Trm tướng, điều qn, xuất tiền x
n xấu
N xấu tăng lên
Mịt m như "n xấu" của h thống ngân hàng. Đây là li ví von của một chuyên
gia khi nói v việc này. Qu thực, các thông tin v n xấu của ngân hàng đều vẫn
đang khá là mịt mờ. Ngoài các con s n xấu chiếm khoảng 8,6%, ước lượng vào
khoảng 202.000 t đồng được chốt vào cuối quý I năm 2012, hầu như các thông
tin khác v n xấu không có gì thêm.
Qua báo cáo kiểm sau soát xét của một s ngân hàng thương mại c phần niêm yết
có th thấy con s n xấu của các ngân hàng đều tăng, nh nhàng thì như
Sacombank, Eximbank, nặng thì tăng mạnh như Vietinbank, Vietcombank...
Tuy nhiên, tất c các con s này đều cho thấy t l n xấu nằm trong giới hn an
toàn khoảng dưới 4%. Trong khi đó, đây là những ngân hàng rất lớn với quy mô
tín dụng cũng khổng l không kém. Vậy, con s chung 8,6% của c h thống (mà
là con s cuối quý I) s do đâu? Do các ngân hàng thương mại còn lại n xấu
khổng lồ? Hay do "báo cáo sai" tiếp tục được tung ra? Có lẽ, tình trạng giấu n
xu vẫn s tiếp diễn và có l cần NHNN phải mạnh tay x lý các hành vi không
trung thực trong cung cấp thông tin.
đây, n gắn liền với khách hàng. Các đối tượng khách hàng của ngân hàng
thương mại rất khác nhau, trong đó, tập trung quy v 4 nhóm khách hàng chính:
khách hàng cá nhân, khách hàng doanh nghiệp nh và vừa, khách hàng doanh
nghiệp lớnkhách hàng định chế tài chính. Cũng có th chia các khách hàng
theo thành phần s hữu như doanh nghiệp nhà nước, công ty c phần...
Mỗi một đối tượng khách hàng stài sản đảm bảo đặc thù khác nhau, tính chất
tr n khác nhau... Nhưng chúng ta chưamột con s cấu n xấu c th phân
chia theo từng đối ợng khách hàng thì làm sao để x lý? Con s c mịt mịt m
m thì s vô cùng kkhăn, nếu không muốn nói là x lý n xấu s như đi gia
biển.
N xấu của khách hàng cá nhân s xtheo chiều hướng khác, x lý n xấu của
doanh nghiệp nh và vừa s xkhác và n xu của doanh nghiệp lớn cũng lại
càng khác. Đặc biệt, nếu chia theo tính cht s hữu, thì việc x n xấu lại càng
khác nhau giữa các đối tượng. Đặc biệt, việc xn xấu với khối các doanh
nghiệp nhà nước s nan giải hơn nhiều so với các thành phần kinh tế khác.
con s n xấu của các doanh nghiệp nhà nước lên ti 200.000 t đồng, trong đó,
các n xấu của các tập đoàn kinh tế khoảng 153.000 t đồng. Nếu con s này tin
cậy được thì công cuộc x lý n xấu của h thống ngân hàng s "bội phần k
khăn" vì các doanh nghiệp này dùng vốn nhà nước, tài sản nhà nước.
Vậy, việc s dụng phương án bán tài sản đảm bảo chắc s khó kh thi, còn các
giải pháp khác như tái cấu nợ, tham gia tái cấu doanh nghiệp... s rất mất
thời gian. Chắc lúc đó, giải pháp kh thi s là bán n cho công ty mua bán n do
NHNN thành lập? Điều này lại tiếp tục phải cn trọng vì nó có th s là một con
đường thất thoát vốn của nhà nước.
X n xấu để cứu mình
Tuy nhiên, các ngân hàng cũng đang "ngồi trên đống lửa", phải hối h x lý n
xấu. Việc này có th d dàng thấy qua các hoạt động điều chuyển nhân s của
ngân hàng. Một s ngân hàng đã rất mạnh tay "trảm tướng, x quân". Thậm chí,
cán b cao cấp của ngân hàng cũng b ra tay thẳng thừng vì dính tới n xấu.
Đồng thời với đó, một s ngân hàng cũng đang tăng cường nguồn lực, điều động
c vài chụcn b t các b phận khác nhau, tuyển dụng thêm nhân s cho khối
x lý n.
"Ngân hàng là ngành đặc thù, danh tiếng rất quan trọng nên h có đang cm đầu
cắm cổ, dốc toàn lực x lý n cũng s phải c tạo ra v thong thả. Tuy nhiên, lực
của h xđược đến đâu thì phải h hồi phân giải", một chuyên gia nghiên cứu
v ngành ngân hàng đã hài hước ví von.
có lẽ, các ngân hàng cũng đang "giật mình" nhận ra những thiếu sót trong các
qui trình của mình nên nhiều ngân hàng đã siết rất chặt các điều kiện v cho vay,
cũng như siết cht mạnh mẽ, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội b liên
quan đến các vấn đề cho vay.
l việc này cũnghợp l thường tình trước. Dẫu tuyên b n xấu cao, nhưng
h thống ngân hàng vẫn liên tục thông báo có lãi. Các chi phí xn xấu (trong
đó có c các khoản trích lập d phòng rủi ro) đều được ghi nhận vào chi phí của
ngân hàng. Chính vì thế, các ngân hàng phải dùng lợi nhuận của mình ra trước để
hạch toán cho đủ s phảiđắp cho n xấu, đặc biệtcác khoản n nhóm 5.
Biện pháp cứu tr ca nhà nước ch là "cực chẳng đã" và s ch dùng đến khi các
ngân hàng đã thua lỗ.
Đồng thời, có lẽ, NHNN cũng cần các biện pháp mạnh tay hơn x lý các ngân
hàng yếu kém, lòng vòng cho vay và thm chí phải x lý hình s các hành vi gian
dối trong các hoạt động ngân hàng.