1

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN TỐ SỞ HỮU NƯỚC NGOÀI ĐẾN CẤU TRÚC VỐN VÀ GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP: BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM TẠI CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN VIỆT NAM

MỤC LỤC

MỤC LỤC ......................................................................................................................................... 1

Danh mục bảng ................................................................................................................................. 2

1. Giới thiệu ................................................................................................................................... 4

2. Tóm tắt các nghiên cứu trước đây và các giả thiế .................................................................... 5

2.1. Các nghiên cứu về tác động của sở hữu nước ngoài lên giá trị doanh nghiệp ................... 5

2.2.

Tác động của sở hữu nước ngoài đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp ............................. 14

3. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................................ 15

3.1. Mẫu quan sát và việc thu thập dữ liệu ................................................................................... 15

3.2. Xây dựng mô hình nghiên cứu thực nghiệm: ................................................................... 16

3.3. Đo lường các biến ............................................................................................................. 17

4. Nội dung nghiên cứu và các kết quả nghiên cứu .................................................................... 24

4.1.

Thống kê mô tả các biến ................................................................................................... 24

4.2.

Phương pháp hồi quy: ...................................................................................................... 27

4.3. Kết quả hồi quy ................................................................................................................. 30

4.3.1. Mô hình giá trị doanh nghiệp (Mô hình 1) ............................................................... 30

4.3.2. Mô hình cấu trúc vốn (Mô hình 2) ............................................................................ 34

4.3.3.

Tính đồng thời của sở hữu nước ngoài, tỉ lệ đòn bẩy và giá trị doanh nghiệp .......... 37

5. Kết luận ................................................................................................................................... 39

TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................................. 41

2

Danh mục bảng

Bảng 1: Tóm tắt phần tính toán các biến

Bảng 2a: Thống kê mô tả các biến toàn bộ các quan sát

Bảng 2b: Thống kê mô tả biến đối với 2 nhóm quan sát

Bảng 3: Sự tương quan giữa các biến

Bảng 4a: Kết quả hồi quy mô hình 1 (Mô hình giá trị công ty) toàn bộ các quan sát

Bảng 4b: Kết quả hồi quy mô hình 1 đối với nhóm công ty có FO <=5%

Bảng 4c: Kết quả hồi quy mô hình 1 đối với nhóm công ty có FO > 5%

Bảng 5a: Kết quả hồi quy mô hình 2 (Mô hình cấu trúc vốn) toàn bộ các quan sát

Bảng 5b: Kết quả hồi quy mô hình 2 đối với nhóm công ty có FO <= 5%

Bảng 5c: Kết quả hồi quy mô hình 2 đối với nhóm công ty có FO >5%

Bảng 6: Kiểm định tính đồng thời bằng phương pháp 3-stage least-square

3

PHẦN TÓM LƯỢC

Bài nghiên cứu tiến hành xem xét mối quan hệ giữa sở hữu nước ngoài với giá trị

doanh nghiệp và cấu trúc vốn của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán

Việt Nam. Dữ liệu được thu thập bao gồm 3402 quan sát là các doanh nghiệp phi tài

chính ở Việt Nam được niêm yết trên Sàn Giao dịch chứng khoán TPHCM ( HOSE) và

Sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) trong giai đoạn từ năm 2006-2012. Đầu tiên

bài nghiên cứu dụng ước lượng Pooled OLS, tuy nhiên vì những hạn chế của phương

pháp này, bài nghiên cứu sử dụng thêm ước lượng Random effect model (REM) và

Fixed effect model (FEM) cho dữ liệu bảng. Kiểm định Hausman cho thấy kết quả của

FEM phù hợp và có ý nghĩa hơn REM. Bên cạnh đó, để kiểm soát vấn đề nội sinh phát

sinh do tính đồng thời giữa các biến, bài nghiên cứu tiến hành hồi quy 3-stage least-

square và có được kết quả phù hợp với các kiểm định trước. Ngoài việc tiến hành phân

tích hồi quy đối với toàn bộ quan sát, bài nghiên cứu cũng phân tích mối tương quan

giữa sở hữu nước ngoài với cấu trúc vốn và giá trị doanh nghiệp của 2 nhóm: nhóm các

quan sát có tỉ lệ sở hữu nước ngoài thấp hơn 5% và nhóm các quan sát có tỉ lệ sở hữu

nước ngoài cao hơn 5%. Tương đồng với kết quả được tìm thấy ở nhiều thị trường

khác trên thế giới, bài nghiên cứu đưa ra những bằng chứng quan trọng cho thấy rằng

sở hữu nước ngoài có tác động tích cực đến giá trị doanh nghiệp và tác động tiêu cực

đối với tỉ lệ đòn bẩy của các doanh nghiệp trên thị trường Việt Nam.

4

1. Giới thiệu

Trên thị trường chứng khoán VN, động thái mua bán của các nhà đầu tư nước ngoài

luôn tỏ ra khá khôn ngoan và dường như luôn có quy tắc nhất định. Xét về tác động,

trong những năm gần đây, đầu tư từ nước ngoài vào các ngành Công nghiệp ở Việt

Nam đã tạo được những bước phát triển mới, đẩy mạnh sự phát triển nền kinh tế.

Trong những tháng cuối năm 2012 và đầu 2013, tổng lượng mua ròng của khối ngoại

trên thị trường thứ cấp tăng gần 20 lần. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng

khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam và là khu vực có tốc độ tăng

trưởng năng động nhất. Chính vì vậy cấu trúc sở hữu và cấu trúc vốn gần đây đã trở

thành những vấn đề lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Bởi vì trước đây hầu hết

các doanh nghiệp Việt Nam thuộc sở hữu nhà nước và phụ thuộc vào nguồn tài chính

từ chính phủ. Tuy nhiên từ những năm giữa thập niên 80 trở đi, nền kinh tế cải cách,

một số doanh nghiệp tư nhân hóa và phát triển nhanh chóng với sự đa dạng trong cấu

trúc sở hữu như sở hữu tư nhân, sở hữu nước ngoài và các công ty cổ phần. Điều đó

được phản ánh qua tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, sự gia nhập tổ chức Thương

mại quốc tế (WTO), sự thành lập thị trường chứng khoán VN năm 2000. Sự tăng

trưởng của các doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào việc tiếp cận nguồn vốn thích hợp,

từ nợ hoặc vốn cổ phần, và việc xác định cấu trúc vốn tối ưu. Trên đà tăng trưởng đó,

Việt Nam vẫn còn thiếu các kênh tài chính đa dạng và các nghiên cứu phù hợp với thực

tiễn về cấu trúc vốn để hỗ trợ các doanh nghiệp đưa ra các quyết định tài chính phù

hợp. Với vai trò là một nền kinh tế mới nổi, Việt Nam đang thể hiện là một nền kinh tế

tiềm năng, thu hút sự quan tâm và có vai trò nhất định trong nền kinh tế thế giới, bên

cạnh đó nguồn vốn đầu tư của nước ngoài cũng như tiến trình hội nhập với nền kinh tế

thế giới cũng đóng vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế nước ta. Vì vậy việc

nghiên cứu mối quan hệ giữa sở hữu nước ngoài với giá trị doanh nghiệp và cấu trúc

vốn ở Việt Nam là rất cần thiết. Mục tiêu tập trung trả lời ba câu hỏi chính: Đối với các

công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, tăng tỉ lệ sở hữu nước ngoài

5

trong cấu trúc vốn có làm tăng giá trị của doanh nghiệp hay không? Sở hữu nước ngoài

có tác động như thế nào đến tỉ lệ đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp? Từ kết quả của 2

câu hỏi trên, các công ty Việt Nam nên duy trì tỉ lệ sở hữu nước ngoài cao hay thấp?

Bài nghiên cứu được thực hiện trên mẫu quan sát của các doanh nghiệp Việt Nam niêm

yết trên hai sàn chứng khoán HOSE và HNX. Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp

ước lượng Pooled OLS, tuy nhiên vì những hạn chế của phương pháp này nên bài

nghiên cứu sử dụng thêm ước lượng random effect model và fixed effect model cho dữ

liệu bảng. Kiểm định Hausman cho thấy kết quả của FEM phù hợp và có ý nghĩa hơn

REM. Kết quả bài nghiên cứu đã đưa ra những bằng chứng quan trong cho thấy rằng

sở hữu nước ngoài có tác động tích cực đến giá trị doanh nghiệp ở Việt Nam. Trong

đó, tỷ lệ sở hữu nước ngoài thấp (<=5%) làm giá trị doanh nghiệp tăng nhiều hơn so

với tỷ lệ sở hữu nước ngoài cao (>5%). Các doanh nghiệp Việt Nam có thể nên duy trì

tỉ lệ sở hữu nước ngoài thấp hơn. Kết quả cũng thể hiện rằng tỷ lệ sở hữu nước ngoài

tăng, làm giảm tỷ lệ đòn bẩy tài chính của các doanh nghiệp. Trong đó, tỷ lệ sở hữu

nước ngoài thấp (<=5%) tác động làm giảm tỷ lệ nợ trong đòn bẩy tài chính của các

doanh nghiệp nhiều hơn so với tỷ lệ sở hữu cao (>5%).

Theo đó bài nghiên cứu được chia thành các phần như sau: Phần 1 giới thiệu các nội

dung chính của chuyên đề và nêu ra mục tiêu nghiên cứu. Phần 2 tóm tắt một số nghiên

cứu trước đây về tác động của sở hữu nước ngoài đối với giá trị doanh nghiệp và cấu

trúc vốn. Phần 3 trình bày về phương pháp nghiên cứu: việc xây dựng các mô hình

nghiên cứu thực nghiệm. Phần 4 trình bày nội dung và kết quả nghiên cứu. Phần 5 đưa

ra kết luận, những đóng góp, hạn chế và hướng phát triển của đề tài.

2. Tóm tắt các nghiên cứu trước đây và các giả thiế

2.1. Các nghiên cứu về tác động của sở hữu nước ngoài lên giá trị doanh nghiệp

Mặc dù hầu hết kết quả của những bài nghiên cứu trước đây về sở hữu nước ngoài tác

động đến giá trị doanh nghiệp và cấu trúc vốn còn nhiều tranh cãi, tuy nhiên có thể

6

thấy phần lớn các bài nghiên cứu này đều cho rằng sở hữu nước ngoài có tác động tích

cực đến giá trị doanh nghiệp. Để dễ dàng đánh giá cũng như có cái nhìn tổng quan và

cụ thể với các lý thuyết về sở hữu nước ngoài trước đây, các nghiên cứu được sắp xếp

theo từng nước khác nhau ở khu vực các nước đang phát triển và các nước phát triển.

Đối với các nước đang phát triển, các dòng vốn đầu tư nước ngoài là một trong nguồn

tài chính quan trọng và có những ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế. Nguồn vốn đầu tư

nước ngoài đổ vào các thị trường này đang ngày càng tăng, chính vì thế tác động đầu

tư nước ngoài đến các doanh nghiệp là vấn đề được các nhà nghiên cứu quan tâm.

Ấn Độ

Đầu tiên chúng tôi đề cập đến Ấn Độ - một trong những quốc gia đang phát triển tiêu

biểu. Nhiều bài nghiên cứu được thực hiện trong các khoảng thời gian khác nhau, mẫu

số liệu cũng khác nhau nhưng kết quả lại khá giống nhau. Kumar J. (2003) (sử dụng dữ

liệu từ hơn 2000 doanh nghiệp tại Ấn Độ trong giai đoạn 1994 – 2000) tìm hiểu các

vấn đề về cấu trúc vốn, liệu các công ty có sở hữu nhà nước có hiệu quả hơn sở hữu tư

nhân hay không (bao gồm cả sở hữu nước ngoài) sử dụng phương pháp Pooled OLS

và FEM của dữ liệu bảng (data panel). ROA và ROE được sử dụng để đo lường giá trị

doanh nghiệp và cho thấy tác động tích cực của sở hữu nước ngoài lên giá trị doanh

nhiệp. Tác giả kết luận rằng nhà đầu tư nước ngoài không ảnh hưởng đáng kể đến giá

trị doanh nghiệp. Chibber, K. Majumdar (1998 - 1999) đã kiểm tra về tác động của sở

hữu nước ngoài lên hiệu quả hoạt động của các công ty tại Ấn Độ bằng các phương

pháp kế toán thông qua phân tích dữ liệu chéo. Kết luận được đưa ra là sở hữu nước

ngoài có tác động tích cực và ảnh hưởng đáng kể đối với thành quả doanh nghiệp.

Sarkar, J. and S. Sarkar (1999 - 2000) sử dụng dữ liệu của các doanh nghiệp ở Ấn Độ

từ 1995-1996, cung cấp những bằng chứng về vai trò của cổ đông lớn trong việc quản

lý giá trị công ty. Tác giả đã tìm ra được những bằng chứng về những tác động tích cực

của các nhà đầu tư nước ngoài đến thành quả của doanh nghiệp. Cùng mục đích đo

lường mối quan hệ giữa sở hữu nước ngoài và giá trị doanh nghiệp bài nghiên cứu của

Patibandla M. (2002) sử dụng số liệu các công ty trong giai đoạn 1989 -1999, cũng thể

7

hiện mối tương quan tích cực của sở hữu nước ngoài với giá trị doanh nghiệp. Douma

et al (2002) xem xét cấu trúc sở hữu tác động đến giá trị doanh nghiệp như thế nào.

Việc đánh giá được thực hiện với hơn một ngàn doanh nghiệp được niêm yết tại Ấn

Độ. Tác giả sử dụng ROA và Tobin’s Q để đo lường giá trị doanh nghiệp. Để đo lường

cấu trúc vốn tác giả sử dung hai biến FOR và DOM đại diện cho biến sở hữu nước

ngoài và sở hữu của các cổ đông trong nước. Sau khi chạy hồi quy OLS, mô hình đưa

ra kết quả như sau: hệ số của biến sở hữu nước ngoài dương, điều này chứng tỏ sở hữu

nước ngoài tác động tích cực đến giá trị doanh nghiệp. Bài nghiên cứu này đã nhấn

mạnh vai trò quản lý của các tổ chức đầu tư nước ngoài ở Ấn Độ, tác động đáng kể đến

giá trị của các doanh nghiệp.

Trung Quốc

Cũng giống như Ấn Độ, vấn đề sở hữu nước ngoài và giá trị doanh nghiệp cũng được

quan tâm nhiều ở Trung Quốc. Bài nghiên cứu của Megginson, W.L., and J. Netter

(2001) và Saul E., J. Hanousek, J. Svejnar (2008), mặc dù nghiên cứu tác động của sở

hữu nhà nước và tư nhân đến doanh nghiệp ở Trung Quốc, cũng đưa ra kết luân rằng sở

hữu nước ngoài có tác đông đến doanh nghiệp tốt hơn các các loại sở hữu khác. Wei

Z., F. Xie, S. Zhang (2004) đo lường tác động của sở hữu nước ngoài của 5284 doanh

nghiệp ở Trung Quốc trong giai đoạn từ 1991-2001. Kết quả thể hiện sở hữu nước

ngoài tác động tích cực đáng kể đến Tobin’s Q trong khi đó sở hữu nhà nước và các tổ

chức khác thì lại làm giảm Tobin’s Q. Tiếp theo đó, bài nghiên cứu của David G. et al,

(2009) sử dụng dữ liệu bảng của 21.582 công ty ở Trung Quốc trong giai đoạn 2000-

2005. Tác giả xem xét mối quan hệ giữa mức độ sở hữu nước ngoài và hoạt động

doanh nghiệp trong các công ty trong mẫu. Tác giả thấy rằng sở hữu nước ngoài có

mối quan hệ tích cực với ROA, ROS và năng suất lao động. Tuy nhiên, mối quan hệ

giữa sở hữu nước ngoài với doanh nghiệp được thể hình bằng đồ thị hình chữ U ngược.

Giá trị của doanh nghiệp tăng lên khi mức độ sở hữu nước ngoài tăng lên khoảng 47%-

64% và giảm sau đó. Điều này cho thấy rằng, ở Trung Quốc, các doanh nghiệp liên

doanh giữa đầu tư trong nước và nước ngoài sẽ manh lại giá trị doanh nghiệp tốt nhất.

8

Malaysia

Malaysia là một thị trường đang phát triển khá gần gũi đối với Việt Nam, cơ chế quản

lí doanh nghiệp còn nhiều điểm điểm bất cập, một phần là do có sự tồn tại của sở hữu

gia đình, sở hữu nhóm và nhiều mối quan hệ không chính thức … các nghiên cứu về

cấu trúc sở hữu được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau: Saleh N., M. Rahman,

M. Hassan (2007) đề cập đến khái niệm vốn trí tuệ - là sự đầu tư hiệu quả nguồn lực

hữu hình và vô hình trong các hoạt động tạo ra giá trị. Hiệu quả của đầu tư vốn trí tuệ

được thực hiện bởi các công ty có khuynh hướng đầu tư vào tri thức là rất quan trọng

vì điều đó sẽ đóng góp vào lợi thế cạnh tranh dài hạn của công ty. Bài nghiên cứu thử

nghiệm liệu cấu trúc sở hữu đại diện chủ yếu bởi chính phủ, các nhà đầu tư nước ngoài,

gia đình có thể giải thích được sự thay đổi trong sự thể hiện của vốn trí tuệ hay không.

Bài nghiên cứu này giúp chúng ta nhận thấy vai trò của chủ sở hữu công ty có thể ảnh

hưởng tới các hoạt động nâng cao giá trị công ty. Dữ liệu là 333 công ty niêm yết trên

thị trường MESDAQ trong giai đoạn 2005 – 2007. Theo hầu hết các bài nghiên cứu, sở

hữu nước ngoài luôn được kì vọng sẽ có tác động tích cực. Sở hữu nước ngoài có thể

coi là một cơ chế có hiệu quả bổ sung cho cấu trúc quản lí hiện tại. Bài nghiên cứu sử

dụng biến VAIC (Value Added Intellectual Capital Coefficient – hệ số giá trị gia tăng

vốn trí tuệ) đại diện cho vốn trí tuệ hay giá trị doanh nghiêp, bằng việc sử dụng phương

pháp Bivariate test (kiểm định 2 biến), phương pháp GMM và các kiểm định về mối

tương quan giữa các biến, bài nghiên cứu đã đưa ra bằng chứng thực nghiệm thể hiện

rằng: sở hữu gia đình có tác động tiêu cực đáng kể đối với VAIC. Điểm chính cần đề

cập ở đây là các đặc điểm của sở hữu nước ngoài (mức độ sở hữu, khả năng tham gia

vào các quyết định, nguồn gốc) ở Malaysia có những tác động tích cực đến hoạt động

tạo ra giá trị cho doanh nghiệp. Abbas S., R. A. Rahman, Mahenthiran S. (2009) tiếp

tục xem xét tác động của cấu trúc sở hữu lên hoạt động của doanh nghiệp nhưng tập

trung vào các định chế tài chính trên thị trường Malaysia trong giai đoạn 2000 – 2006.

Dữ liệu được thu thập từ 31 định chế tài chính tại Malaysia, sử dụng ROE để đo lường

cho hiệu quả hoạt động của các định chế tài chính này, tác giả đã tiến hành chạy các

9

mô hình hồi quy và đưa ra luận rằng ROE có mối tương quan đáng kể và tích cực đối

với các đối tượng sở hữu nhưng không bao gồm sở hữu nước ngoài. Điều này có thể

hiểu rằng mặc dù cùng với quá trình toàn cầu hóa, tầm quan trọng của sở hữu nước

ngoài ngày càng quan trọng đối với các thị trường mới nổi, nhưng tại Malaysia chủ sở

hữu của các định chế tài chính chủ yếu là chính phủ (15/31), sở hữu nước ngoài chưa

thể hiện được vai trò định hướng chính đến hoạt động của hệ thống nên bài viết chưa

tìm được bằng chứng cho mối tương quan tích cực giữa sở hữu nước ngoài và hiệu quả

của doanh nghiệp.

Indonesia

Chúng ta đề cập đến một nước khác trong khu vực Đông Nam Á, đó là Indonesia.

Arnold J. và B. S. Javorcik (2009) nghiên cứu mối quan hệ tác động qua lại giữa sở

hữu nước ngoài và các khía cạnh khác nhau của hiệu suất hoạt động doanh nghiệp sử

dụng dữ liệu vi mô của các công ty sản xuất ở Indonesia. Bài viết xem xét tác động của

sở hữu nước ngoài theo 2 bối cảnh khác nhau: công ty được mua lại bởi nước ngoài và

sự đầu tư tư nhân nước ngoài vào cổ phiếu của công ty. Để xây dựng các bằng chứng

thực nghiệm, mối quan hệ này được đánh giá dựa trên 3 trụ cột:

- Tập trung vào những thay đổi do tác động của sở hữu nước ngoài trong cùng một

công ty ( số lượng quan sát là 392 – đủ để khái quát kết quả)

- So sánh sự khác nhau của các công ty được mua lại bởi chủ sở hữu nước ngoài và

các công ty còn lại, bằng cách này bài nghiên cứu loại bỏ được các yếu tố ngẫu nhiên

quan sát được và không quan sát được.

Kết quả cho thấy rằng quyền sở hữu nước ngoài ở các công ty được mua lại dẫn đến

năng suất được cải thiện đáng kể, sau 3 năm các công ty này thể hiện năng suất cao

hơn 13.5%, sự gia tăng này thể hiện là kết quả của sự chuyển dịch cơ cấu, sự gia tăng

trong đầu tư, gia tăng việc làm và tiền lương. Sở hữu nước ngoài cũng giúp tăng cường

sự hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu và thông qua sự gia tăng xuất nhập khẩu. Kết quả

này không có sự khác biệt giữa các công ty được mua lại với các công ty có đầu tư tư

10

nhân từ nước ngoài. Có thể kết luận qua các bằng chứng thực nghiệm, sở hữu nước

ngoài có tác động tích cực đến giá trị doanh nghiệp.

Salim Darmadi (2011) đề cập đến mối quan hệ giữa sự đa dạng trong hội đồng quản trị

và giá trị doanh nghiệp. Đầu tiên, tác giả đã thu thập mẫu dữ liệu gồm 169 công ty

được niêm yết trên sàn chứng khoán Indonesia Stock Exchange (IDX) vào ngày

31/12/200 . Để xem xét mối quan hệ này, tác giả dùng các đặc tính giới tính, tuổi ,quốc

gia là nhân tố để thể hiện sự đa dạng trong hội đồng quản trị. Bên cạnh đó, ROA và log

của TOBIN’s Q cũng được dùng để đo lường giá trị sổ sách và giá trị thị trường của

doanh nghiệp. Tác giả tiến hành hồi quy dữ liệu để đo lường sự đa dạng này tác động

như thế nào đến doanh nghiệp. Cuối cùng, bài nghiên cứu đưa ra kết quả rằng cả giá trị

thị trường và giá trị sổ sách của doanh nghiệp đều có mối quan hệ nghịch biến với sự

đa dạng giới tính. Ngược lại, sự đa dạng về tuổi lại có tác động dương với giá trị doanh

nghiệp. Trong khi đó, sự đa dạng quốc gia (sở hữu nước ngoài) trong hội đồng quản trị

dường như không có tác động đến giá trị doanh nghiệp ở Indonesia.

Hàn Quốc

Vấn đề về tác động của cấu trúc sở hữu đến giá trị doanh nghiệp ở Hàn Quốc cũng

được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Đầu tiên là hai bài nghiên cứu của Baek et al

(2004) và Park et al (2004) được thực hiện vào 2 thời điểm khác nhau nhưng với cùng

mục đích xem xét vai trò của sở hữu nước ngoài đến doanh nghiệp đưa ra cùng kết

quả: sở hữu nước ngoài có tác động tích cực đến thành quả của doanh nghiệp. Trong

khi đó, bài nghiên cứu Lee S. (2008) tập trung phân tích tác động của cấu trúc sở hữu

cổ phần đến giá trị doanh nghiệp ở Hàn Quốc. Với việc sử dụng dữ liệu bảng của 579

công ty tại Hàn Quốc trong giai đoạn từ 2000-2006, bài nghiên cứu cho rằng giá trị

doanh nghiệp được đo lường bằng ROA tăng khi sở hữu tập trung tăng. Tác giả cũng

chỉ ra rằng mối quan hệ giữa giá trị doanh nghiệp và sở hữu tập trung có dạng đường

cong lồi. Trong đó, giá trị doanh nghiệp đạt tới điểm giá trị cao nhất ứng với giá trị

trung bình của sở hữu tập trung. Tuy nhiên, không giống những bài nghiên cứu trước,

tác động của sở hữu nước ngoài lại có tác động không đáng kể.

11

Thổ Nhĩ Kì

Một trong những quốc gia đang phát triển có những bài nghiên cứu về mối quan hệ này

là Thổ Nhĩ Kì. Gurbuz, A.O & Aybars A. (2010) (với mục đích nghiên cứu sở hữu đầu

tư nước ngoài tác động như thế nào đến giá trị doanh nghiệp của các công ty được

niêm yết trên sàn Istanbul Stock Exchange - ISE). Trong bài này, tác giả sử dụng

phương pháp phân tích dữ liệu bảng của một mẫu gồm 205 công ty niêm yết phi tài

chính bao gồm trong khoảng thời gian 3 năm từ 2005-2007. Sau khi kiểm tra những

nghiên cứu thực nghiệm trước đó, một vài doanh nghiệp và một vài biến được lược bỏ

để tránh tác động của những yếu tố khác đến thành quả của công ty và chứng minh một

cách chính xác liệu có sự khác biệt nào đối với những công ty có sở hữu nước ngoài.

Kết quả chỉ ra rằng chỉ có số nhỏ các công ty có sở hữu nước ngoài có lợi nhuận cao

hơn các công ty trong nước. Khi so sánh về lợi nhuận trên tổng tài sản, rất ít các công

ty sở hữu nước ngoài cao hơn các công ty trong nước và cao hơn phần lớn các công ty

sở hữu nước ngoài còn lại. Điều đó cho thấy rằng, phần lớn những công ty sở hữu nước

ngoài không tốt hơn những công ty trong nước. Cuối cùng, kết quả tổng thể của bài

nghiên cứu cho thấy sở hữu nước ngoài cải thiện hiệu quả giá trị doanh nghiệp của các

công ty ở Thổ Nhĩ Kì nhờ sự tiến bộ trong công nghê của họ, nhưng chỉ đến một mức

độ nhất đinh, tỷ lệ sở hữu cao hơn nữa vẫn không nâng cao giá trị doanh nghiệp hơn.

Một số nước phát triển

Không chỉ được quan tâm nghiên cứu ở các nước đang phát triển, có rất nhiều bài

nghiên cứu về tác động của sở hữu nước ngoài đối với các nước phát triển. Randøy T.,

S. Thomsen, L. Oxelheim (2006) đã phân tích sư đa dạng của hội đồng quản trị tác

động đến giá trị doanh nghiệp thông qua nghiên cứu 459 công ty lớn nhất từ Đan

Mạch, Na Uy và Thụy Điển (trong đó có phân tích đến sự đa dạng của quốc gia). Bài

nghiên cứu cho thấy rằng các nước Bắc Âu này có một sự đồng nhất về giới tính và

quốc gia đáng kinh ngạc trong hội đồng quản trị. Bài nghiên cứu chỉ ra rằng có một sự

khác biệt đáng kể trong các nước của khu vực Bắc Âu đó là thành viên hội đồng quản

12

trị ở Đan Mạch có xu hướng già hơn và ít đa dạng về giới tính hơn so với 2 nước còn

lại.Sự đa dạng về giới tính ở Na Uy và Thụy Điển phản ánh quyền ưu tiên chính trị (ví

dụ như hạn ngạch Na Uy). Tuy nhiên, tỷ lệ thấp của phụ nữ trong hội đồng quản trị ở

Đan Mạch có vẻ trái ngược với nhận thức về bình đẳng cao của quốc gia này.Về sự đa

dạng về quốc gia, thành viên hội đồng quản trị là người nước ngoài chiếm khoảng

8.4%, rất thấp. Điều đó cho thấy rằng các công ty niêm yết ở Bắc Âu làm hầu hết các

công việc kinh doanh quốc tế của họ. Mặc dù tầm quan trọng của tiếng anh trong công

việc kinh doanh, nhưng chỉ có khoảng 2.5 % người Mỹ gốc Anh trong hội đồng quản

trị của các nước này.Na Uy cao nhất cũng chỉ khoảng 5%. Điều này cho thấy có sự

phân biệt việc chọn lựa thành viên hội đồng quản trị chủ yếu là trong nước và nước

ngoài. Cuối cùng, tác giả đo lường ảnh hưởng của sự đa dạng hội đồng quản trị đến giá

trị của các công ty ở Bắc Âu. Giá trị thị trường của cổ phiếu được xem như là sự đo

lường tốt nhất của lợi nhuận công ty trong tương lai và vì vậy nó được xem như là giá

trị thị trường của công ty. Kết quả của bài nghiên cứu đó là: sự đa dạng trong hội đồng

quản trị không ảnh hưởng đáng kể đến giá trị thị trường của cổ phiếu kể cả tích cực hay

tiêu cực.Điều này cho thấy, sự đa dạng cao hơn cũng không làm tăng hoặc gỉam giá trị

thị trường của doanh nghiệp. Hay bài viết nghiên cứu của Kwangwoo P. (2001) về mối

quan hệ giữa Tobin’s Q và cấu trúc sở hữu nước ngoài của một mẫu gồm 945 của các

công ty thuộc lĩnh vực công nghiệp được niêm yết trên sàn chứng khoán Tokyo Stock

Exchange. Tác giả tìm thấy một đường cong tuyến tính thể hiện mối quan hệ giữa giá

trị doanh nghiệp và tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài. Trong bài nghiên cứu

tác giả sử dụng 2 phương trình bậc hai để đo lường mối quan hệ này. Tác giả sử dụng 2

biến phụ thuộc trong 2 phương trình là Tobin’s Q và ERATE (tỷ lệ thu nhập trước thuế

và lãi vay) là nhân tố đại diện cho giá trị doanh nghiệp và biến độc lập là forown là

nhân tố đại diện cấu trúc sở hữu nước ngoài. Việc tác giả sử dụng thêm biến phụ thuộc

ERATE sẽ làm cho kết quả không nhạy cảm với sự thay đổi trong cấu trúc vốn và thuế.

Tác giả tiến hành dùng phương pháp hồi quy phân vị để đo lường mối quan hệ phi

tuyến giữa Tobin’s Q và các mức độ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài. Bài phân

13

tích cho thấy một đường cong tuyến tính giữa mối quan hệ của Tobin’s Q và tỷ lệ sở

hữu nước ngoài, điều này cũng xảy ra tương tự với ERATE. Q tăng lên cho đến khi tỷ

lệ sở hữu nước ngoài tăng lên khoảng 40%, 45% rồi sau đó lại giảm. Cụ thể hơn,

Tobin’s Q giảm 12.12% khi nhà đầu tư nước ngoài tăng tỷ lệ sở hữu của họ lên 1%.

Điều này chứng tỏ rằng ở Nhât Bản, những nhà đầu tư nước ngoài lớn thường đầu tư

vào những doanh nghiệp lớn và quản lí tốt. Và các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tăng phần

vốn góp của họ sau khi các doanh nghiệp cho thấy sự yếu kém trong cách quản lý công

ty. Bên cạnh đó, việc tăng chất lượng của R&D tương quan với việc tăng lên sở hữu

nước ngoài tại những mức độ nhất định của tỷ lệ sở hữu (10% đến 40%). Điều này cho

thấy rằng ở Nhật Bản, các nhà đầu tư quan tâm đến sự phát triển dài hạn của doanh

nghiệp ngược với quan điểm của những nhà đầu tư ngắn hạn nhằm đầu cơ. Tại

Ukraine, Olga B. (2009) khảo sát tác động của sở hữu nước ngoài lên thành quả của

các doanh nghiệp trong giai đoạn 2002 – 2006, giải quyết hai vấn đề quan trọng được

thảo luận rộng rãi trong nhiều nghiên cứu: phân biệt tác động của các đối tượng sở hữu

khác nhau và vấn đề nội sinh của quyền sở hữu. ROA và ROS là hai chỉ số được sử

dụng để thể hiện hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp (giảm thiểu các sai lệch do

phương pháp kế toán). Các biến kiểm soát: quy mô doanh nghiệp, tỷ lệ đòn bẩy, tính

thanh khoản cũng được đưa vào phân tích. Kiểm định tác động cố định cho thấy không

tìm thấy mối liên hệ giữa sở hữu nước ngoài và hiệu quả doanh nghiệp. Phân tích chi

tiết hơn đối với 8 loại đối tượng sở hữu thì sự tương quan mới được thể hiện. Kiểm

định GMM đưa ra những bằng chứng thực nghiệm chứng minh rằng: Tác động tích cực

của sở hữu nước ngoài đối với giá trị doanh nghiệp đến từ nhóm nước phát triển (Mỹ,

Đức, Pháp, Ý, Cyprus ...), trong khi đó, vốn đầu tư từ các thị trường đang trong quá

trình phát triển lại không làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Bài nghiên

cứu phân biệt nguồn vốn đến từ các nước có hệ thống thuế có lợi hơn so với nước sở

tại với nguồn vốn đến từ các nước.

14

Tóm lai, từ những kết luận của các nghiên cứu thực nghiệm ở trên, chúng tôi thấy rằng

phần lớn các nước ở thị trường mới nổi, sở hữu nước ngoài có tác động tích cực giá trị

doanh nghiệp, còn với các nước phát triển vấn đề này còn phụ thuộc nhiều yếu tố. Đối

với Việt Nam là một quốc gia đang phát triển cùng với việc chính phủ Việt Nam đang

có nhiều chính sách để khuyến khích các dòng vốn đầu tư từ nước ngoài. Chính vì vậy

có thể dự đoán rằng sở hữu nước ngoài có thể có tác động tích cực đáng kể đến giá trị

doanh nghiệp ở Việt Nam.

2.2. Tác động của sở hữu nước ngoài đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp

Phần lớn những bài nghiên cứu trước đều cho rằng sở hữu nước ngoài có tác động tiêu

cực đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp. Một trong những nghiên cứu điển hình ủng hộ

lý thuyết trên đó là bài nghiên cứu của Li et al (2009). Bài nghiên cứu thực hiện ở các

công ty Trung Quốc không được niêm yết trên sàn chứng khoán. Tác giả thấy rằng các

nhà đầu tư nước ngoài có xu hướng sử dụng ít nợ hơn trong cấu trúc vốn của doanh

nghiệp. Bài nghiên cứu khác của Huang et al(2011) cũng nghiên cứu về vấn đề này ở

Trung Quốc trong giai đoạn 2002 đến 2005 và cho kết quả giống với bài nghiên cứu

của Li et al (2009). Trong khi đó, Zou và Xiao (2006) và Gurunlu và Gursoy (2010)

không ủng hộ giả thiết này khi cho rằng sở hữu nước ngoài có tác động tích cực đến

cấu trúc vốn. Cụ thể hơn, Zou và Xiao (2006) tin rằng trong thị trường mới nổi nhà đầu

tư nước ngoài thường đối mặt với vấn đề bất cân xứng thông tin nhiều hơn những nhà

đầu tư khác. Bởi vậy, những nhà đầu tư nước ngoài có xu hướng đầu tư những doanh

nghiệp sử dụng nhiều nợ hơn. Tuy nhiên, hành vi đầu tư của các nhà đầu tư của các

công ty được niêm yết ở Trung Quốc từ 1997-2000 lại cho thấy rằng sở hữu nước

ngoài có ảnh hưởng không đáng kể đến cấu trúc vốn. Gurunlu và Gursoy (2010) lại cho

rằng đầu tư nước ngoài thường gặp nhiều rủi ro hơn với những nhà đầu tư nước ngoài

vì thế các nhà đầu tư nước ngoài có động lực để giảm thiểu rủi ro bằng cách tác động

đến hoạt động quản lý của công ty. Họ không những đầu tư về vốn mà còn đầu tư về

công nghệ, kĩ thuật tiên tiến để doanh nghiệp tiếp cận với thị trường vốn mới dễ dàng.

Vì vậy, có thể dự đoán rằng doanh nghiệp với mức độ sở hữu nước ngoài cao sử dụng

15

nhiều nợ hơn bởi vì các nhà đầu tư nước ngoài giúp chọ họ tiếp cận với nhiều nguồn

vốn rẻ hơn từ những chủ nợ mới. Tuy nhiên khi kiểm tra ảnh hưởng của các nhà đầu tư

nước ngoài đến cấu trúc vốn bằng cách sử dụng phân tích hồi quy với bộ dữ liệu của

143 các công ty phi tài chính trên sàn Instanbul Stock Exchange từ 2007 đến 2008,

Gurunlu và Gursoy (2010) thấy rằng sở hữu nước ngoài tác động tiêu cực đáng kể đến

đòn bẩy tài chính dài hạn. Một bài nghiên cứu khác cũng ủng hộ mối quan hệ tích cực

giữa sở hữu nước ngoài và cấu trúc vốn là bài nghiên cứu của Mishra (2012). Bài

nghiên cứu đo lường mối quan hệ của các doanh nghiệp ở Úc trong giai đoạn 2001-

2009. Bài nghiên cứu kết luận rằng sở hữu nước ngoài có mối tương quan dương đến

đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp. Điều này dường như ngược với dự đoán của tác

giả ban đầu, tác giả cho rằng những doanh nghiệp với đòn bẩy tài chính cao thường ít

thu hút các nhà đầu tư. Bởi vì đòn bẩy tài chính thường được dùng để đo lường sự kiệt

quệ tài chính. Các nhà đầu tư thường thích đầu tư những doanh nghiệp có giá trị sổ

sách trên giá trị thị trường cao, bởi vì những cổ phiếu có giá trị sổ sách trên giá trị thị

trường cao thường ít rủi ro.

Tóm lại, dù những nghiên cứu thực nghiệm đưa đến những kết quả khác nhau, sở hữu

nước ngoài có cả tác động tiêu cực và tích cực đến cấu trúc vốn. Tuy nhiên đối với

trường hợp Việt Nam, chúng tôi kì vọng rằng sở hữu nước ngoài có thể làm giảm tỉ lệ

đòn bẩy nợ trong cấu trúc vốn.

3. Phương pháp nghiên cứu

3.1. Mẫu quan sát và việc thu thập dữ liệu

Mẫu dữ liệu trong bài nghiên cứu gồm 3402 quan sát, là các công ty niêm yết trên Sở

Giao dịch chứng khoán HCM (HOSE) và Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX)

trong giai đoạn từ năm 2006 – 2012 ( mỗi công ty được quan sát ít nhất 3 kì báo cáo).

Các dữ liệu được sử dụng trong phân tích thực nghiệm là dữ liệu thứ cấp hàng năm của

các số liệu tài chính được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau: Sử dụng báo cáo tài

chính (bảng cân đối kế toán, báo cáo thu nhập) của các công ty và các thông tin về tỷ lệ

sở hữu nước ngoài được cung cấp bởi Cổng thông tin dữ liệu Chứng khoán tài chính

16

Việt Nam và Công ty Cổ phần chứng khoán Bản Việt và tổng hợp trên các website của

các công ty chứng khoán khác. Do đặc thù của hoạt động kinh doanh và sự khác biệt

đáng kể so với các ngành khác, các định chế tài chính như các công ty chứng khoán,

ngân hàng, bảo hiểm không được đưa vào mẫu dữ liệu. Một số công ty có thông tin

không đầy đủ hoặc không phù hợp cũng được sàng lọc lại để tăng độ tin cậy của mẫu

dữ liệu.

3.2. Xây dựng mô hình nghiên cứu thực nghiệm:

Để đánh giá tác động của sở hữu nước ngoài đến tỉ lệ đòn bẩy trong cấu trúc vốn và giá

trị doanh nghiệp, bài nghiên cứu xây dựng 2 mô hình hồi quy tuyến tính đa biến như

sau:

- Mô hình giá trị doanh nghiệp (dựa trên nghiên cứu của Olga B. 2009)

(cid:1832)(cid:1848)(cid:3036),(cid:3047) = (cid:2009) + (cid:2010)(cid:2869)(cid:1832)(cid:1841)(cid:3036),(cid:3047) + (cid:2010)(cid:2870)(cid:1829)(cid:1845)(cid:3036),(cid:3047) + (cid:2011)(cid:1852)(cid:3036),(cid:3047) + (cid:2013)(cid:3036),(cid:3047) [Mô hình 1]

Trong đó:

- FVi,t là giá trị của công ty i tại thời điểm t

- FOi,t là tỷ lệ sở hữu nước ngoài

- CSi,t thể hiện cấu trúc vốn của doanh nghiệp

- Zi,t là vecto các biến kiểm soát của mô hình 1, gồm có: SIZE, INV, LIQ,

PRO, TAN

- (cid:2013)(cid:3036),(cid:3047) là phần bù.

Qua các nghiên cứu đối với các nước khác trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát

triển như (Ấn Độ, Malaysia, Indonesia, Thổ Nhĩ Kì …), đối với thị trường Việt Nam,

chúng ta kì vọng rằng đầu tư nước ngoài sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh

phát triển, tỷ lệ sở hữu nước ngoài cao sẽ góp phần nâng cao trình độ quản lí và tăng

cường việc tiếp cận với kĩ thuật công nghệ hiện đại và có những cải tiến thích hợp

trong quá trình vận hành doanh nghiệp, chính vì thế, chúng tôi đưa ra giả thiết rằng:

17

H1: Sở hữu nước ngoài và giá trị doanh nghiệp có tương quan dương tại các công ty

niêm yết trên thị trường Việt Nam ((cid:2010)(cid:2869) > 0)

- Mô hình cấu trúc vốn dựa trên nghiên cứu của Li K. và cộng sự (2009:

(cid:1829)(cid:1845)(cid:3036),(cid:3047) = (cid:2009) + (cid:2010)(cid:2869)(cid:1832)(cid:1841)(cid:3036),(cid:3047) + (cid:2011)(cid:1850)(cid:3036),(cid:3047) + (cid:2013)(cid:3036),(cid:3047) [Mô hình 2]

Các biến tương tự như mô hình 1 và Xi,t đại diện cho các biến kiểm soát của mô hình 2,

gồm có: PRO, GRO, TAN, TAX.

Các nghiên cứu trước đây đưa ra nhiều mâu thuẫn về mối quan hệ giữa sở hữu nước

ngoài và tỉ lệ đòn bẩy tài chính. Tại thị trường Việt Nam, việc sử dụng nợ sẽ làm tăng

chi phí kiệt quệ tài chính, chúng tôi kì vọng các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào

các doanh nghiệp sẽ định hướng việc sử dụng ít nợ hơn để có thể tập trung sử dụng

nguồn vốn chủ sở hữu, bài nghiên cứu giả định rằng:

H2: Sở hữu nước ngoài có mối tương quan âm đối với tỉ lệ nợ trong cấu trúc vốn tại

thị trường Việt Nam

3.3. Đo lường các biến

Giá trị doanh nghiệp (ROA)

Để ước tính hệ số tương quan giữa sở hữu nước ngoài và giá trị doanh nghiệp, chúng ta

cần xác đinh một chỉ số phù hợp thể hiện giá trị đó. Người ta thường đánh giá giá trị

doanh nghiệp dựa trên giá trị thị trường hoặc là sử dụng các phương pháp hạch toán kế

toán. Các nghiên cứu của Jiraporn và Liu (2008), Tian và Zeitun (2007) và Nigel,

Sarmistha (2007) sử dụng chỉ số Tobin’s Q tính toán bằng giá trị thị trường trên giá trị

sổ sách của doanh nghiệp, Lê Thị Phương Vy và Phùng Đức Nam (2012) cũng đã sử

dụng Tobin’s Q để đo lường giá trị của các công ty niêm yết trên sàn HOSE. Tuy

nhiên, theo đánh giá của Olga B. (2009), Tobin’s Q là một phương pháp truyền thống

được sử dụng rất phổ biến ở các nước phát triển nhưng ở các thị trường mới nổi, thị

18

trường chứng khoán còn chưa phát triển, các hạn chế về phương pháp thống kê và hạch

toán kế toán sẽ ảnh hưởng tới giá trị của chỉ số.

Theo nhận định của Epps và Cereola (2008), chúng ta có thể đo lường kết quả hoạt

động của doanh nghiệp thông qua tỉ số ROA – đo lường hiệu quả của công ty trong

việc tạo ra lợi nhuận từ mỗi đồng tiền bỏ vào tài sản, thể hiện việc công ty đầu tư hiệu

quả như thế nào vào việc tăng trưởng thu nhập. Nhà quản lí trực tiếp chịu trách nhiệm

đối với hoạt động của doanh nghiệp và việc tận dụng các tài sản của công ty, như vậy

ROA cho phép đánh giá cơ chế quản trị doanh nghiệp trong việc đảm bảo và thúc đẩy

hiệu quả quản lí của công ty, thể hiện được giá trị của cấu trúc sở hữu và qua đó thể

hiện được tác động của sở hữu nước ngoài lên giá trị doanh nghiệp. Có rất nhiều các

nghiên cứu khác cũng sử dụng ROA để đo lường thành quả hoạt động của doanh

nghiệp như: Olga Bilyk (2009), Brown và Caylor ((2005), Li et al (2009). Hơn nữa,

trong bài nghiên cứu của Ruan W, G. Tian và S. Ma (2011) tác động của ROA và

Tobin’s Q đối với giá trị doanh nghiệp là giống như nhau. Chính vì vậy trong bài

nghiên cứu này chúng tôi sử dụng ROA đánh giá thành quả của doanh nghiệp. ROA

được đo lường bằng lợi nhuận trên tổng tài sản theo công thức:

(cid:1838)(cid:1840) (cid:1871)(cid:1853)(cid:1873) (cid:1872)ℎ(cid:1873)ế + (cid:1864)ã(cid:1861) (cid:1874)(cid:1853)(cid:1877) (cid:3435)1 − (cid:1872)ℎ(cid:1873)ế (cid:1871)(cid:1873)ấ(cid:1872)(cid:3439) + (cid:1838)ợ(cid:1861) í(cid:1855)ℎ (cid:1855)ổ đô(cid:1866)(cid:1859) (cid:1872)ℎ(cid:1861)ể(cid:1873) (cid:1871)ố (cid:1844)(cid:1841)(cid:1827) = (cid:3435)(cid:1846)à(cid:1861) (cid:1871)ả(cid:1866) đầ(cid:1873) (cid:1863)ì + (cid:1846)à(cid:1861) (cid:1871)ả(cid:1866) (cid:1855)(cid:1873)ố(cid:1861) (cid:1863)ì(cid:3439)/2

Cấu trúc vốn

Cấu trúc vốn của doanh nghiệp là cách mà doanh nghiệp tạo nguồn tài chính cho các

hoạt động cũng như mua sắm tài sản thông qua việc kết hợp giữa nợ và vốn cổ phần

(Brounen và công sự, 2006). Cấu trúc vốn có thể đo lường bằng nhiều cách: nợ dài hạn

trên tổng tài sản, nợ ngắn hạn trên tổng tài sản hay tổng nợ trên tổng tài sản (Pandey –

2011, Chakraborty – 2010, Kayo và Kimura – 2011). Các tỉ số này còn có thể dựa trên

giá trị sổ sách hoặc là giá trị thị trường của nợ (Frank và Goyal – 2009). Trong bài

19

nghiên cứu này, để cấu trúc vốn mang tính tổng quát, chúng tôi đo lường bằng tổng nợ

(cid:3021)ổ(cid:3041)(cid:3034) (cid:3041)ợ

trên tổng nợ trên giá trị sổ sách của tổng tài sản (gồm tổng nợ và vốn cổ phần)

LEV =

(cid:3021)ổ(cid:3041)(cid:3034) (cid:3047)à(cid:3036) (cid:3046)ả(cid:3041)

Sở hữu nước ngoài

Tỷ lệ phần trăm cổ phiếu nắm giữ bởi các nhà đầu tư nước ngoài được sử dụng trong

bài nghiên cứu này đại diện cho biến sở hữu nước ngoài. Theo nguồn cung cấp từ

Cophieu68.com và Công ty Chứng khoán Bản Việt, số liệu này được tính theo trung

(cid:3020)ố (cid:3030)ổ (cid:3043)(cid:3035)(cid:3036)ể(cid:3048) (cid:3041)ắ(cid:3040) (cid:3034)(cid:3036)ữ (cid:3029)ở(cid:3036) (cid:3030)á(cid:3030) (cid:3041)(cid:3035)à đầ(cid:3048) (cid:3047)ư (cid:3041)ướ(cid:3030) (cid:3041)(cid:3034)(cid:3042)à(cid:3036)

bình năm.

FO =

(cid:3021)ổ(cid:3041)(cid:3034) (cid:3046)ố (cid:3030)ổ (cid:3043)(cid:3035)(cid:3036)ế(cid:3048) đ(cid:3028)(cid:3041)(cid:3034) (cid:3039)ư(cid:3048) (cid:3035)à(cid:3041)(cid:3035)

Theo nguyên lý của phân tích đa biến, bên cạnh tỷ lệ sở hữu nước ngoài và tỷ lệ đòn

bẩy tài chính, chúng ta đưa vào mô hình các biến kiểm soát để làm giảm các tác động

có thể gây nhiễu cho các biến số khác hoặc ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu. Các biến

kiểm soát gồm:

Mô hình 1:

Quy mô của doanh nghiệp (SIZE): (+/-)

Được đo lường bằng hàm logarit của tổng doanh số. Tác động của biến này lên hiệu

quả của doanh nghiệp vẫn là một vấn đề chưa được rõ ràng. Trong bài nghiên cứu của

Himmelberg (1999), King và Santor (2008), Jiraporn và Liu (2008) chỉ ra rằng quy mô

doanh nghiệp có tương quan âm với giá trị doanh nghiệp đo lường bằng Tobin’s Q.

Cũng sử dụng thước đo là Tobin’s Q nhưng bài nghiên cứu của Lê Thi Phương Vy và

và Phùng Đức Nam (2012) lại đưa ra bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam về tương

quan dương giữa quy mô và giá trị doanh nghiệp. Tương tự như vậy, Titan và Zeitun

20

(2007), Margaritits và Psillaki (2010) chỉ ra rằng quy mô có tương quan dương và tác

động đáng kể đến giá trị doanh nghiệp. Những nhận định không thống nhất ở trên có

thể được giải thích rằng: một mặt, doanh nghiệp càng lớn, chi phí vận hành và giám sát

càng cao hay tác động của các tình huống mất kiểm soát do không hiệu quả trong cấu

trúc phân cấp quản lí (Williamson, 1967) ảnh hưởng tiêu cực đến giá trị doanh nghiệp.

Mặt khác, các công ty lớn thường có công nghệ và trình độ quản lí tốt hơn, có thể làm

giảm xác suất phá sản nhờ đa dang hóa đầu tư và quy mô kinh tế.Yếu tố này cũng có

tác động đến các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, họ ưu tiên lựa chọn

các công ty có quy mô lớn hơn (Merton – 1987, Võ Xuân Vinh – 2009).

Đầu tư (INV) (+)

Các nghiên cứu trước đây đều nhất trí rằng giá trị doanh nghiệp có liên quan đến các

cơ hội đầu tư. Doanh nghiệp càng có nhiều cơ hội đầu tư càng có thể nâng cao giá trị

của mình thông qua lợi nhuận từ đầu tư. Các nghiên cứu của Hoshi (1991) ở Nhật Bản

và Kaplan và Zingales (2005) đối với các doanh nghiệp tại Mỹ đều đưa ra bằng chứng

về mối tương quan dương và tác động đáng kể của đầu tư lên giá trị doanh nghiệp.

Tính thanh khoản (LIQ) (+)

Theo nghiên cứu của Cho (1998), tính thanh khoản là một trong những tín hiệu của

hiệu quả hoạt động và tiềm năng của doanh nghiệp. Công ty thanh khoản cao được kì

vọng có thành quả tốt và có nhiều cơ hội đầu tư hơn. Chính vì vậy, tính thanh khoản

được dự đoán sẽ có tương quan dương với giá trị doanh nghiệp.

Khả năng sinh lợi (PRO) (+)

Cách đo lường khả năng sinh lợi tùy thuộc vào các nhà nghiên cứu khác nhau, trong

nghiên cứu của Margaritis và Psillaki (2010), PRO là tỉ số giữa EBIT trên tổng tài sản,

trong bài này, PRO được đo lường bằng tỉ số giữa thu nhập hoạt động trên tổng doanh

thu (Demsetz & Villalonga (2001), and Thomsen & Pedersen (2000).) Hầu hết các

21

nghiên cứu trước đây đều chỉ ra tác động tích cực của khả năng sinh lợi đối với giá trị

doanh nghiệp. Chúng ta kì vọng tương quan dương giữa khả năng sinh lợi và hiệu quả

DN vì khả năng sinh lợi cao cho thấy hiệu quả quản lí tốt, giá trị công ty tăng.

Tài sản cố định (TAN) (+/-)

Biến số TAN được đo lường bằng tỉ lệ tài sản cố định hữu hình trên tổng tài sản. Tác

động của biến số này lên giá trị doanh nghiệp vẫn còn tùy thuộc vào từng nhà nghiên

cứu và khá là mơ hồ. Theo nghiên cứu của Konijn (2011), mối tương quan của tỷ lệ tài

sản cố định với giá trị doanh nghiệp có thể âm hoặc dương. Margaritis và Psillaki –

2010, Himmelberg cùng các cộng sự của mình (1999) chỉ ra rằng tính hiện hữu dễ dàng

đo lường và kiểm định, góp phần làm tăng giá trị của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong

các bài nghiên cứu của Titman và Wessels, 1988; Michaelas cùng các cộng sự, 1999;

Ozkan, 2001 lại lập luận rằng các tài sản vô hình có thể được coi là chỉ số thể hiện cơ

hội tăng trưởng của công ty trong tương lai, công ty có xu hướng áp dụng cải tiến công

nghệ cao hơn, quản lí tốt hơn, chính vì vậy công ty có tỷ lệ tài sản vô hình có thể tạo ra

nhiều lợi nhuận và giá trị hơn.

Mô hình 2:

Khả năng sinh lợi (PRO) (+/-)

Theo các nghiên cứu của Harris và Raviv (1991), Rajan và Zingales (1995), Barclay

và Smith (2001), Booth (2001) giống như nhiều biến số khác, cũng có nhiều mâu thuẫn

trong việc xem xét mối quan hệ giữa khả năng sinh lợi và đòn bẩy tài chính. Myers

(1984) dự đoán rằng công ty có khả năng sinh lợi cao có thể có tỷ lệ nợ cao bởi vì họ

có chi phí kiệt quệ tài chính thấp cùng với lợi ích từ thuế cao hơn. Lí thuyết chi phí đại

diện (Jensen, 1986) cho rằng công ty có khả năng sinh lợi cao thường đối diện với vấn

đề về dòng tiền tự do, tỉ lệ nợ cao có thể có giá trị hơn trong việc làm giảm chi phí đại

lí. Ở khía cạnh ngược lại, đa số các nghiên cứu thực nghiệm lại chỉ ra rằng các công ty

có khả năng sinh lợi cao thường sử dụng ít nợ hơn vì họ có thể tận dụng nguồn vốn nội

22

bộ (Booth, Aivazian, Demirguc-Kunt và Maksimovic (2011), Huang và Soong (2006),

Frank và Goal (2009)).

Sự tăng trưởng (GRO) (+/-)

Mối quan hệ giữa sự tăng trưởng và tỉ lệ đòn bẩy tài chính vẫn là một vấn đề đối với

các nghiên cứu thực nghiệm. Trong khi Huang và Song (2006) đưa ra mối quan hệ tích

cực giữa sự tăng trưởng và đòn bẩy tài chính, Gurcharan (2010) tìm ra bằng chứng

thực nghiệm về mối quan hệ ngược lại giữa sự răng trưởng và tỉ lệ nợ.

Tính hiện hữu (TAN)

Các nghiên cứu lý thuyết và các bằng chứng thực nghiệm đưa ra các kết quả không

thống nhất về mối quan hệ giữa tính xác thực và tỉ lệ nợ. Theo lí thuyết chi phí đại diện

và lý thuyết đánh đổi dự đoán tính xác thực có mối tương quan dương với tỉ lệ nợ bởi

vì tỉ lệ tài sản hữu hình có thể làm giảm chi phí kiệt quệ tài chính (Myers 1984) và làm

giảm rủi ro của các chủ nợ từ vấn đề chi phí đại diện (Jensen và Meckling, 1976). Mặt

khác, lý thuyết trật tự phân hạng đưa ra dự đoán trái ngược rằng: đối với các công ty có

tỉ lệ tài sản cố định cao sẽ làm giảm vấn đề bất cân xứng thông tin và sẽ làm giảm rủi

ro cho các cổ đông, tỉ lệ vốn cổ phần sẽ cao hơn.

Thuế (TAX)

Có nhiều lý thuyết trước đây đưa ra dự đoán về tác động của thuế lên cấu trúc vốn là tỉ

lệ thuế tác động tích cực đến lợi ích từ thuế, chính vì thế (Modigliani and Miller, 1958)

chỉ ra rằng doanh nghiệp chịu tỉ lệ thuế TNDN cao sử dụng nhiều nợ hơn để có thể tận

dụng lợi ích từ tấm chắn thuế. Nhiều nghiên cứu khác cũng chứng minh tác động mạnh

mẽ của thuế đối với cấu trúc vốn của doanh nghiệp như: Wiwattanakantang (1999),

Goodacre và các cộng sự (2004), Huang và Song (2006), Gurcharan (2010)

23

Bảng 1: Tóm tắt cách tính toán các biến

Logarit của tổng doanh số. SIZE

Phần trăm thay đổi của doanh thu thuần theo từng năm GRO

Tỉ lệ giữa tài sản cố định trên tổng tài sản TAN

Tỷ lệ giữa tổng chi phí thuế (Chi phí thuế hiện tại và chi phí thuế TAX hoãn lại) trên thu nhập trước thuế.

Tỉ lệ giữa Tiền và các khoản tương đương tiền trên tổng tài sản LIQ

Tỉ lệ giữa Chi tiêu vốn và Tổng doanh thu INV Chi tiêu vốn = (thay đổi tài sản – thay đổi nợ)/Tổng doanh thu (*)

Tỉ lệ giữa Thu nhập hoạt động và Tổng doanh thu PRO

24

4. Nội dung nghiên cứu và các kết quả nghiên cứu

4.1. Thống kê mô tả các biến

Bảng 2a mô tả tóm tắt các biến thống kê được tính toán từ báo cáo tài chính và số liệu

của các công ty niêm yết trên sàn HOSE và HNX trong giai đoạn từ năm 2005 – 2012.

Mẫu dữ liệu bao gồm 3402 quan sát, được chia làm 2 nhóm: Nhóm các quan sát có tỉ lệ

sở hữu nước ngoài cao hơn 5% và nhóm các quan sát

Bảng 2a: Thống kê mô tả các biến của toàn bộ quan sát

Số QS TB Độ lệch chuẩn GT lớn nhất GT nhỏ nhất

3402 0.074495 0.116868 0.4914 0 FO

3402 0.520473 0.223508 1.038905 0.002087 LEV

3402 0.095436 0.087088 0.95212 -0.482481 ROA

3402 11.52572 0.593206 13.5937 7.74202 SIZE

3402 0.206239 0.197112 0.97642 0 TAN

3402 0.155078 0.477835 4.152356 -25.59488 TAX

3402 0.125086 0.5988 16.20493 -12.80728 PRO

3402 0.09336 0.104347 0.943684 0.000154 LIQ

3402 0.755989 10.13865 468.12 -0.997086 GRO

3402 0.652403 716.8246 -907.6934 25.96748 INV

(Nguồn: Tự tổng hợp)

Do có sự thay đổi số lượng các công ty niêm yết (một số công ty hủy niêm yết và một

số công ty mới bắt đầu lên sàn) trên cả hai sàn HOSE và HNX nên dữ liệu bảng sử

dụng trong bài nghiên cứu là bộ dữ liệu không cân đối (unbalanced panel data). Số

quan sát trong thời kì từ năm 2006 – 2012 là 3402 quan sát, đối với dữ liệu bảng, số

lượng quan sát đủ để mô hình có ý nghĩa. Tỉ lệ sở hữu nước ngoài trung bình của các

công ty trong giai đoạn nghiên cứu là 7.5%, tương đối thấp so với tỉ lệ trung bình trong

25

giai đoạn 2008 – 2011 của các công ty niêm yết trên HOSE là 12.06%. Lí do có thể là

do sự thu hút các nhà đầu tư nước ngoài thị trường HOSE cao hơn HNX cho nên khi sử

dụng số liệu tổng hợp của cả 2 sàn tỉ lệ sở hữu nước ngoài trung bình có phần thấp hơn.

Tỉ lệ nợ trên tổng tài sản trung bình khoảng 52%, cấu trúc vốn của các công ty không

đồng đều, tỉ lệ nợ thấp nhất là 0.2% và lớn nhất lên đến 103.89% (trong các quan sát có

2 quan sát có tỉ lệ nợ trên tổng tài sản lớn hơn 100% đó là 2 công ty có mã chứng

khoán S27 và VCH (2012) bị âm vốn chủ sở hữu dẫn đến nợ cao hơn tổng tài sản). Tỉ

lệ lợi nhuận trên tổng tài sản trung bình là 9.5%, công ty đạt giá trị ROA cao nhất lên

tới 95% (mã KTB năm 2010), giá trị thấp nhất là – 48.2% (mã SHC năm 2010). Hầu

hết các biến đều có độ lệch chuẩn tương đối cao, thể hiện mức độ không đồng đều giữa

các doanh nghiệp trên thị trường.

Bảng 2b: Mô tả biến của các nhómcông ty có tỷ lệ sở hữu nước ngoài cao hơn 5% và

thấp hơn 5%

FO > 5% ( 1060 Obs)

FO <= 5% (2342 Obs)

Mean

Min

Mean

Min

Std. Dev. Max

Std. Dev. Max

0.20832

0.131597 0.4914

0.055

0.0139

0.015121

0.0549

0

FO

2.281451 59.26

-0.992

0.8956

12.12102

468.12

-0.997

GRO 0.44747

0.33614

8.164393 87.46

-146.56

0.7955

30.81261

716.82

-907.6

INV

0.211661 0.9896

0.00299 0.546

0.224086

1.0389

0.002

LEV 0.46403

0.11025

0.112818 0.839

0.00015 0.0857

0.099363

0.9436

0.0001

LIQ

0.549323 9.2571

-12.807

0.1101

0.619435

16.204

-3.267

PRO 0.15798

0.102567 0.808

-0.482

0.0841

0.076472

0.952

-0.238

ROA 0.12049

0.6406

13.5503 8.9544

11.41

0.533393

13.593

7.7420

SIZE 11.7756

0.178525 0.93815 0

0.2121

0.204734

0.9764

0

TAN 0.19316

0.157075 2.91982

-0.6057

0.1526

0.566155

4.1523

-25.594

TAX 0.16048

Mặc dù Việt Nam có chính sách thu hút đầu tư nước ngoài khá hấp dẫn nhưng tỷ lệ sở

hữu nước ngoài của các doanh nghiệp không cao, có gần 70% các công ty trong quan

26

sát có tỉ lệ sở hữu nước ngoài dưới 5%. Điều này cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài

đầu tư tại thị trường Việt Nam phần lớn nhằm mục đích đa dạng hóa danh mục đầu tư

chứ chưa thật sự đầu tư tập trung vào một số công ty nhất định. Bên cạnh đó, do chính

sách của nhà nước, tỉ lệ sở hữu nước ngoài tối đa của một doanh nghiệp VN là 49%,

điều này cũng hạn chế việc các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào việc đưa ra các

quyết định. Ủy ban Chứng khoán Việt Nam đang xem xét việc nới room đối với khối

ngoại trong thời gian tới.

Đối với nhóm công ty có FO > 5%, giá trị trung bình của FO là khoảng 20%, tỉ lệ đòn

bẩy tài chính (LEV) của trung bình của nhóm công ty này là khoảng 46,4 % và tỉ lệ thu

nhập trên tài sản (ROA) trung bình là 18%. Đối với nhóm công ty có FO <= 5%, giá trị

trung bình của FO là 1.39% tỉ lệ đòn bẩy tài chính trung bình là 54.6 % và tỉ lệ thu

nhập trên tổng tài sản là 8.4%. Thông qua phần thống kê mô tả, ta thấy rằng các công

ty có tỉ lệ sở hữu nước ngoài cao hơn nhìn chung có ROA cao hơn và tỉ lệ đòn bẩy tài

chính thấp hơn. Điều này ủng hộ cho giả thiết ban đầu về tương quan dương giữa ROA

với FO và tương quan âm giữa LEV và FO.

Bảng 3: Sự tương quan của các biến

FO

GRO

INV

LEV

LIQ

PRO

ROA

SIZE

TAN

TAX

1.0000

FO

-0.0213 1.0000

GRO

-0.0113 0.0032

1.0000

INV

-0.2042

-0.0023

-0.0353 1.0000

LEV

0.1302

0.0150

-0.0121

-0.2923 1.0000

LIQ

0.0169

0.0320

-0.1671 0.0459

1.0000

PRO 0.0549

0.0013

0.0068

-0.3501 0.3406

0.1764

1.0000

ROA 0.2017

0.0266

-0.0242 0.2880

-0.0902

0.0478

-0.0442 1.0000

SIZE 0.2994

-0.0283

-0.0388

0.0096

-0.0068

-0.1473

-0.0438

-0.0176

-0.0207 1.0000

TAN

0.0016

0.0029

-0.0007 0.0114

0.0036

-0.0037 0.0027

-0.0152

1.0000

TAX 0.0114

(Nguồn: tổng hợp từ kết quả hồi quy)

27

Bảng trên đưa ra cái nhìn tổng thể về sự tương quan của các biến, có thể thấy rằng sự

tương quan của các biến là nhỏ, điều đó thể hiện rằng các biến phù hợp với các phân

tích hồi quy.

4.2. Phương pháp hồi quy:

Dữ liệu được sử dụng để nghiên cứu thực nghiệm là dữ liệu panel (là dữ liệu đa chiều

hay dữ liệu mảng), chứa các quan sát của chuỗi thời gian và của nhiều đối tượng (ở đây

là các biến), qua đó nghiên cứu được động thái theo thời gian của các biến. Dữ liệu

mảng sử dụng hiệu quả nhất khi chúng ta không chắc chắn hay nghi ngờ rằng các biến

kết quả phụ thuộc vào các biến giải thích không quan sát được tương quan với các biến

giải thích quan sát được. Dữ liệu bảng có nhiều ưu điểm hơn so với dữ liệu gộp, chứa

đựng nhiều thông tin hơn và phần nào khắc phục được hiện tượng đa cộng tuyến.

Trong phân tích dữ liệu mảng, người ta thường sử dụng 2 mô hình cơ bản fixed effects

model (FEM – mô hình tác động cố định) và random effects model (REM – mô hình

Mô hình ảnh hưởng cố định có dạng chung là:

tác động ngẫu nhiên) - Kurt S. (2012).

là ảnh hưởng cụ thể của các tác nhân không biến thiên theo thời gian, và bởi vì

chúng ta giả sử chúng cố định theo thời gian, nên mô hình này được gọi là mô hình ảnh

hưởng cố định.

Mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên giả sử thêm rằng:

28

theo đó, hai thành phần sai số độc lập với nhau.

Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành chạy dữ liệu với cả 3 phương pháp ước

lượng: hồi quy Pooled OLS, Fixed effects model và Random effect model để tìm ra

mối tương quan giữa các biến. Trong đó: Ước lượng OLS gộp không quan tâm đến cấu

trúc mảng của dữ liệu mà chỉ đơn giản là đi ước lượng các hệ số và các quan sát là các

dữ liệu thuần túy, sai số chuẩn thường có của phương pháp này thì không đúng và các

kiểm định (t-, F-, z-, Wald-) dựa trên đó thì không có ý nghĩa. Sai số chuẩn phù hợp có

thể được ước lượng bằng phương pháp cluster-robust. Kết quả là các hệ số bị lệch và

mâu thuẫn với nhau vì biến bị bỏ qua sẽ có thể có tương quan với các biến hồi quy

khác. Kiểm định với hai phương pháp còn lại được xem là có ý nghĩa hơn.

Kiểm định Hausman

Hausman test được sử dụng để so sánh hai phương pháp ước lượng. Bài nghiên cứu sẽ

sử dụng Hausman test để kiểm định mô hình nào phù hợp hơn giữa FEM và REM

Điểm khác biệt cơ bản giữa fixed effect model và random effect model là fixed effect

không giả định là không có sự tương quan giữa các biến, trong khi đó random effect thì

giả định không có sự tương quan giữa các biến. Mô hình fixed effect sử dụng biến giả,

nên nó có thể làm giảm đáng kể bậc tự do. Do vậy random effect model có thể được ưa

thích hơn. Tuy nhiên, trong trường hợp các biến có sự tương quan thì giả định của

random effect model không được thỏa mãn, khi đó mô hình sẽ đưa ra ước lượng chệch.

Để tiến hành Hausman test, ta có giả thuyết

H0: Các biến kiểm soát và biến giải thích không có tương quan (tức là nên sử dụng

random effects model)

Giá trị tính toán là:

29

Trong đó:

- (cid:2010)(cid:3007)(cid:3006): vector các hệ số ước lượng từ Fixed effects model

- (cid:2010)(cid:3019)(cid:3006): vector các hệ số ước lượng từ Random effects model - (cid:1848)(cid:1853)(cid:1870)(. ): ma trận tương quan tương ứng của hệ số ước lượng từ 2 mô hình

Sau khi kiểm định, dựa trên giá trị p-value, chúng ta sẽ kết luận được các biến có tương

quan hay không và lựa chọn kết quả của mô hình phù hợp nhất.

Tính đồng thời (Simultaneity) trong kinh tế lượng

Lí thuyết về các phương trình đồng thời đã trở thành một vấn đề quan trọng trong

nghiên cứu kinh tế (Robert D. Coleman, PhD (2006)) Điều này dựa trên thực tế là bất

kì nhà nghiên cứu nào cũng cần phải chú ý đến các vấn đề nội sinh có thể xảy ra trong

hồi quy các biến độc lập, trong một phương trình duy nhất hoặc một hệ phương trình.

Tính đồng thời trong kinh tế lượng xảy ra khi biến độc lập và biến phụ thuộc có tác

động qua lại lẫn nhau tại cùng một thời điểm. Để giải quyết vấn đề này, nghiên cứu của

Erik B. và J. Krishnakumar (2007) đề cập đến các phương pháp tổng quát để có thể

tiếp cận toàn diện và giải quyết tính đồng thời, đó là phương pháp 2-stage least-square

và 3-stage least-square. Hai phương pháp sử dụng cùng một cấu trúc phương trình và

có những điểm tương đồng nhất định. Tuy nhiên, để giúp đưa ra các ước lượng tối ưu

cho các hệ số tương quan trong mô hình, theo nghiên cứu của Theil (1962), bài nghiên

cứu này sẽ sử dụng phương pháp 3-stage least-square.

30

4.3. Kết quả hồi quy

4.3.1. Mô hình giá trị doanh nghiệp (Mô hình 1)

Bảng 4a: Kết quả hồi quy mô hình 1 đối với toàn bộ quan sát

ROA (panel radom ROA (panel fixed ROA (OLS) effect) effect)

0.99408 (0.028)*** 0.2181 (0.037) *** -0.034156 (0.0834) C

0.083798 (.0125)*** 0.098407 (.019)*** 0.099476 (.057)* FO

-0.091162 (.0068)*** -0.075964(.0083)* -0.085095 (.0117)*** LEV

0.00109 (.0025) -0.009703 (.0033)*** 0.01362 (.007) * SIZE

-3.49E-06 (5.12E-05) 3.45E-06 (4.18E-05) 7.10E-06 (4.10E-05) INV

0.214232 (.013) *** 0.181613 (.0139)*** 0.137560 (.0156)*** LIQ

0.017486 (.0022)*** 0.023202(.00256)*** 0.023483 (.00313) *** PRO

0.012049 (.0068)* 0.005291 (0.008) 0.030505 (.013)** TAN

(*) mức ý nghĩa 10% (**) mức ý nghĩa 5% (***) mức ý nghĩa 1%

(Nguồn: tổng hợp từ kết quả hồi quy)

Mặc dù phân tích hồi quy OLS gộp thể hiện một số kết quả có ý nghĩa (1%) nhưng

không giải thích được các vấn đề nội sinh phát sinh (endogeneity) bởi sự không đồng

nhất không quan sát được (unobserved heterogeneity), sai số đo lường, sự đồng thời

(simultaneity)… hơn nữa, các vấn đề nội sinh thường xuyên xảy ra đối với các phân

tích trong lĩnh vực tài chính. Chúng ta nên tiến hành các phân tích khác để đưa ra các

kết quả có nghĩa và khắc phục những nhược điểm của phân tích OLS. Bài nghiên cứu

sử dụng phương pháp phân tích dữ liệu bảng. Như đã trình bày ở phần trên, với nguồn

31

dữ liệu thu thập được, phân tích dữ liệu bảng cung cấp nhiều thông tin có ý nghĩa hơn

và giúp kiểm soát các sự không đồng nhất không quan sát được (theo nghiên cứu của

Baltagi, 2005). Mặt khác dữ liệu chéo lại không thể hiện được đăc trưng theo chuỗi

thời gian đối với dữ liệu của từng doanh nghiệp (theo Driffield, 2007) nên phân tích dữ

liệu bảng là phù hợp nhất. Hồi quy với dữ liệu bảng cũng giúp kiểm soát các biến số

bất biến theo thời gian không quan sát được. Do vậy, hai mô hình cơ bản là phân tích

tác động cố định và tác động ngẫu nhiên của dữ liệu bảng được sử dụng cho việc kiểm

soát các tác động không quan sát được và các sai số thống kê do đo lường.

Từ kết quả thể hiện qua bảng 3, ta thấy cả hai mô hình đều đưa ra tín hiệu tương quan

dương giữa FO và ROA, với mức ý nghĩa thống kê là 1% REM và 10% đối với FEM.

Để xem xét sự phù hợp giữa 2 mô hình, chúng tối tiến hành kiểm định Hausman, theo

bảng kết quả, mô hình tác động cố định có ý nghĩa cao hơn. Qua đó chúng ta có thể kết

luận rằng kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy: Tỷ lệ sở hữu nước ngoài tăng 1%

sẽ làm cho ROA tăng 0.099. Điều này phù hợp với giả thiết đưa ra ban đầu, mặc dù

điều kiện có nhiều khác biệt nhưng sở hữu nước ngoài ở Việt Nam cũng có tác động

tích cực tới giá trị doanh nghiệp như các nghiên cứu trước đây ở một số nước trên thế

giới.

32

Bảng 4b: Kết quả hồi quy mô hình 1 đối với nhóm công ty có FO <= 5%

ROA (OLS) ROA (Random) ROA (fixed)

0.11608

(***)

0.21937

0.05925

(*)

(***)

C

0.44983

(***)

0.29521

(**)

0.37678

(***)

FO

-0.0724

(***)

-0.05487

(***)

-0.0841

(***)

LEV

-0.0015

-0.01112

(***)

0.00433

SIZE

0.00001

0.00002

0.00002

INV

0.17108

(***)

0.1471

(***)

0.15466

(***)

LIQ

(***)

0.01587

(***)

0.02952

0.01369

(***)

PRO

0.00975

0.00746

0.00672

TAN

(*) mức ý nghĩa 10% (**) mức ý nghĩa 5% (***) mức ý nghĩa 1%

(Nguồn: tổng hợp từ kết quả hồi quy)

33

Bảng 4c: Kết quả hồi quy mô hình 1 đối với nhóm công ty có FO > 5%

ROA (OLS) ROA (Random) ROA (fixed)

0.13558

(**)

0.24609

(***)

0.095

C

0.00216

0.01661

0.14403

FO

-0.12602

(***)

-0.11624

(***)

-0.1247

(***)

LEV

0.00011

-0.00931

0.0035

SIZE

0.28145

(***)

-0.00042

0.20596

(***)

INV

-0.0006

(*)

0.25076

(***)

-0.00035

LIQ

0.02713

(***)

0.01814

(***)

0.01002

(**)

PRO

0.03395

(**)

0.01637

-0.0621

(**)

TAN

(*) mức ý nghĩa 10% (**) mức ý nghĩa 5% (***) mức ý nghĩa 1%

(Nguồn: tổng hợp từ kết quả hồi quy)

Từ kết quả của bảng 4b và 4c, ta thấy kết quả của 3 phương pháp đều cho tín hiệu

tương quan dương giữa FO (FO <=5%) và ROA , trong đó mức ý nghĩa thống kê là 1%

cho cả OLS và fixed effect, và 5% cho radom effect. Kiểm định hausman test cho kết

quả fixed effect model có ý nghĩa cao hơn. Qua đó, chúng ta có thể kết luận rằng từ kết

quả thực nghiệm cho thấy: tỷ lệ nước ngoài tăng 1% sẽ làm ROA tăng 0.37678. Trong

khi đó đối với kết quả của trường hợp FO > 5% hệ số của FO và ROA không có ý

nghĩa trong phân tích OLS và random effect model, hệ số giữa FO và ROA lại tương

quan dương trong fixed effect với mức ý nghĩa 5%. Kết quả của kiểm định Hausman

cũng cho thấy kết quả của fixed effect phù hợp và có ý nghĩa hơn. Kết quả của fixed

effect model trong trường hợp này cho thấy rằng 1% tăng lên của FO làm cho ROA

34

tăng lên 0.14403. Kết quả của 2 trường hợp này cho thấy, sở hữu nước ngoài tác động

tích cực đến giá trị doanh nghiệp dù nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các doanh

nghiệp Việt Nam với tỷ lệ thấp (<=5%) hay tỷ lệ cao (>5%). Tuy nhiên, hệ số của FO

trong trường hợp nhỏ hơn 5% lớn hơn trong trường hợp lớn hơn 5%. Điều này cho

thấy rằng tỷ lệ sở hữu nước ngoài nhỏ hơn hoặc bằng 5% sẽ làm ROA tăng nhiều hơn

so với tỷ lệ sở hữu nước ngoài cao hơn 5%. Cũng có thể nói rằng, tỷ lệ sở hữu nước

ngoài nhỏ hơn hoặc bằng 5% làm giá trị doanh nghiệp ở Việt Nam tăng nhiều hơn so

với những tỷ lệ cao hơn. Điều này cho thấy rằng các doanh nghiệp Việt Nam nên duy

trì tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài ở mức thấp để nâng cao giá trị doanh

nghiệp hơn.

4.3.2. Mô hình cấu trúc vốn (Mô hình 2)

Bảng 5a: Kết quả hồi quy mô hình 2 đối với toàn bộ các quan sát

LEV (panel random LEV (panel fixed LEV (OLS) effect) effect)

0.56 (.006) *** 0.538 (.0094) *** 0.515035 (.0087) *** C

-0.3753 (.0317) *** -0.291479 (.056) *** -0.1124 (.09713) FO

-0.0589 (.006) *** -0.028608 (.056) *** -0.022129 (.005) *** PRO

0.000561 (.0002) *** 0.000647 (.0002)*** GRO -0.0001 (.0003)

-0.022 (.018) 0.05638 (.0193)*** 0.075946 (.0215) *** TAN

0.001725 (.004) 0.002769 (.004) TAX 0.00087 (.0077)

(*) mức ý nghĩa 10% (**) mức ý nghĩa 5% (***) mức ý nghĩa 1%

(Nguồn: tổng hợp từ kết quả hồi quy)

35

Để nghiên cứu tác động của sở hữu nước ngoài lên cấu trúc vốn, đầu tiên bài nghiên

cứu sử dụng phương pháp Pooled OLS. Theo kết quả hồi quy, hệ số tương quan giữa

FO và LEV là -0.3753 với mức ý nghĩa 1%. Tuy nhiên, từ những hạn chế của phương

pháp Pooled OLS, chúng tôi tiếp tục tiến hành kiểm định bằng 2 mô hình FEM và

REM, kết quả vẫn là tương quan dương và với mức ý nghĩa 1% đối với cả hai trường

hợp. Theo kết quả của Hausman test chúng tôi lựa chọn kết quả FEM, tức là khi tỷ lệ

sở hữu nước ngoài tăng 1% sẽ làm cho tỷ lệ nợ trên tổng tài sản giảm 0.1124%. Điều

này có thể thể hiện rằng, đối với các công ty niêm yết tại thị trường Việt Nam, nhà đầu

tư nước ngoài lựa chọn các công ty có tiềm năng tăng trưởng cao, các nhà quản lí có xu

hướng duy trì tỷ lệ lợi nhuận giữ lại để tiếp tục đầu tư hơn là sử dụng thêm nợ.

Bảng 5b: Kết quả hồi quy mô hình 2 đối với nhóm công ty có FO <= 5%

FO <= 5%

LEV ( OLS) LEV (Random) LEV (Fixed)

0.583712 (***) 0.553533 (***) 0.585602 (***) C

-1.26491 (***) -0.89397 (**) -1.35045 (***) FO

-0.06407 (***) -0.04185 (***) -0.06468 (***) PRO

-0.00023 0.000523 (***) -0.00025 GRO

-0.0606 (***) 0.033283 -0.06386 (***) TAN

0.000253 0.001381 0.000759 TAX

(*) mức ý nghĩa 10% (**) mức ý nghĩa 5% (***) mức ý nghĩa 1%

(Nguồn: tổng hợp từ kết quả hồi quy)

36

Bảng 5c: Kết quả hồi quy mô hình 2 đối với nhóm công ty có FO > 5%

FO > 5%

LEV ( OLS) LEV (Random) LEV (Fixed)

0.512435 (***) 0.490581 (***) 0.514882 (***) C

-0.309286 (***) -0.242527 (***) -0.313416 (***) FO

-0.046858 (***) -0.020892 (***) -0.046785 (***) PRO

0.00371 0.002633 (*) 0.003366 GRO

0.075491 (**) 0.120196 (***) 0.070334 (**) TAN

0.044811 0.011215 0.042018 TAX

(*) mức ý nghĩa 10% (**) mức ý nghĩa 5% (***) mức ý nghĩa 1%

(Nguồn: tổng hợp từ kết quả hồi quy)

Từ kết quả của 2 bảng trên cho thấy hệ số thể hiện mối quan hệ của LEV và FO trong 2

trường hợp đều cho kết quả tương quan âm và mức ý nghĩa khá cao 1% và 5%. Cụ thể

là với trường hợp FO <=5%, hệ số này có mức ý nghĩa 1% cho OLS và fixed effect

model và 5% cho random. Trong khi đó, kết quả của trường hợp FO >5% có ý nghĩa

1% cho cả OLS, random effect model và fixed effect model. Kết quả của kiểm định

Hausman cho cả 2 trường hợp cũng cho thấy kết quả của fixed effect phù hợp và có ý

nghĩa hơn. Kết quả này cho thấy với FO <=5%, FO tăng 1% làm tỷ lệ đòn bẩy tài chính

giảm 1.35044. Với tỷ lệ FO > 5%, 1% tăng trong FO làm tỷ lệ đòn bẩy giảm 0.31341.

Qua kết quả trên, ta thấy rằng tỷ lệ sở hữu nước ngoài thấp tác động làm giảm tỷ lệ nợ

trong đòn bẩy tài chính của các doanh nghiệp nhiều hơn so với tỷ lệ sở hữu cao.

37

4.3.3. Tính đồng thời của sở hữu nước ngoài, tỉ lệ đòn bẩy và giá trị doanh nghiệp

Trong mô hình thống kê, sự tương quan giữa các biến hay các tham số rất dễ xảy ra,

theo bảng hệ số tương quan (bảng 3), chúng ta thấy hệ số tương quan giữa các biến

trong mô hình đang xem xét là không cao. Bên cạnh đó, mô hình tác động cố định cũng

giúp giải quyết vấn đề nội sinh gây ra bởi sai số đo lường và các tác động không quan

sát được. Tuy nhiên, trong mối quan hệ giữa sở hữu nước ngoài, cấu trúc vốn và hiệu

quả doanh nghiệp, chúng ta cần quan tâm đến một vấn đề nội sinh, đó là tính đồng thời.

Cụ thể hơn, đó là tính đồng thời trong cấu trúc sở hữu và giá trị doanh nghiệp. Ví dụ,

các nhà đầu tư sẽ có xu hương thích đầu tư vào các công ty có hiệu quả hoạt động cao

hơn – giá trị công ty tác động lên cấu trúc vốn, đồng thời cấu trúc sở hữu cũng tác động

đến đòn bẩy của công ty hay giá trị công ty cũng ảnh hưởng đến cấu trúc sở hữu. Do

đó, việc nắm bắt và kiểm soát các mối quan hệ đa chiều giữa FO, FV và CS là cần

thiết, chúng ta nên tiến hành thêm một kiểm định để tăng ý nghĩa và mức độ thuyết

phục của kết quả được nêu ra ở phần trên.

Dựa trên bài nghiên cứu của Ruan, Tian, Shiguang Ma (2011), chúng tôi sử dụng

phương pháp 3-stage least-square để làm giảm bớt ảnh hưởng của tính đồng thời:

ROA = f (FO, LEV, SIZE, INV, TAN) (3.1)

LEV = g (FO, ROA, TAN, GRO, TAX) (3.2)

FO = h (ROA, LEV, TAN, PRO, LIQ) (3.3)

Việc lựa chọn các biến dựa trên các nghiên cứu gần đây về quản trị doanh nghiệp của

(Claessens & Djankov năm 1999; Firth và cộng sự, 2006; Hovey& cộng sự 2003;

Huang & Song 2006). Tuy nhiên với mục đích chính là kiểm định lại mối tương quan

tích cực và tiêu cực giữa các biến FO, ROA, LEV nên để đơn giản hóa, chúng ta sử

dụng các biến kiểm soát của mô hình 1 và mô hình 2.

38

Bảng 6: Kết quả hồi quy 3-stage least-square (bỏ qua tính đồng thời)

ROA LEV FO

0.0184936 (.0269) *** 0.692459 (.006695)*** 0.108477 (.007098) *** C

0.154789 (.0128)*** -0.420036 (.03) *** FO

-0.121676 (.00939) *** -0.216514 (.00647)*** LEV

0.001133(0.0024) SIZE

-7.00E-06 (4.95E-05) INV

-0.006756 (.007) -0.025976 (.018) -0.012355 (.00997) TAN

-1.417131 (.03959) *** 0.295667 (.0245)*** ROA

-8.92E-05 (.000325) GRO

-0.000159 (0.006887) TAX

0.000653 (.0032) PRO

0.03851 (.0198) LIQ

(*) mức ý nghĩa 10% (**) mức ý nghĩa 5% (***) mức ý nghĩa 1%

(Tổng hợp từ kết quả hồi quy)

Kết quả hồi quy thể hiện trong bảng 6 một lần nữa giúp khẳng định mối tương quan

giữa các biến là tương đồng với kết luận trong phần 4. Hệ số tương quan giữu ROA và

FO là 0.1547 với mức ý nghĩa 1% (so với mô hình tác động cố định là 0.099) và hệ số

tương quan giữa LEV và FO là - 0.42 (so với mô hình tác động cố định là -1.35 với

nhóm công ty có FO <=5% và - 0.31 đối với nhóm công ty có FO > 5%.

Chúng ta có thêm một kiểm định giúp xác định mối tương quan dương giữa sở hữu

nước ngoài với giá trị doanh nghiệp và tương quan âm với tỉ lệ đòn bẩy tài chính. Điều

này thể hiện rằng cần những nghiên cứu có mẫu quan sát lớn hơn và các mô hình ước

lượng chính xác hơn để có thể đưa ra chứng bằng chứng thực sự đáng tin cậy để các

các nhà đầu tư, quản trị có thể đưa ra quyết định tài chính hiệu quả.

39

5. Kết luận

Bài nghiên cứu là một trong những bài viết đầu tiên nghiên cứu về ảnh hưởng của sở

hữu nước ngoài đến giá trị doanh nghiệp và tỉ lệ đòn bẩy tài chính trong cấu trúc vốn

của các công ty cổ phần tại Việt Nam niêm yết trên cả 2 sàn HOSE và HNX. Kết quả

nghiên cứu tại thị trường Việt Nam cũng có nhiều điểm tương đồng với các nghiên cứu

trước đây tại các nước đang phát triển, như một số nước trong khu vực Đông Nam Á:

Malaysia, Indonesia…

Với số lượng quan sát tương đối lớn cùng các kết quả kiểm định với mức ý nghĩa cao,

bài nghiên cứu cho thấy được tác động tích của của sở hữu nước ngoài đối với giá trị

doanh nghiệp và tác động tiêu cực đối với tỉ lệ đòn bẩy tài chính. Bên cạnh đó, bằng

việc tiến hành phân tích hồi quy riêng đối với hai nhóm quan sát có tỉ lệ sở hữu nước

ngoài lớn hơn 5% và nhỏ hơn 5%, bài nghiên cứu cung cấp thêm các thông tin phản

ánh tình hình thực tế. Tại Việt Nam, các công ty có tỉ lệ sở hữu nước ngoài nhỏ hơn

5% chiếm đa số (chiếm gần 70% các quan sát trong bài nghiên cứu), kết quả thực

nghiệm cho thấy rằng các công ty có tỉ lệ sở hữu nước ngoài nhỏ hơn thì sở hữu nước

ngoài có tác động tích cực đến giá trị doanh nghiệp nhiều hơn và tác động đến tỉ lệ nợ

trong cấu trúc vốn cũng đáng kể hơn (hệ số tương quan trong cả 2 mô hình đối với

nhóm quan sát có FO <= 5% đều có giá trị tuyệt đối lớn hơn). Từ kết quả thực nghiệm

đó, về khía cạnh thực tiễn bài nghiên cứu kì vọng sẽ giúp các nhà kinh tế, các đầu tư và

các nhà quản trị tài chính của doanh nghiệp có được những đánh giá phù hợp về ảnh

hưởng của vấn đề sở hữu nước ngoài đối với thị trường Việt Nam, nghiên cứu sau hơn

về vấn đề này, nâng cao hiệu quả đầu tư và đưa ra được các quyết định tài chính phù

hợp với tình hình thực tiễn tại doanh nghiệp. Xét về quan điểm lí thuyết, với bằng

chứng thực nghiệm tại một thị trường mới nổi như Việt Nam, bài nghiên cứu cung cấp

một cái nhìn sâu sắc hơn về mối quan hệ phức tạp giữa sở hữu nước ngoài, cấu trúc

vốn và giá trị doanh nghiệp.

40

Bên cạnh những đóng góp nêu trên, để vấn đề nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn và

thuyết phục hơn, có thể sử dụng các phương pháp khác để đo lường giá trị doanh

nghiệp như phương pháp DEA () hay sử dụng các biến số khác ngoài ROA như ROE,

ROS, Tobin’s Q … Tỉ lệ nợ trong cấu trúc vốn có thể xem xét cụ thể hơn thông qua giá

trị thị trường, tỉ lệ nợ ngắn hạn, dài hạn … Ngoài ra, mặc dù các kiểm định hồi quy đều

đưa ra kết quả về mối tương quan của sở hữu nước ngoài với 2 yếu tố còn lại là đồng

nhất nhưng hệ số tương quan vẫn còn chênh lệch, chính vì thế có thể mở rộng nghiên

cứu với dữ liệu bao gồm nhiều công ty hơn, trong một thời kì dài hơn.

41

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Abbas S., R. Rahman, S. Mahenthiran (2009) Ultimate Ownership and Performance of

Islamic Financial Institutions in Malaysia. Banking & Insurance eJournal 04/2009.

Arnold J. M. and B. S. Javorcik (2009) Gifted Kids or Pushy Parents? Foreign Direct

Investment and Plant Productivity in Indonesia. SSRN eLibrary.

Baek et al (2004) Corporate Governance and Firm Value: Evidence from the Korean

Financial Crisis. Journal of Financial Economics, 265–313

Brounen D., D. Jong, K. Koedijk (2006). Capital structure policies in Europe: Survey

evidence. Journal of Banking & Finance, 30, 1409-1442.

Chaghadari M. F. (2011) Corporate Governance and Firm Performance. International

Conference on Sociality and Economics Development IPEDR vol.10

Chibber, P. K. and S. K. Majumdar (1998) State as Investor and State as Owner:

Consequences for Firm Performance in India. Economic Development and Cultural

Change 46, no.3, 561-580.

Chibber, P. K. and S. K. Majumdar [1999], Foreign Ownership and Protability:

Property Rights, Control, and the Performance of Firms in Indian Industry. The

Journal of Law and Economics XLII, 209-238.

CHO (1998) Ownership structure, investment, and the corporate value: An empirical

analysis. Journal of Financial Economics, 47, 103-121

Chương 16: Các mô hình hồi quy dữ liệu bảng. Kinh tế lượng cơ sở - 3rd ed. Chương

trình giảng dạy kinh tế Fullbright.

Douma, S., R. George, and R. Kabir (2002). Foreign and domestic ownership, business

groups and firm performance: Evidence from a large emerging market. Titenburg

University Working Paper.

Driffield N., Mahambare (2007). How does ownership structure affect capital structure

and firm value? Recent evidence from East Asia Economics of Transition.

Erik B. và J.Krishnakumar (2007) Measurement errors and simultaneity. The

Econometrics Of Panel Data.

42

Frank, M. Z. & Goyal (2009) Capital Structure Decisions: Which Factors are Reliably

Important? Financial Management Association International, vol. 38(1).

Gurbuz, A.O & Aybars A. (2010) The impact of foreign ownership on Firm

Performance, evidence from an : Emerging market: Turkey. American Journal of

Economics & Business Administration, 2, 350-359.

Gurcharan, S. (2010) A Review of Optimal Capital Structure Determinant of Selected

ASEAN Countries. International Research Journal of Finance and Economics.

Gurunlu,Gursoy (2010) The Influence of Foreign Ownership on Capital Structure

of Non-Financial Firms: Evidence from Istanbul Stock Exchange. IUP Journal

of Corporate Governance, 9, 21-29.

Himmelberg, C. P., Hubbard, R. G. & Palia (1999). Understanding the determinants of

managerial ownership and the link between ownership and performance. Journal of

Financial Economics, 53, 353-384.

Hoshi, T., Kashyap, A. & Scharfstein, D.(1991) Corporate structure, liquidity, and

investment: Evidence from Japanese industrial groups. The Quarterly Journal of

Economics, 106, 33-60.

Huang, B.-Y., Lin, C.-M. & Huang, C.-M. (2011). The influences of ownership

structure:evidence from China. The Journal of Developing Areas, 45, 209-227.

Jiraporn, P. & Liu, Y. (2008) Capital Structure, Staggered Boards, and Firm Value.

Financial Analysts Journal, 64, 49-60.

Kaplan, S. N. & Zingales, L. (1995) Do financing constraints explain why investment

is correlated with cash flow? National Bureau of Economic Research

Kayo, E. K. & Kimura, H. (2011) Hierarchical determinants of capital structure.

Journal of Banking & Finance, 35, 358-371

King, M. R. & Santor, E. (2008.) Family values: Ownership structure, performance and

capital structure of Canadian firms. Journal of Banking & Finance, 32, 2423-

2432.

43

Konijn, S. J. J., Kräussl, R. & Lucas, A. 2011. Blockholder dispersion and firm value.

Journal of Corporate Finance, 17, 1330-1339

Kumar J. (2003) Does Ownership Structure Influence Firm Value? Evidence from

India. The Journal of Entrepreneurial Finance and Business Ventures, Vol. 9, No. 2,

pp. 61 –93, October 2004 .

Kurt S. Unversit at Basel (2012). Panel Data: Fixed and Random Effects. Short

Guides to Microeconometrics

Kwangwoo P. (2001) “Foreign ownership and firm value in Japan”. SSRN eLibrary.

Le. T. T. V, Phung D. N (2013) Foreign Ownership, Capital Structure and Firm Value:

Empirical evidence from Vietnamese listed firms. SSRN eLibrary

Lee S. (2008) Ownership Structure and Financial Performance: Evidence from Panel

Data of South Korea. Forthcoming in Corporate Ownership & Control , 6(2),

Winter 2008.

Li et al (2009) Ownership, institutions, and capital structure: Evidence from China.

Journal of Comparative Economics 37 (2009) 471–490

Margaritits và Psillaki (2010) Capital structure, equity ownership and firm

performance. SSRN eLibrary (Accepted Paper)

Megginson, W.L., and J. Netter (2001) “From State to Market: A Survey of Empirical

Studies on Privatization.” Journal of Economic Literature, 39 (2001), 321-389.

Mishra, A.V. (2012) Foreign ownership in Australian firms. Australian Conference

of Economists - Victoria University.

Nigel, D. & Sarmistha, P. (2007) How Does Ownership Structure Affect Capital

Structure and Firm Value? Recent Evidence from East Asia. Centre for Economic

Development and Institutions (CEDI), Brunel University.

Olga B. (2009) Foreign Ownership And Firm Performance: A Closer Lookat Offshore-

Owned Companies In Ukraine. Kyiv School of Economics

44

Park, Y. S. (2004) Assessing The Impact Of Corporate Governance On Productivity

And Growth In Korea. In E. T . Gonzale z (ed.) Impact of Corporate Governance

on Productivity :Asian Experience. Asian Productivity Organization.

Patibandla M. (2002). Equity pattern, corporate governance and performance: A study

of Indian corporate sector. Copenhagen Business School, Working Paper.

Randøy T., S. Thomsen, L. Oxelheim (2006) “A Nordic perspective on corporate board

diversity”. SSRN eLibrary

Robert D. Coleman, PhD (2006) What Is Ecomometric Simultaneity?

Ruan W., G. Tian, S. Ma (2011). Managerial Ownership, Capital Structure and Fir

Value: Evidence from China’s Civilian-run Firms. Volume 5 Issue 3 Australasian

Accounting Business and Finance Journal.

S. Ghon Rhee J. Wang (2009). Foreign institutional ownership and stock market

liquidity: Evidence from Indonesia. SSRN eLibrary

Saleh N., M. Rahman, M. Hassan (2007). Ownership structure and intellectual capital

performance in Malaysia. SSRN eLibrary (Accepted Paper )

Salim D. (2011) Board Diversity and Firm Performance The Indonesian Evidence

Sarkar, J. and S. Sarkar (1999). The Governance of Indian Corporates. India

Development Report Oxford University Press, 201-218

Sarkar, J. and S. Sarkar (2000). Large Shareholder Activism in Corporate Governance

in Developing Countries: Evidence From India. International Review of Finance

1,no.3, 161-194.

Saul E., J. Hanousek, J. Svejnar (2008) “The Effects of Privatization and Ownership in

Transition Economies”

Sepideh K. (2011) Performance, Capital Structure and Foreign Ownership Structure: A

study of UK Multinationals in BRICs. Brunel Business School – Doctoral

Symposium 28th & 29th March 2011.

45

Tian, G. G. & Zeitun, R. (2007). Capital Structure and Corporate Performance:

Evidence from Jordan. Australasian Accounting Business & Finance Journal, 1,

16-23,25,28-30,32,34-37.

Titman, S. & Wessels, R. (1988). The Determinants of Capital Structure Choice. The

Journal of Finance, 43, 1-19

Vo, X. V. (2011). Foreign Ownership in Vietnam Stock Market - An Empirical

Analysis. SSRN eLibrary

Wei Z., F. Xie, S. Zhang (2004). Ownership Structure and Firm Value in China’s

Privatized Firms: 1991-2001. Accepted Paper ssrn.com

Wiwattanakantang, Y. (1999). An empirical study on the determinants of the capital

structure of Thai firms. Pacific-Basin Finance Journal, 7, 371-403.

Zou, H. & Xiao, J. Z. (2006). The financing behaviour of listed Chinese firms. The

.

British Accounting Review, 38, 239-258.