Ảnh hưởng của các hóa chất đến
cuộc sống con người
Tại phiên họp thứ 2 của Hội nghị quốc tế về quản lý các hoá chất (ICCM2) của Liên Hợp
Quốc, các nhà khoa học đã cảnh báo về những rủi ro hoá chất mà con người đang phải
đối mặt và đưa ra Tiếp cận chiến lược về quản lý các hoá chất quốc tế (SAICM). Tham
gia Hi nghị khoảng 800 đại biểu từ các chính phủ, các ngành công nghiệp và các t
chức phi chính phủ.
Theo bà Viveka Bohn, nguyên đại sứ môi trường Thuỵ Điển, đây là cơ hội nhằm tạo ra
sự thay đổi lớn hướng tới tương lai không có chất độc hại. Vào năm 2020, SAICM có thể
làm giảm đáng kể rủi ro liên quan đến vòng đời của các hoá chất.
Quản an toàn các hoá chất trong các sản phẩm sử dụng hàng ngày trở nên cấp bách. Để
bo vệ trẻ em và các thế hệ tương lai, thế giới cần có chiến lược toàn cầu về tri thức và
thông tin. Bà Viveka cho rằng, chính phủ các nước và các ngànhng nghiệp phải có
trách nhim rõ ràng để giải quyết các vấn đề về sức khoẻ và môi trường liên quan đến các
hoá chất. Tuy nhiên, các nhà khoa học cũng giữ vai trò quan trọng trong việc tuyên
truyn và giải thích chong chúng và các nhà chính tr một cách ràng và khách quan
những kiến thức mi nhất về những ảnh hưởng của việc tiếp xúc với các hoá chất, đặc
biệt là ảnh hưởng của chất hỗn hợp và của các sản phẩm bị biến đổi khó xác định.
Ảnh hưởng của pha trộn, đó là một số hoá chất có khnăng kết hợp với nhau gây ảnh
hưởng đến hoạt đng của con người không có thể dự báo trước,cần phải nghiên cứu sâu
hơn nữa về vấn đề này.
Bohn kêu gi lập quỹ toàn cầu cho nghiên cứu khoa học về các hoá chất. Uỷ ban Liên
Hợp Quốc có thể giúp đỡ và yêu cầu UNEP và Tổ chức Y tế Thế giới thành lp U ban
hoá chất quốc tế ging như Uỷ ban liên chính phủ về biến đổi k hậu. Biến đổi khí hậu
liên quan đến việc quản yếu kém các hoá chất cần được nhấn mnh.
Cuộc họp ICCM đầu tiên ở Dubai năm 2006 đã không đạt được sự thống nhất về vai trò
của Ngân hàng thế gii (WB) đối với SAICM. Vì Ngân hàng Thế giới vai trò quan
trọng trong việc cấp vốn cho các chương trình liên quan đến hoá chất, WB givai trò
quyết định trong các hoạt động của SAICM.
Các hội thảo của SAICM tập trung thảo luận 4 vấn đề liên quan đến công nghệ nanô, chất
thải điện tử, chì trong sơn và các hoá chất trong các sản phẩm hàng ny.
Công nghệ nanô
Công nghệ nanô (ở cấp độ phân tvà nguyên tử, với các sản phẩm và chất có ch thước
rất nh) mang lại những lợi ích to lớn như: các thiết bị lc cầm tay thlc nước bùn và
những tinh thể có thể loi bỏ chất ô nhim asen khỏi nước giếng và những tấm lá kim loại
có thể biến nhà ở và văn phòng thành các trạm đin nhỏ.
Công nghệ nanô cũng sẽ tạo các loại thuốc tổng hợp giá rẻ phòng bệnh sốt rét và các hợp
chất chống lại bệnh HIV/AIDS.
Những hoá chất trong sản phẩm
Mọi thứ đang tồn tại và những vật thểchigiác đều được tạo ra từ các hoá chất. Tuy
nhiên, những hoá chất do con người tạo ra có thể phát hiện được trong thuốc trừ sâu và
các dược phẩm, nhưng chúng ta quên rằng, các hoá chất cũng có trong bàn ghế, sách vở
giày dép. Vì vậy, đây là lo ngại toàn cầu đặc biết đối với các nhóm người dễ bị tổn
thương như trẻ em ở độ tuổi đang phát trin, kể cả tr sơ sinh, đang phải đối mặt với
những rủi ro ngày càng tăng. Đôi khi những rủi ro này rất lớn do chì trong đồ trang sức
phtalat trong nhựa.
Trước đây, giảm rủi ro từ các hoá chất tập trung vào phát thải trong không khí và nước
trong quá trình sn xuất. Tuy nhiên, hiện nay các hoá chất nguy hại ng có thể được thải
ra tcác sản phẩm đang được sử dụng và ở cuối vòng đời của sản phẩm.
Chất thải điện tử
Chất thải đin tử hay được gọi là thiết bị điện và điện tử thải (WEEE) bao gồm các loi
máy móc như tủ lạnh, điều hoà nhiệt độ, lò ving, bóng đèn huỳnh quang, máy giặt,
máy tính, đin thoại di động, tivi và thiết bị âm thanh. Đa số các sản phm này nhanh li
thời và tạo ra dòng chất thải lớn, chyếu được xuất khẩu từ các nước phát triển sang
những nước đang phát trin và thường được sử dụng lại như thiết bịhoặc làm chất thải
ở cuối vòng đời của sản phẩm. Chất thải đin tử được xem là dòng thải tăng nhanh nhất
thế giới, dự đoán mi năm tăng khong 50 triệu tấn.
WEEEchứa các chất tồn lưu, khó phân huỷ sinh hc và độc hại (PBT) gồm các kim
loại nặng như chì, niken, crôm, thu ngân và các chất ô nhim hữu cơ như
polychlorinated biphenyls (PCBs) các chất làm chậm cháy được b brôm hóa (BFRs).
Nhiều nước đang phát trin không có cơ sở hạ tầng để quản thích hợp chất thải điện t
hoặc chưa có khung quy định hiệu lực, hoặc nhiều người chưa nhận ra mức độ nguy
hiểm của loi chất thải này.
Theo ước tính, năm 2003 có khoảng 1,3 t chiếc điện thoại di động đang được sử dụng
trên toàn thế giới, và dự đoán năm 2006 sẽ tăng gấp đôi. Tháng 4/2008, số đin thoại di
động đang được sử dụng trên thế gii hơn 3 t chiếc, trung bình khoảng 2 chiếc/người.
Theo Hip hội truyền thông quc tế, châu Phi là th trường di động phát trin nhanh nhất
thế giới, số người đăng ký thuê bao từ năm 1998 đến 2005 tăng 1000%: Ở Nigeria tăng
10.000% ktừ năm 2000 đến năm 2006, một phần là donh trạng nhập khẩu điện thoại
cũ từ các nước phát trin. Tuy nhiên, hoạt động buôn bán đin thoạilàm tăng gấp đôi
lượng chất thải độc hại cho mt số cng đồng và các quốc gia nghèo nhất thế giới.
Hầu hết những nước đang phát trin chưa có hệ thống quản lý phù hợp để giải quyết vấn
đề chất thải hoặc việc tuân thủ các quy định về quản chất thải độc hại chưa có hiệu lực.
Các sản phẩm chưa được dán nhãn tch hợp, chưa có hệ thống thông tin để cảnh báo cho
những người n lẻ, người sử dụng và những người tái xử lý về những rủi ro.
Hậu quả thường là đốt các bãi rác mở, tái chế sân sau và thải vào nước mặt, đe dosức
khoẻ của hàng triệu người chưa nhận thức được vnhững rủi ro và ảnh hưởng nghiêm
trọng đến môi trường. Theo số liệu thống kế, hàm lượng kim loi nặng và nhng chất
chậm cháy trong chất thải điện tử được nhập vào nhng nước đang phát triển cao hơn
nhiều so với quy định được đặt ra ở châu Âu và Bắc M.
Vấn đề này đã cản trở một số nước đạt được nhng mc tiêu phát trin Thiên niên k về
nước và điều kiện vệ sinh vào năm 2015. Lo ngại lớn của những nước đang phát trin là
khi WEEE kết hợp với EEE (thiết bị điện và điện tử), thì hàng hoá không được vận
chuyển như là chất thải mà là hàng cũ nên vmặt kỹ thuật được min trừ theo Công ước
Basel về Kiểm soát vận chuyển chất thải độc hi qua biên gii.
Chì trong sơn
Không có mức độ tiếp xúc với chì nào được xem là an toàn. Từ xa xưa, người ta thừa
nhận chì các đặc tính độc hại. Hiện nay, chì là một trong 20 chất có nguy cơ gây ra
nhiều bệnh nhất trên thế gii. Trong thời gian gần đây, việc hạn chế tiếp xúc với chì trong
xăng là một trong những biện pháp quan trọng nht nhằm cải thiện sức khomôi trường.
Tuy nhiên, nhng sản phẩm chứa chì vẫn được sản xuất và bán rng rãi ở nhiều nước
đang phát trin. Sơn là sản phẩm có chứa hàm lượng chì cao thứ 2 sau xăng. Sơn chứa chì
thường được dùng trong cơ sở hạ tầng như cầu, ngành công nghiệp (phụ tùng ô tô) và cho
những ứng dụng trong ngành hàng hi cũng như trong gia đình.
Đã có bằng chứng cho thy chì trong sơn gây tn thương thần kinh, đặc biệt cho trẻ em
(như giảm trí thông minh) và các công nhân trong nnh công nghiệp chì. Người ở tuổi
trưởng thành có thể mắc các bệnh về thận và tim mạch. Tác động của chì không thể thay
đổi và tiếp tục ảnh hưởng đến giai đoạn pt trin của con người. Bụi bẩn trong nhà là
con đường phổ biến nhất khiến trẻ em bị nhiễm chì trong sơn. Chìy ri ro trong nhiều
năm sau khi sơn được sử dụng.