nhân. Chủ đề nghiên cứu liên quan tới định
hướng sáng nghiệp đã thu hút được sự quan tâm của rất nhiều các nhà nghiên cứu
trên thế giới. Định hướng sáng nghiệp được cho là một yếu tố quan trọng cho thành
công của doanh nghiệp (Vij & Bedi, 2012). Nội dung này cũng đã được nghiên cứu
nhiều tại các DNVVN trên thế giới do vai trò quan trọng của loại hình doanh nghiệp
này trong nền kinh tế của mỗi quốc gia (Keh & cộng sự, 2007; Wang & cộng sự,
2015). Ở Việt Nam, định hướng sáng nghiệp và các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng
sáng nghiệp cũng đã được xem xét, trao đổi trong một số nghiên cứu như Swierczek
& Thai (2003) và Nguyen (2009, 2011). Tuy nhiên, ảnh hưởng của thể chế (cả thể
chế chính thống và không chính thống) đến định hướng sáng nghiệp vẫn còn chưa
được nghiên cứu nhiều (Dickson và Weaver, 2008).
Tính đến hết tháng 12 năm 2015 thì cả nước có khoảng trên 500.000 DNVVN,
chiếm 97,5% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động, đóng góp trên 40% GDP và thu
hút trên 50% lực lượng lao động của cả nước (VCCI, 2016). Tuy nhiên, từ sau giai
đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu đến nay, số lượng doanh nghiệp giải thể và đóng
cửa dường như vẫn không giảm. Số lượng các doanh nghiệp phải rời bỏ thị trường
trong năm 2016 đã tăng 32% so với năm 2015 (Cục đăng ký kinh doanh, 2017). Năng
lực sản xuất kinh doanh của nhiều DNVVN Việt Nam còn rất hạn chế. Vì vậy, sức
cạnh tranh trên thị trường của các doanh nghiệp còn yếu. Đặc trưng cơ bản của các
DNVVN thường được nhắc tới như quy mô hoạt động nhỏ, sử dụng nhiều lực lượng
lao động phổ thông, công nghệ lạc hậu, vốn ít và năng suất lao động thấp.
Mục đích của bài viết này là tìm hiểu tác động của một số yếu tố của thể chế
(chính thống và không chính thống) tới định hướng sáng nghiệp của các DNVVN
Việt Nam, trong bối cảnh của một nền kinh tế chuyển đổi và đang phát triển. Phần
tiếp theo của bài viết sẽ trình bày về cơ sở lý luận và giả thuyết nghiên cứu. Sau đó
là phần phương pháp nghiên cứu và kết quả nghiên cứu. Kết thúc bài viết là phần thảo
luận kết quả nghiên cứu và đề xuất, kiến nghị.
2. Cơ sở lý luận và giả thuyết nghiên cứu
2.1. Thể chế: thể chế chính thống và không chính thống
Nhiều khái niệm thể chế đã được các nhà nghiên cứu đưa ra căn cứ vào góc
nhìn và bối cảnh nghiên cứu khác nhau. Veblen (1914) đã đưa ra một trong những
khái niệm đầu tiên về thể chế, theo đó thể chế gồm phong tục, quy tắc ứng xử, các
nguyên tắc về quyền và phép tắc. Như vậy, thể chế là các ràng buộc bên ngoài buộc
mọi người phải tuân thủ và các ràng buộc bên trong thông qua nhận thức của các cá
nhân rồi dẫn tới hành động. North (1981) định nghĩa thể chế là “một tập hợp các quy

30
0
tắc, quy trình tuân thủ, các chuẩn mực hành vi đạo đức được thiết kế để kiểm soát các
hành vi của các cá nhân vì lợi ích tối đa hóa sự giàu có hay lợi ích của tập thể”. Mặc
dù có nhiều khái niệm dựa trên các góc độ khác nhau nhưng sự phát triển khái niệm
thể chế của North (1990) và Scott (1995) được nhiều tác giả sử dụng trong các nghiên
cứu về thể chế. Theo North (1990) thể chế được hiểu là “luật chơi trong một xã hội”.
Tương tự, thể chế nói tới hệ thống các luật lệ chung, khá ổn định, được xã hội thừa
nhận và tuân thủ (Scott, 1995). Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu về thể chế với vai trò là các yếu tố của môi trường kinh doanh không bao
gồm thể chế chính trị, mặc dù bản chất của thể chế là phụ thuộc yếu tố chính trị
(North, 1990).
Thể chế bao gồm thể chế chính thống (formal institutions) và thể chế không
chính thống (informal institutions) (North, 1990). North (1991,1997) đã tiếp tục làm
rõ hơn khái niệm về thể chế với các ràng buộc chính thống và không chính thống.
Thể chế chính thống là nói tới hệ thống luật pháp, quy định, chính sách, hợp đồng và
hiệu lực thực thi. Cùng với toàn bộ văn bản luật pháp và chính sách là cơ chế thực
thi, sự điều tiết, giám sát của các cơ quan liên quan giúp cho việc thực hiện chính
sách. Thể chế chính thống có nội dung rất rộng. Roxas và công sự (2008) đã xem xét
ảnh hưởng của thể chế chính thống tới định hướng chiến lược của các doanh nghiệp
siêu nhỏ, nhỏ và vừa tại các quốc gia đang phát triển ở Châu Á. Theo nghiên cứu này
thì thể chế chính thống gồm 5 yếu tố: tính pháp quyền (rule of law), bảo về quyền sở
hữu (property rights protection), các chính sách của Nhà nước (government policies),
chất lượng điều hành (regulatory quality), và sự trợ giúp của Nhà nước (government
assistance). Trong bối cảnh của các quốc gia chuyển đổi và đang phát triển thì nhiều
yếu tố của thể chế chính thống đã trở thành rào cản đối với hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV (Aidis, 2005; Hashi và Krasniqi, 2011;
Zhu và các cộng sự, 2012). Chất lượng điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước
là một trong các rào cản thuộc về chất lượng thể chế chính thống đã được nhiều nghiên
cứu đề cập đến (Chadee và Roxas, 2013; Roxas và Chadee, 2012). Một chỉ báo quan
trọng của chất lượng thể chế chính thống, đó là rào cản về hành chính cao và phức
tạp của quy trình đăng ký pháp lý cho hoạt động kinh doanh của các DNNVV
(Ostapenko, 2015). Mức thuế và quản lý thuế cũng là một rào cản lớn mà các DNNVV
phải đối mặt (Hashi & Krasniqi, 2011). Các quốc gia có chất lượng thể chế thấp thì
có số lượng quy trình và quy định rất lớn, việc thực hiện cũng không nhất quán nên
làm tăng chi phí kinh doanh của các doanh nghiệp (Autio & Fu, 2013). Bên cạnh đó,
các thay đổi thường xuyên của các luật, nghị định, quy định và các thủ tục quy trình
sẽ dẫn tới kết quả không chắc chắn, các chi phí về tuân thủ và chi phí cho thông tin
cao hơn. Sự không phù hợp về các quy định chính sách này sẽ ảnh hưởng đến hành
vi kinh doanh của các doanh nghiệp (Lajqi & Krasniqi, 2017). Các rào cản được nêu

301
ở trên của thể chế chính thống cũng chính là các đặc điểm nổi bật của thể chế chính
thống ở Việt Nam đã được các nghiên cứu chỉ ra: “Chất lượng của hệ thống luật còn
thấp, phải thường xuyên sửa đổi…, không ít luật chồng chéo mâu thuẫn nhau…thủ
tục hành chính vừa nhiều vừa phức tạp” ( Lê Du Phong & Lê Huỳnh Mai, 2018). “Hệ
thống pháp luật thiếu tính ổn định, thường xuyên thay đổi gây bất lợi cho các chủ thể
thị trường…, các quy định chính sách chưa phù hợp tạo rào cản” cho các hoạt động
đầu tư của các doanh nghiệp (Nguyễn Thị Luyến, 2018). Đây cũng là hai yếu tố thể
chế chính thống được đánh giá rất quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
các DNNVV ở Việt Nam (Trần Kim Chung & Trần Tiến Dũng, 2018). Nghiên cứu
này sẽ xem xét ảnh hưởng của hai yếu tố này tới từng khía cạnh của định hướng sáng
nghiệp của các DNVVN Việt Nam.
(1) Rào cản từ quản lý điều hành của các cơ quan quan quản lý nhà nước được
định nghĩa là các rào cản đối với hoạt động của các doanh nghiệp như mức thuế, quản
lý thuế, các hoạt động thanh tra kiểm tra bởi sự áp đặt của nhà nước (Chadee & Roxas,
2013). Các rào cản thể chế này cũng bao gồm thiếu hụt sự hỗ trợ của nhà nước cho
phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp như tài chính và các dịch vụ hỗ trợ (Hashi
& Krasniqi, 2011; Zhu & cộng sự, 2012).
(2) Sự không phù hợp của hệ thống chính sách, quy định được định nghĩa là tính
phức tạp/sự chồng chéo, thiếu rõ ràng và tính biến động/thiếu ổn định và thiếu nhất
quán của hệ thống chính sách, quy định của nhà nước. Các rào cản này được đề cập
đến bởi Lajqi và Krasniqi (2017).
Thể chế không chính thống nói tới các giá trị ngầm định trong các quan hệ xã
hội, kỳ vọng chung của các bên (Scott, 1995) và thông thường không thể hiện bằng
văn bản (Helmke & Levitsky, 2006), được xã hội thừa nhận và tuân thủ (ví dụ: tục
lệ, văn hóa, chuẩn mực, truyền thống, và các hành vi được chấp nhận). Thể chế
không chính thống có thể hạn chế thể chế chính thống hoặc ngược lại (Williamson,
2000). Trong một số bối cảnh cụ thể, thể chế không chính thống lại hỗ trợ thể chế
chính thống (Peng & Heath, 1996). Mặc dù còn có các ý kiến khác nhau, nhìn
chung thể chế không chính thống có thể được xác định theo ba nhóm yếu tố chủ
yếu: 1) các yếu tố văn hóa quốc gia, các chuẩn mực trong xã hội (Busenitz & cộng
sự, 2000); 2) các yếu tố xã hội như lòng tin, danh tiếng (Wicks & Berman, 2004;
Seyoum, 2011); và 3) các yếu tố được sinh ra do kết quả của sự thiếu hụt và yếu
kém của thể chế chính thống như tham nhũng và kết nối chính trị (Li, 2009). Tất
cả ba nhóm yếu tố này của thể chế không chính thống đều hướng tới việc đạt được
“sự chấp nhận” khi phải tuân thủ “luật chơi” trong một xã hội. Nghiên cứu này tập
trung vào tìm hiểu ảnh hưởng của hai yếu tố thể chế không chính thống thường
được đề cập trong bối cảnh nền kinh tế chuyển đổi và đang phát triển là tham

30
2
nhũng (Li, 2009, Zhghenti, 2017) và lòng tin thể chế (Nguyen & cộng sự, 2005;
Seyoum, 2011).
(1) Tham nhũng tồn tại ở tất cả các quốc gia. Nó nói tới việc lạm dụng quyền
hạn được giao phó cho lợi ích cá nhân (Bardhan, 1997, Transparency International,
2010). Tham nhũng được định nghĩa là các cách tự làm giàu, tự thưởng tiền của quan
chức nhà nước từ cao nhất xuống thấp nhất, để nhận được tiền và quà cho cá nhân từ
mọi giao dịch của nhà nước bất cứ khi nào có thể. Khái niệm tham nhũng này đã được
sử dụng trong nhiều nghiên cứu trước, bao gồm cả những nghiên cứu trong bối cảnh
các nền kinh tế chuyển đổi và đang phát triển (Avnimelech & cộng sự, 2014, Chadee
& Roxas, 2013), và cũng được sử dụng trong nghiên cứu này.
(2) Lòng tin thể chế được coi là một yếu tố của thể chế không chính thống. Nó
đề cập tới các kỳ vọng được chia sẻ có nguồn gốc từ các cấu trúc xã hội chính thức
thông qua các tín hiệu như về quy định pháp luật, ngân hàng, sự quan liêu của chính
phủ (Fuglsang và Jagd, 2015). Nhìn chung, lòng tin thể chế vượt ra khỏi một giao
dịch nhất định và vượt ra ngoài các đối tác trao đổi cụ thể (Zucker, 1986).
2.2. Định hướng sáng nghiệp và các khía cạnh liên quan
Khái niệm về định hướng sáng nghiệp (hay tinh thần doanh nhân) đã trở thành
một khái niệm trung tâm trong lĩnh vực nghiên cứu về tinh thần khởi nghiệp và đã
thu hút một số lượng đáng kể các nghiên cứu cả lý thuyết và thực nghiệm trên thế
giới (Covin & cộng sự, 2006; Harmas, 2013; Rauch & cộng sự, 2009). Miller và
Friesen (1982) lần đầu tiên đã đưa ra khái niệm về định hướng sáng nghiệp
(entrepreneurial orientation). Lumpkin và Dess (1996) định nghĩa định hướng sáng
nghiệp là nói tới những quá trình, những hoạt động thực tế và những hoạt động ra
quyết định dẫn tới sự ra đời của những cái mới trong doanh nghiệp. Như vậy, định
hướng sáng nghiệp có thể được xem như quá trình ra quyết định chiến lược kinh
doanh mà các nhà lãnh đạo cấp cao của doanh nghiệp đã thực hiện cho tổ chức của
họ nhằm mục đích duy trì tầm nhìn và tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp
(Mason & cộng sự, 2015; Rauch & cộng sự, 2009; Wales & cộng sự, 2011). Trong
nhiều nghiên cứu, định hướng sáng nghiệp được đề xuất như là một cấu trúc đa chiều.
Miller (1983) đã xác định định hướng sáng nghiệp gồm có ba yếu tố cấu thành:
khuynh hướng chấp nhận rủi ro (risk-taking), hành động một cách chủ động, tiên
phong đi trước đối thủ (acting proactively) và hành động một cách sáng tạo, đổi mới
(innovativeness). Lumpkin và Dess (1996) đã đề xuất thêm hai khía cạnh vào cấu trúc
của định hướng sáng nghiệp, đó là tính quyết liệt cạnh tranh và tính tự chủ. Tuy nhiên,
phổ biến trong nhiều nghiên cứu, định hướng sáng nghiệp chủ yếu được xem xét trên
ba khía cạnh hay yếu tố cấu thành được đề cập bới Miller (1983) (ví dụ: Keh & cộng