
24
Tạp chí Kinh tế - Luật và Ngân hàng
Năm thứ 27(11)- Tháng 10. 2025- Số 283
© Học viện Ngân hàng
ISSN 3030 - 4199
Ảnh hưởng của rủi ro khí hậu đến hoạt động cho
vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Ngày nhận: 20/06/2025 Ngày nhận bản sửa: 04/09/2025 Ngày duyệt đăng: 26/09/2025
Tóm tắt: Nghiên cứu này xem xét tác động của rủi ro khí hậu, bao gồm rủi
ro vật chất và rủi ro chuyển đổi, đến hoạt động cho vay của các ngân hàng
thương mại tại Việt Nam. Hoạt động cho vay được đo lường thông qua tốc
độ tăng trưởng dư nợ tín dụng, với bộ dữ liệu gồm 345 quan sát từ 23 ngân
hàng thương mại trong giai đoạn 2010- 2024, kết hợp cùng Chỉ số Rủi ro Khí
hậu Toàn cầu (Climate Risk Index- CRI) do Germanwatch công bố. Với phương
pháp nghiên cứu áp dụng mô hình hồi quy GMM kết quả thực nghiệm cho thấy
rủi ro khí hậu có tác động tiêu cực đáng kể đến hoạt động cho vay của ngân
hàng: khi tần suất và mức độ nghiêm trọng của các hiện tượng khí hậu cực
đoan gia tăng, các ngân hàng có xu hướng thắt chặt chính sách tín dụng nhằm
The impacts of climate risk on the lending activities of Vietnamese commercial banks
Abstract: This study examines the impact of climate risks, including both physical and transition risks,
on the lending activities of commercial banks in Viet Nam. Lending activities are measured through the
growth rate of outstanding credit, with a dataset of 345 observations from 23 commercial banks in the
period 2010- 2024, combined with the Global Climate Risk Index (Climate Risk Index- CRI) published by
Germanwatch. Using the GMM regression model, the empirical results show that climate risks have a
significant negative impact on bank lending activities: as the frequency and severity of extreme climate
events increase, banks tend to tighten their policies to mitigate hidden risks. On that basis, the study
proposes a number of policy functions to minimize the adverse impacts of climate risks on banking
operations, including: (i) strengthening the climate factor framework in the credit risk management
framework; (ii) promoting the development of green credit products and green transition support
mechanisms; and (iii) improving the capacity to assess, monitor and forecast climate risks at the bank and
system levels.
Keywords: Climate risk, Commercial banks, CRI, Bank Lending activities
Doi: 10.59276/JELB.2025.10.3014
Le Thanh Tam1, Pham Thi Thao Nguyen2, Nguyen Ho Thu Ngan3, Pham Ngoc Na4, Tran Huyen Trang5, Le
Ngoc Anh6
Email: tamlt@neu.edu.vn1, thaonguyenneu14@gmail.com 2, mte2946@gmail.com3,
ngocna8avinhan@gmail.com4, trantrangh.work@gmail.com5, ngocanhle1406@gmail.com6
Organization of all: National Economics University, Viet Nam
Lê Thanh Tâm, Phạm Thị Thảo Nguyên, Nguyễn Hồ Thu Ngân,
Phạm Ngọc Na, Trần Huyền Trang, Lê Ngọc Anh
Đại học Kinh tế Quốc dân, Việt Nam
KINH TẾ VÀ NGÂN HÀNG

LÊ THANH TÂM - PHẠM THỊ THẢO NGUYÊN - NGUYỄN HỒ THU NGÂN -
PHẠM NGỌC NA - TRẦN HUYỀN TRANG - LÊ NGỌC ANH
25
Năm thứ 27(11)- Tháng 10. 2025- Số 283- Tạp chí Kinh tế - Luật và Ngân hàng
1. Đặt vấn đề
Biến đổi khí hậu đang trở thành mối đe dọa
nghiêm trọng đối với sự ổn định kinh tế
và tài chính toàn cầu, thu hút sự quan tâm
lớn từ giới nghiên cứu và các tổ chức tài
chính (Lang và các cộng sự, 2023). Thực
tiễn cho thấy các hiện tượng thời tiết cực
đoan ngày càng gia tăng, ảnh hưởng rõ rệt
đến chất lượng danh mục cho vay của các
ngân hàng đặc biệt trong các ngành như
nông nghiệp, thủy sản, bất động sản hay hạ
tầng (Huang và cộng sự, 2018). Trong khi
đó, ngân hàng thương mại giữ vai trò then
chốt trong việc phân bổ vốn, điều hướng
dòng tín dụng nhưng các mô hình cho vay
và đánh giá rủi ro hiện nay của phần lớn
các ngân hàng thương mại vẫn chủ yếu
dựa trên các yếu tố tài chính và kinh tế vĩ
mô mà chưa tính hợp một cách đầy đủ các
rủi ro vật lý và rủi ro chuyển đổi do khí
hậu gây ra (Basel Committee on Banking
Supervision, 2021). Mặc dù trên thế giới
đã có một số nghiên cứu tiên phong về mối
liên hệ giữa rủi ro khí hậu và hoạt động tín
dụng ngân hàng (Faiella & Natoli, 2018;
Huang và cộng sự, 2018; Koetter và cộng
sự, 2020; Yin và cộng sự, 2024; Li & Wu,
2024; Caselli & Migliorelli, 2024; Shikimi,
2025) nhưng kết quả về cơ chế tác động
của rủi ro khí hậu đến hoạt động cho vay
vẫn còn tồn tại nhiều tranh cãi do sự khác
biệt về vị trí địa lý và mục tiêu phát triển
của ngân hàng. Tại Việt Nam, các phát
hiện ban đầu về tác động của rủi ro khí hậu
đến hoạt động cho vay ngân hàng thiếu tính
đồng nhất, các bằng chứng thực tế lại cho
thấy rõ sự chệnh giữa nhận thức và hành
động khi phần lớn các ngân hàng vẫn chưa
tích hợp đầy đủ rủi ro khí hậu vào quy trình
thẩm định và định giá tín dụng một cách
thực chất (Phạm Hữu Hà, 2025; Phạm Thị
Tuyết Trinh & Nguyễn Thị Hồng Vinh,
2025). Trong bối cảnh Việt Nam là một
trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng
nề nhất bởi biến đổi khí hậu (Huynh và
cộng sự, 2021; Phạm Hữu Hà, 2025; Phạm
Thị Tuyết Trinh & Nguyễn Thị Hồng
Vinh, 2025), có thể kể đến các sự kiện như
bão Damrey (2017), hạn mặn lịch sử 2019-
2020, hay gần đây là cơn bão Yagi (2024),
cơn bão được cơ quan khí tượng đánh giá
là một trong những cơn bão mạnh nhất đổ
bộ vào miền Bắc của Việt Nam trong nhiều
thập kỷ. Vì vậy, điều này đặt ra nhu cầu
cấp thiết về một nghiên cứu chuyên sâu để
xác định mối quan hệ giữa rủi ro khí hậu và
hoạt động cho vay của ngân hàng thương
mại tại Việt Nam. Để phân tích tác động
của mối quan hệ này, bài viết sử dụng mô
hình hồi quy tuyến tính (Abuzayed và cộng
sự, 2018) dựa trên bộ dữ liệu gồm 23 ngân
hàng thương mại Việt Nam kết hợp với các
biến kinh tế vĩ mô và chỉ số rủi ro khí hậu
(Climate Risk Index- CRI). Mô hình được
thiết kế với biến độc lập là rủi ro khí hậu và
các biến kiểm soát như tăng trưởng GDP,
lạm phát, quy mô ngân hàng, chi nhánh
giảm thiểu rủi ro tín dụng tiềm ẩn. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất một số
hàm ý chính sách nhằm giảm thiểu tác động bất lợi của rủi ro khí hậu đối với
hoạt động ngân hàng, bao gồm: (i) tăng cường lồng ghép yếu tố khí hậu vào
khung quản trị rủi ro tín dụng; (ii) thúc đẩy phát triển các sản phẩm tín dụng
xanh và cơ chế hỗ trợ chuyển đổi xanh; và (iii) cải thiện năng lực đánh giá,
giám sát và dự báo rủi ro khí hậu tại cấp ngân hàng cũng như cấp hệ thống.
Từ khóa: Rủi ro khí hậu, Ngân hàng thương mại, CRI, Hoạt động cho vay

Ảnh hưởng của rủi ro khí hậu đến hoạt động cho vay
của các ngân hàng thương mại Việt Nam
26
KINH TẾ VÀ NGÂN HÀNG
Tạp chí Kinh tế - Luật và Ngân hàng- Năm thứ 27(11)- Tháng 10. 2025- Số 283
ngân hàng, tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ an toàn vốn
tối thiểu, tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản,
tiền gửi, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài
sản, tỷ lệ thu nhập lãi. Kết quả cho thấy,
rủi ro khí hậu ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt
động cho vay của ngân hàng thương mại tại
Việt Nam từ đó, đề xuất một số kiến nghị
đối với các ngân hàng, các tổ chức tài chính
khác cũng như chính phủ nhằm nâng cao
nhận thức về tác động của rủi ro khí hậu
đối với hoạt động cho vay của ngân hàng.
Bài viết bao gồm: 1. Đặt vấn đề; 2. Cơ sở
lý luận và tổng quan nghiên cứu, 3. Phương
pháp nghiên cứu; 4. Kết quả và thảo luận
và 5. Kết luận.
2. Cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý luận
Rủi ro khí hậu được hiểu là những tác động
tiềm tàng hoặc đã hiện hữu, phát sinh từ
biến đổi khí hậu, có khả năng gây ảnh
hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh tế, tài
chính, và xã hội của các tổ chức, bao gồm
cả các ngân hàng và doanh nghiệp (ECB,
2021). Theo cách tiếp cận phổ biến, rủi ro
khí hậu được chia thành hai nhóm bao gồm
rủi ro vật chất và rủi ro chuyển đổi (Lang
và cộng sự, 2023). Rủi ro vật chất liên quan
đến các hiện tượng cực đoan hoặc thiên tai
như lũ lụt, động đất, cháy rừng, có thể gây
tác hại nghiêm trọng đến tài sản thế chấp
thường được đo lường thông qua tần suất
thiên tai hoặc sai lệch nhiệt độ, lượng mưa
so với xu hướng dài hạn (Lang và cộng sự,
2023; Caselli và cộng sự 2024). Trong khi
đó, rủi ro chuyển đổi phát sinh từ những
quy định và chi phí liên quan đến quá trình
chuyển dịch sang nền kinh tế ít phát thải
Carbon, như thuế Carbon, hạn chế tín dụng
vào ngành ô nhiễm hoặc yêu cầu tuân thủ
tiêu chuẩn ESG/CSR, thường được đo
lường bằng cường độ carbon, lượng phát
thải CO₂ hoặc mức độ phơi nhiễm ngành
nghề (Lang và cộng sự, 2023; Yin và cộng
sự, 2024).
Rủi ro khí hậu có thể tác động đồng thời
đến hầu hết các loại rủi ro cốt lõi trong
ngân hàng. Về rủi ro tín dụng, thiệt hại tài
sản bảo đảm từ thiên tai làm suy giảm giá
trị tài sản thế chấp và khả năng trả nợ, trong
khi chi phí tuân thủ môi trường cao hơn có
thể làm gia tăng tỷ lệ vỡ nợ ở các ngành
phát thải cao (Huang và cộng sự, 2018).
Về rủi ro thanh khoản, các hiện tượng khí
hậu cực đoan có thể dẫn đến tình trạng rút
tiền gửi hàng loạt hoặc làm tăng nhu cầu
vốn khẩn cấp từ khách hàng (Lang và cộng
sự, 2023). Về rủi ro thị trường, biến động
giá trị bất động sản và chứng khoán của
các doanh nghiệp phát thải cao khiến giá
trị tài sản bảo đảm giảm, tác động trực tiếp
đến tổn thất tín dụng kỳ vọng và chi phí
vốn (Monasterolo & de Angelis, 2020).
Các bằng chứng này cho thấy rủi ro khí
hậu mang tính “xuyên suốt”, vừa khuếch
đại vừa tái định hình các loại rủi ro truyền
thống trong hoạt động ngân hàng. Hệ quả
là, rủi ro khí hậu có ảnh hưởng trực tiếp đến
hoạt động cho vay của ngân hàng. Theo
Luật Tổ chức tín dụng Việt Nam (2024) :
“Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo
đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng
sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào
mục đích xác định trong một thời gian nhất
định theo thỏa thuận, với nguyên tắc hoàn
trả cả gốc và lãi.” Khi đối diện với rủi ro
khí hậu, các ngân hàng có xu hướng điều
chỉnh danh mục cho vay, thận trọng hơn
với các ngành dễ tổn thương, đồng thời
ưu tiên cấp tín dụng cho các doanh nghiệp
ít phát thải hoặc dự án xanh (Faiella &
Natoli, 2018; Huang và cộng sự, 2018; Yin
và cộng sự, 2024; Li & Wu, 2024; Caselli
& Migliorelli, 2024). Điều này cho thấy
biến đổi khí hậu không chỉ làm gia tăng rủi
ro tín dụng, thanh khoản và thị trường, mà

LÊ THANH TÂM - PHẠM THỊ THẢO NGUYÊN - NGUYỄN HỒ THU NGÂN -
PHẠM NGỌC NA - TRẦN HUYỀN TRANG - LÊ NGỌC ANH
27
Năm thứ 27(11)- Tháng 10. 2025- Số 283- Tạp chí Kinh tế - Luật và Ngân hàng
còn tác động trực tiếp đến khẩu vị rủi ro và
chiến lược cho vay của ngân hàng.
2.2. Tổng quan nghiên cứu
Việc nghiên cứu rủi ro khí hậu ảnh hưởng
đến hoạt động cho vay của ngân hàng là cần
thiết vì tần suất và mức độ nghiêm trọng của
các hiện tượng khí hậu cực đoan gia tăng
không chỉ làm suy giảm khả năng trả nợ
của doanh nghiệp mà còn trực tiếp đe dọa
an toàn vốn và ổn định hệ thống tài chính
(Faiella & Natoli, 2018; Huang và cộng
sự, 2018; Koetter và cộng sự, 2020; Yin và
cộng sự, 2024; Li & Wu, 2024; Caselli &
Migliorelli, 2024; Shikimi, 2025).
Tại Ý, Faiella và Natoli (2018) nghiên cứu
tác động của rủi ro lũ lụt đến hoạt động cho
vay của ngân hàng, dựa trên dữ liệu kết hợp
giữa bản đồ rủi ro thiên tai và thông tin tín
dụng theo chi nhánh. Kết quả cho thấy tăng
trưởng dư nợ ở các khu vực có nguy cơ lũ lụt
cao thấp hơn đáng kể, đặc biệt đối với các
khoản vay dài hạn, đồng thời các khoản vay
này thường phải chịu chi phí vốn cao hơn.
Nghiên cứu khẳng định rằng rủi ro thiên tai
buộc ngân hàng phải thận trọng hơn trong
quyết định cho vay, từ đó làm hạn chế khả
năng tiếp cận vốn của hộ gia đình và doanh
nghiệp ở các vùng dễ tổn thương.
Kết quả trên đồng tình với Caselli và
Migliorelli (2024) trong bối cảnh nghiên
cứu tại Mỹ, nhóm tác giả đã phân tích dữ
liệu ngân hàng thương mại và cho thấy
biến động bất thường của nhiệt độ so với
xu thế khí hậu lịch sử làm gia tăng tỷ lệ
nợ xấu, đặc biệt ở các ngân hàng nhỏ và ít
vốn. Hệ quả là rủi ro khí hậu nhanh chóng
chuyển hóa thành rủi ro tín dụng và buộc
ngân hàng thắt chặt danh mục cho vay hoặc
siết điều kiện được vay. Đồng thời, nghiên
cứu cũng chỉ ra rằng sau khi sự kiện thiên
tai diễn ra, ngân hàng có xu hướng giảm
5% việc cho vay mua nhà tại khu vực đó,
và tình trạng này kéo dài trong nhiều năm,
phản ánh hiệu ứng thắt chặt chính sách cho
vay sau cú sốc thiên tai.
Trái lại với các nghiên cứu trên, Koetter và
cộng sự (2020) chỉ ra rằng sau các thảm
họa hiếm gặp như lũ lụt, các ngân hàng địa
phương có xu hướng mở rộng hoạt động
cho vay phục hồi, đặc biệt đối với cho vay
không thế chấp, mà không làm gia tăng
đáng kể rủi ro tín dụng hay hành vi trục lợi.
Phát hiện này hàm ý rằng ngân hàng có thể
đóng vai trò then chốt trong việc ổn định
nền kinh tế và hỗ trợ doanh nghiệp vượt
qua cú sốc khí hậu.
Tại Châu Á, Trung Quốc khi thực hiện
chương trình “Hành động không khí sạch
2013” với các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về
môi trường, đã làm gia tăng tỷ lệ vỡ nợ tại
các ngành công nghiệp gây ô nhiễm cao
(Huang và cộng sự, 2018). Chủ yếu do chi
phí tuân thủ môi trường tăng cao, lợi nhuận
và khả năng cạnh tranh suy giảm, áp lực tài
chính từ chi phí vay tăng và hạn chế tiếp
cận vốn, và tác động ngắn hạn từ việc nội
hóa chi phí ô nhiễm. Các nghiên cứu tiếp
theo cho thấy doanh nghiệp đạt chuẩn CSR
và ESG có lợi thế tiếp cận các khoản vay,
đặc biệt tại các khu vực phát triển tài chính
xanh (Yin và cộng sự, 2024). Nhìn chung,
rủi ro khí hậu tác động đến hoạt động cho
vay của ngân hàng Trung Quốc thông qua
hai cơ chế: (1) làm suy giảm khả năng sinh
lời và tính bền vững của doanh nghiệp; (2)
thay đổi khẩu vị rủi ro và lượng tiền gửi
tại các ngân hàng, đặc biệt tại các vùng
ven biển dễ bị tổn thương (Huang và cộng
sự, 2018; Yin và cộng sự, 2024; Li & Wu,
2024). Shikimi (2025) khi nghiên cứu tại
Nhật Bản cho thấy trong giai đoạn khủng
hoảng COVID-19, các ngân hàng nhỏ đã
giảm thiểu việc cho vay đối với doanh
nghiệp có cường độ phát thải CO₂ cao, tuy
nhiên các ngân hàng với quy mô lớn vẫn
duy trì và gia tăng hoạt động cho vay đối

Ảnh hưởng của rủi ro khí hậu đến hoạt động cho vay
của các ngân hàng thương mại Việt Nam
28
KINH TẾ VÀ NGÂN HÀNG
Tạp chí Kinh tế - Luật và Ngân hàng- Năm thứ 27(11)- Tháng 10. 2025- Số 283
với những doanh nghiệp này khi doanh thu
của họ bị sụt giảm nghiêm trọng. Điều này
đồng tình với nghiên cứu của Carlson và
cộng sự (2013) khi cho rằng ngân hàng có
quy mô và tỷ lệ vốn cao có xu hướng duy
trì tăng trưởng hoạt động cho vay so các
ngân hàng có tỷ lệ quy mô vốn thấp.
Trong bối cảnh Việt Nam, Phạm Hữu Hà
(2025) cho rằng các chính sách môi trường
nghiêm ngặt của Chính phủ làm gia tăng
chi phí tuân thủ, từ đó làm tăng nguy cơ
phá sản đối với những doanh nghiệp gây ô
nhiễm cao. Hệ quả là các ngân hàng thương
mại có xu hướng thận trọng hơn trong hoạt
động cho vay, ưu tiên cấp vốn cho những
doanh nghiệp ít tác động tiêu cực đến môi
trường và giảm cho vay đối với các ngành
công nghiệp nặng. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy chỉ khoảng 44% doanh nghiệp, chủ
yếu là các doanh nghiệp lớn, đã xây dựng
chương trình ESG, và chưa đến 30% thực
sự triển khai báo cáo ESG (PwC Vietnam,
2022). Sự chênh lệch này đặt ra thách thức
đáng kể cho ngân hàng trong việc lồng
ghép rủi ro khí hậu vào hoạt động cho vay,
qua đó làm gia tăng áp lực và kìm hãm tốc
độ tăng trưởng dư nợ. Theo nghiên cứu
của Phạm Thị Tuyết Trinh và Nguyễn Thị
Hồng Vinh (2025), hoạt động cho vay của
các ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn
chưa phản ánh đầy đủ rủi ro biến đổi khí
hậu, 87% ngân hàng được khảo sát đang
hoạt động trong bối cảnh ô nhiễm và biến
đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng nhưng
chỉ có 70% ban hành quy định quản lý rủi
ro môi trường, xã hội trong cho vay. Điều
này cho thấy phần lớn ngân hàng mới dừng
lại ở việc xây dựng quy định mang tính
hình thức, trong khi việc tích hợp rủi ro
khí hậu vào quy trình thẩm định, định giá
khoản vay và đánh giá khả năng trả nợ của
khách hàng còn nhiều hạn chế.
Trước bối cảnh toàn cầu, Ủy ban Basel về
giám sát ngân hàng đã nhấn mạnh rằng rủi
ro khí hậu cần được tích hợp vào khuôn
khổ quản trị rủi ro và giám sát an toàn vốn.
Tại Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước từ
năm 2024 cũng đã ban hành quy định yêu
cầu các tổ chức tín dụng đưa yếu tố môi
trường vào quy trình cho vay và xây dựng
hệ thống quản lý rủi ro môi trường (Positive
Money, 2024) và Thông tư 17/2022/TT-
NHNN về việc lồng ghép rủi ro tín dụng
trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
Tuy nhiên, các nghiên cứu trong nước về
tác động của rủi ro khí hậu đến hoạt động
cho vay vẫn còn hạn chế và chưa phản ánh
đầy đủ bản chất của loại rủi ro này đối với
hệ thống ngân hàng (Phạm Hữu Hà, 2025;
Phạm Thị Tuyết Trinh & Nguyễn Thị Hồng
Vinh, 2025).
Tóm lại, các nghiên cứu trước cho thấy
rủi ro khí hậu làm các ngân hàng có xu
hướng ưu tiên và dịch chuyển sang cho
vay nhiều hơn đối với các dự án xanh, các
ngành lĩnh vực thân thiện với môi trường,
ít chịu tác động trực tiếp của rủi ro khí hậu,
đồng thời hạn chế hoặc thắt chặt các điều
kiện tín dụng với các ngành, lĩnh vực hoặc
doanh nghiệp chịu tác động lớn của rủi ro
khí hậu hoặc gây ô nhiễm. Các nghiên cứu
tại Việt Nam cho thấy một tỷ lệ không nhỏ
các doanh nghiệp chưa sẵn sàng triển khai
ESG trong hoạt động của mình, và điều
này có thể tạo ra điểm ra điểm nghẽn tiềm
tàng trong đầu ra của hoạt động tín dụng.
Mặt khác các nghiên cứu trước cũng cho
thấy bản thân các ngân hàng chưa thực sự
tích hợp đầy đủ rủi ro khí hậu trong cho
vay. Nói cách khác, tác động của rủi ro khí
hậu đến thay đổi xu hướng điều chỉnh tệp
khách hàng tín dụng của các ngân hàng có
thể chưa rõ ràng.
Trong điều kiện khi việc phân tích dư nợ
theo các tệp khách hàng khác nhau để tìm
kiếm bằng chứng trực tiếp về tác động của
rủi ro khí hậu đến hoạt động cho vay chưa
khả thi do hạn chế về dữ liệu, nghiên cứu

