HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BÙI QUỐC HƯNG

ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRỊ QUỐC NHO GIÁO

ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2019

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

BÙI QUỐC HƯNG

ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRỊ QUỐC NHO GIÁO

ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

Mã số: 62 22 03 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS, TS Nguyễn Minh Hoàn 2. TS Phan Mạnh Toàn

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực, có

nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Bùi Quốc Hưng

1 6 6

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến tư tưởng trị quốc Nho giáo 1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

13

1.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến phương hướng, giải pháp phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

21

1.4. Khái quát kết quả các công trình đã tổng quan và những vấn đề luận án

cần tiếp tục nghiên cứu

24 28 28 34 57

78

CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG TRỊ QUỐC NHO GIÁO 2.1. Cơ sở hình thành tư tưởng trị quốc Nho giáo 2.2. Tư tưởng trị quốc của Nho giáo Trung Quốc 2.3. Tư tưởng trị quốc của Nho giáo Việt Nam CHƯƠNG 3: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRỊ QUỐC NHO GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN 3.1. Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

hiện nay

78

82

116

3.2. Thực trạng ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay 3.3. Nguyên nhân ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giao đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay CHƯƠNG 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TƯ TƯỞNG TRỊ QUỐC NHO GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 4.1. Phương hướng cơ bản 4.2. Một số giải pháp chủ yếu KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

124 124 132 149 151 152

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nho giáo là học thuyết chính trị - xã hội lớn của Trung Quốc, ra đời từ

rất sớm trong điều kiện nhà Chu đang bị suy yếu về địa vị kinh tế và vai trò

chính trị. Với chủ trương xây dựng đất nước thái bình thịnh trị theo khuôn

mẫu của vua Nghiêu, vua Thuấn, tư tưởng trị quốc là một trong những nội

dung chủ chốt của học thuyết chính trị - xã hội Nho giáo.

Nho giáo được truyền vào nước ta từ những năm đầu công nguyên

trong quá trình đô hộ của chính quyền phương Bắc. Khi mới truyền vào Việt

Nam, mặc dù lúc đầu sự thâm nhập và ảnh hưởng của nó có phần khó khăn

hơn so với các học thuyết khác như Phật giáo và Đạo giáo. Nhưng, trong quá

trình phát triển của lịch sử, nó đã từng bước chiếm ưu thế và có ảnh hưởng

sâu sắc đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội và con

người Việt Nam, góp phần vào việc hình thành các giá trị truyền thống của

dân tộc. Từ thời Lê, “Nho giáo đã thành quốc giáo” [24, tr.21] và là hệ tư

tưởng chính thống chi phối toàn bộ đời sống tinh thần, tư tưởng ở nước ta.

Lúc ấy, nó đã trở thành công cụ phục vụ đắc lực để trị nước, tổ chức nhà nước

và quản lý xã hội của các triều đại phong kiến Việt Nam.

Nho giáo bàn nhiều về vấn đề trị quốc. Tư tưởng trị quốc được ghi lại

rõ ràng, khá nhiều trong các kinh điển Nho giáo. Các di sản tư tưởng ấy

không những không xa lạ, mà còn gần gũi với văn hóa và con người Việt

Nam trong lịch sử. Nó không chỉ ảnh hưởng đến xã hội và con người Việt

Nam trong quá khứ mà cả trong giai đoạn hiện nay, dù Nho giáo không còn

giữ địa vị của hệ tư tưởng thống trị. Trong nội dung tư tưởng trị quốc của Nho

giáo, bên cạnh những giá trị và những yếu tố có tính hợp lý nhất định thì

những hạn chế có tính lịch sử của nó là điều không tránh khỏi. Vì thế, ảnh

hưởng của nó đến đời sống xã hội nói chung, đến quá trình xây dựng, hoàn

2

thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay nói riêng là

sự ảnh hưởng mang tính hai mặt mà chúng ta phải tính đến.

Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tại Hội nghị

đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng đã chính thức nêu vấn đề

“Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam”

[14, tr.56] và khẳng định, đó là “Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì

nhân dân” [14, tr.56]. Quan điểm đó ngày càng được thể hiện rõ trong các kỳ

Đại hội tiếp theo. Nhất quán tinh thần ấy, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII xác định: “Tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh; hoàn

thiện hệ thống pháp luật” [19, tr.79]. Trước thực tế diễn biến phức tạp hiện

nay, như sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ

phận không nhỏ cán bộ công chức nhà nước; tình trạng tham nhũng, lãng phí,

quan liêu ở không ít cơ quan công quyền đang là vấn đề nhức nhối thì việc

hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hướng đến một “nhà nước

liêm chính”, một “chính phủ kiến tạo” theo yêu cầu của đất nước và xu thế

thời đại là một đòi hỏi bức thiết.

Để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do

nhân dân, vì nhân dân, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng

văn minh”, đòi hỏi phải xem xét ảnh hưởng của những tư tưởng, lý thuyết

chính trị xã hội trong lịch sử, bởi chúng có ảnh hưởng cả tích cực lẫn tiêu cực

đến quá trình ấy. Trong số đó, tư tưởng trị quốc Nho giáo có ảnh hưởng sâu

đậm đến con người Việt Nam và đến xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Bên cạnh những điều có ý nghĩa tiến bộ như

quan niệm về xây dựng xã hội ổn định, có trật tự, mọi người sống có đạo đức,

có tinh thần trách nhiệm với gia đình, cộng đồng; tư tưởng lấy dân làm gốc,

chủ trương bảo đảm cho người dân có đời sống vật chất, tinh thần tương đối

3

đầy đủ; đào tạo cán bộ công chức nhà nước có phẩm chất, năng lực gắn với

nhu cầu của đất nước trong những giai đoạn lịch sử cụ thể..., nó cũng có

những ảnh hưởng tiêu cực như tư tưởng địa vị ngôi thứ, đầu óc gia trưởng

thiếu dân chủ, bệnh gia đình trị, cục bộ địa phương; tâm lý thiếu tôn trọng

pháp luật trong một bộ phận nhân dân...

Ảnh hưởng mang tính hai mặt của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với

xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay là do

nhiều nguyên nhân khác nhau. Chừng nào những nguyên nhân ấy còn thì tư

tưởng trị quốc Nho giáo sẽ còn ảnh hưởng ở những mức độ nhất định. Do đó,

việc nghiên cứu ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, từ đó tìm

ra nguyên nhân, có phương hướng và giải pháp phù hợp để phát huy ảnh

hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của nó là vấn đề mang ý nghĩa

thực tiễn rõ rệt.

Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, nghiên cứu sinh

chọn vấn đề: “Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” làm đề

tài luận án tiến sĩ, chuyên ngành triết học của mình.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của luận án:

Làm rõ nội dung chủ yếu của tư tưởng trị quốc Nho giáo; phân tích

thực trạng ảnh hưởng và nguyên nhân, đề xuất phương hướng và những giải

pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực

của nó đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt

Nam hiện nay.

Để đạt được mục tiêu trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ

chủ yếu sau:

4

- Làm rõ cơ sở hình thành, những nội dung cơ bản trong tư tưởng trị

quốc Nho giáo và sự biến đổi của nó ở Việt Nam.

- Phân tích thực trạng ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối

với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện

nay và nguyên nhân của thực trạng đó.

- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy

ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng trị quốc Nho

giáo đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta

hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc

Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam hiện nay.

Phạm vi nghiên cứu: Nho giáo và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam hiện nay là những vấn đề có nội dung rất rộng, vì thế, luận án

chỉ nghiên cứu về tư tưởng trị quốc của Nho giáo trong mối tương quan, ảnh

hưởng của nó đến việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam hiện nay. Bàn về tư tưởng trị quốc Nho giáo, luận án chủ yếu phân

tích những nội dung của nó được thể hiện trong Nho giáo sơ kỳ.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận của luận án là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa

Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt

Nam về nhà nước pháp quyền và xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Phương pháp nghiên cứu: luận án sử dụng phương pháp luận của

CNDV biện chứng và CNDV lịch sử. Ngoài ra, luận án còn sử dụng một số

phương pháp cụ thể như: phân tích - tổng hợp; quy nạp và diễn dịch; lịch sử -

lôgíc; thống kê, đối chiếu, so sánh...

5

5. Đóng góp mới của luận án

- Khái quát và trình bày một cách có hệ thống những nội dung cơ bản

trong tư tưởng trị quốc Nho giáo và du nhập, biến đổi của nó trong tiến trình

lịch sử Việt Nam.

- Phân tích ảnh hưởng có tính hai mặt của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối

với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện

nay trên một số phương diện cơ bản cùng nguyên nhân của thực trạng đó.

- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy

ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng trị quốc Nho

giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta

hiện nay.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

- Hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm các nội dung cốt lõi trong tư tưởng

trị quốc Nho giáo thông qua các tác phẩm kinh điển của học thuyết ấy, vị thế

của nó trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc và trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.

- Góp phần nhận diện rõ hơn thực trạng ảnh hưởng của tư tưởng trị

quốc Nho giáo và sự cần thiết phải phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh

hưởng tiêu cực của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu,

giảng dạy về lịch sử tư tưởng Việt Nam và cho những ai quan tâm đến các

vấn đề về Nho giáo, về nhà nước pháp quyền, nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam nói riêng.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình của tác giả, danh

mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 12 tiết.

6

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN TƯ TƯỞNG

TRỊ QUỐC NHO GIÁO

Nghiên cứu về Nho giáo có không ít công trình của các nhà khoa học

trong và ngoài nước. Trong số đó, có những công trình đã bàn về các khía

cạnh liên quan đến tư tưởng trị quốc Nho giáo.

Ngay ở Trung Quốc, nơi sản sinh ra học thuyết Nho giáo cũng đã có rất

nhiều công trình nghiên cứu khá công phu. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn

lịch sử, do điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nên những nhận định, đánh giá về Nho

giáo nói chung, tư tưởng trị quốc nói riêng cũng rất khác nhau. Có những lúc

người ta quá đề cao, nhưng có những khi người ta lại phủ định sạch trơn

những giá trị nhất định của nó. Một số công trình nghiên cứu của các nhà

khoa học Trung Quốc cũng đã được dịch ra tiếng Việt, tiêu biểu như:

Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc của Lã Trấn Vũ được ấn hành

lần đầu tiên vào năm 1936 tại Nam Kinh. Đây là công trình nghiên cứu khá

công phu, được trình bày qua 10 phần với những nguồn tư liệu khá phong

phú. Trong công trình nghiên cứu này, không chỉ đề cập đến những tư tưởng

chính trị của Nho giáo, tác giả còn phân tích tư tưởng chính trị của các học

thuyết khác, như Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia... thông qua những đại biểu tiêu

biểu của nó qua các giai đoạn lịch sử, kể từ thời kỳ cổ đại cho đến thời kỳ

chiến tranh nha phiến. Mặc dù có những nhận định cần phải suy xét thêm,

nhưng nhìn chung đây là công tình có giá trị, cung cấp nguồn tư liệu quan

trọng cho việc nghiên cứu Nho giáo nói chung, tư tưởng trị quốc của Nho

giáo nói riêng.

Tổng quan tư tưởng pháp luật Nho gia của Du Vinh Căn được công bố

vào những năm 90 của thế kỷ XX. Tác phẩm này ra đời đã gây một tiếng

7

vang lớn trong giới nghiên cứu học thuật Trung Quốc lúc bấy giờ, được đánh

giá rất cao và nhận được nhiều giải thưởng lớn tầm cỡ quốc gia. Công trình

này có những phát hiện khá mới mẻ so với những quan niệm truyền thống

trước đó khi nghiên cứu, đánh giá về học thuyết Nho giáo nói chung, tư tưởng

chính trị - xã hội của Nho giáo nói riêng. Với 9 chương của công trình nghiên

cứu này, tác giả đã trình bày khá mạch lạc, từ tư tưởng pháp luật của Khổng

Tử đến tư tưởng pháp luật của Mạnh Tử, Tuân Tử cùng những diễn biến lịch

sử của tư tưởng pháp luật Nho gia, nhằm chứng minh quan điểm tư tưởng

pháp luật Nho gia là tư tưởng pháp luật luân lý. Đồng thời, tác giả cũng khẳng

định, tư tưởng pháp luật luân lý thực sự là dòng chính của văn hóa pháp luật

cổ đại Trung Quốc và cũng là nét đặc sắc của hệ thống pháp luật Trung Hoa.

Những tư liệu được dẫn chứng và những nhận định của tác giả là tài liệu tham

khảo có giá trị cho việc nghiên cứu các nội dung của luận án.

Bên cạnh đó còn phải kể đến một số công trình tiêu biểu khác, như Bàn

về Khổng Tử của Quan Phong - Lâm Duật Thời; Bàn về tư tưởng cổ đại

Trung Quốc của Hầu Ngoại Lư - Triệu Kỉ Bân - Đỗ Quốc Tường; Nho gia với

Trung Quốc ngày nay của Vi Chính Thông… Đó cũng là những tài liệu cần

thiết, cung cấp những tư liệu quan trọng, giúp tác giả luận án có thêm những

cứ liệu vững chắc để nghiên cứu về tư tưởng trị quốc Nho giáo.

Bên cạnh đó, có không ít nhà nghiên cứu phương Tây cũng quan tâm

nghiên cứu về Nho giáo, trong đó có đề cập ít nhiều đến tư tưởng trị quốc của

học thuyết ấy. Trong tác phẩm Bàn về Trung Quốc, công trình rất nổi tiếng

của Henry Kissinger [53] có mục bàn về “Khổng Tử”. Trong mục này, Henry

Kissinger coi trọng, đánh giá cao Khổng Tử. Ông cho rằng, các giá trị chiếm

ưu thế trong xã hội Trung Quốc phát sinh từ những quy định của một triết gia

cổ xưa được thế hệ sau biết tới với cái tên Khổng Phu Tử (hoặc Khổng Tử

theo phiên âm La tinh). Kissinger khẳng định, những lời dạy của Khổng Tử

được các môn sinh ghi lại thì vẫn còn mãi mãi. Theo tác giả, Nho giáo là một

8

học thuyết bao gồm những giá trị được ghi nhận, khẳng định, đồng thời phải

suy ngẫm, coi xét cả những tư tưởng, kỳ vọng của Khổng Tử không thể trở

thành hiện thực. Về tư tưởng trị quốc của Khổng Tử, Henry Kissinger nhận

xét khái quát: “Những quan điểm của ông là các nguyên tắc cai trị (trị quốc,

quản lý quốc gia) bằng tình thương” [53, tr.32]. Kissinger viết: “Khi sự đổ

máu kết thúc và Trung Quốc một lần nữa được thống nhất, nhà Hán (206

trước công nguyên - 220 sau công nguyên) đã áp dụng tư tưởng của Khổng

Tử làm triết lý trị nước chính thức của đất nước” [53, tr.32].

Ở Việt Nam, những công trình nghiên cứu về Nho giáo, trong đó có đề

cập những vấn đề liên quan đến tư tưởng trị quốc cũng không ít. Tiêu biểu như:

Nho giáo của Trần Trọng Kim, xuất bản lần đầu năm 1932 và đến nay

đã được tái bản nhiều lần. Qua 20 thiên của cuốn sách, với mong muốn “vẽ

lấy cái bản đồ” của một ngôi nhà cổ đã hoang tàn, đổ nát, tác giả đã tái hiện

lại khá hệ thống và tương đối chi tiết quá trình hình thành và phát triển của

Nho giáo qua các giai đoạn lịch sử với những đại biểu điển hình của nó ở mỗi

thời kỳ lịch sử và sự du nhập vào Việt Nam của học thuyết ấy. Mặc dù tư

tưởng trị quốc không phải là vấn đề được đặt làm trọng tâm của cuốn sách,

song nó cũng được thể hiện thông qua việc trình bày quan niệm của các nhà

nho tiêu biểu ở mỗi giai đoạn, từ Tần - Hán đến Minh - Thanh sau này. Có thể

nói, cuốn sách cung cấp nguồn tư liệu quan trọng và cần thiết, có thể kế thừa

để phục vụ mục đích của luận án.

Trong cuốn Khổng học đăng của Phan Bội Châu [5], một bộ sách biên

khảo có giá trị, được viết theo những sự tâm đắc của tác giả đã diễn giải một

số nội dung cơ bản trong sách Luận ngữ, Đại học, Trung dung, những quan

niệm của Mạnh Tử, Tuân Tử và một số đại biểu thuộc “Khổng học viễn phái”.

Một số chỗ được tác giả giải thích và có những nhận định trên một tinh thần

khá mới, song đây là một tác phẩm ra đời ở một giai đoạn khá đặc biệt trong

cuộc đời của tác giả nên có những điều lý giải và nhận định chúng ta cần phải

9

cân nhắc thêm. Tuy vậy, đó là tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu,

giải quyết các nhiệm vụ của luận án.

Trong bộ sách Lịch sử triết học phương Đông của Nguyễn Đăng Thục

[127], ở chương 4, tập 1 của bộ sách này, tác giả bàn về 5 vấn đề lớn, trong đó

có những nội dung liên quan đến tư tưởng trị quốc của Nho giáo. Chẳng hạn,

khi bàn về thuyết chính danh của Khổng Tử, tác giả giải thích: mỗi danh có

một định nghĩa của nó, nó trỏ vào vật mà danh ấy đã áp dụng, chứ không vào

vật khác được. Nghĩa là, danh là cái bản chất của vật hay là khái niệm. Cái mà

định cho danh “quân”, “thần”, “phụ”, “tử” ở câu quân quân, thần thần, phụ

phụ, tử tử, là cái bản chất của “quân” do đấy mà là “quân”, v.v.. Hoặc khi

phân tích và so sánh quan niệm về “đạo nhân” của Nho, tác giả cho rằng: Phật

giáo và Cơ Đốc giáo chủ trương về chữ nhân có ý nghĩa bác ái bình đẳng, còn

Khổng Tử chủ trương về nhân có thứ bậc trình tự tiến hóa, và Nho giáo ngoài

chủ trương đạo nhân, thừa nhận sự thực về xã hội tiến hóa còn chú trọng vấn

đề tu sửa và dưỡng dục nhân cách con người. Mặc dù không bàn trực diện về

tư tưởng trị quốc Nho giáo, song những nội dung mà công trình này đề cập

cung cấp những tư liệu cần thiết, giúp tác giả luận án có thêm căn cứ để khái

quát về tư tưởng trị quốc Nho giáo Trung Quốc.

Trong cuốn Lịch sử triết học do Nguyễn Hữu Vui chủ biên [150], các

tác giả bàn về Khổng Tử cùng với học thuyết về chính trị và tư tưởng triết học

của Nho gia. Theo các tác giả, hoài bão chính trị trước sau của Khổng Tử là

kế thừa sự nghiệp của Văn Vương, Chu Công, lập lại kỷ cương của nhà Chu.

Để thực hiện lý tưởng chính trị của mình, Khổng Tử xây dựng nên học thuyết

Nhân - Lễ - Chính danh. Theo Khổng Tử, “Nhân” là hạt nhân, là nội dung,

“Lễ” là hình thức của “Nhân” và “Chính danh” là con đường để đạt đến điều

“Nhân”, “Chính danh” là vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con, v.v., và

là điều căn bản của việc làm chính trị, đưa xã hội từ “loạn” trở lại “trị” (an

bình). Về tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử, các tác giả cho rằng: Mạnh

10

Tử đưa ra thuyết “Nhân chính” chống lại việc dùng vũ lực thôn tính lẫn nhau

giữa các nước, đòi hỏi bọn quý tộc phải để cho nhân dân có tài sản riêng thì

họ mới yên tâm làm ăn, phải quý trọng dân. Có thể nói, cuốn sách cung cấp

những kiến thức cơ bản về một số nội dung của học thuyết Nho giáo qua các

giai đoạn phát triển của nó, giúp tác giả luận án có cái nhìn tổng quan về

những nét chính trong tư tưởng trị quốc Nho giáo.

Trong cuốn Khổng Tử của Nguyễn Hiến Lê, khi nhận định về Khổng

Tử, tác giả cho rằng: “một phát kiến của ông là thuyết chính danh” [57,

tr.130]. Theo sự giải thích của tác giả, thuyết chính danh không mới mẻ gì.

Trước Khổng Tử các sử gia đã có truyền thống chép đúng sự thực những hành

vi xấu, tốt của vua chúa và các quan lớn nhỏ và phê bình một cách công tâm

những hành vi đó… Nhưng Khổng Tử đã có công tạo ra danh từ chính danh

và lý luận, giảng giải, đặt nó thành một quy tắc… Ông bảo danh với thực phải

hợp nhau, nếu không hợp nhau thì gọi tên ra, người ta sẽ không hiểu, lý luận

sẽ không xuôi, mọi việc sẽ không thành, lễ nhạc, hình pháp không định được

mà xã hội sẽ hỗn loạn [57, tr.131,132]. Bàn về tư tưởng trị quốc của Nho

giáo, tác giả nhận xét, chính danh là bước đầu đưa tới chính sách đức trị, là

điều kiện của đức trị… Khổng Tử là người đầu tiên nói nhiều nhất đến tư

cách người cầm quyền, đến bổn phận họ phải sửa mình, phải làm gương cho

dân, phải giáo hóa dân. Ông không tách rời đạo đức và chính trị. Ông đã đạo

đức hóa chính trị và tất cả triết lý chính trị của ông gồm trong danh từ đức trị,

mà danh từ này có nghĩa là người trị dân phải có đức, phải trị dân bằng đức,

chứ không bằng bạo lực [57, tr.140,141].

Đây là công trình nghiên cứu khá cơ bản về tư tưởng của Khổng Tử -

người sáng lập Nho giáo, cung cấp một cách nhìn tổng quan về những nội

dung trong tư tưởng Khổng Tử, trong đó có những vấn đề liên quan đến tư

tưởng trị quốc Nho giáo mà tác giả luận án có thể tham khảo.

11

Trong cuốn Mạnh Tử cũng của Nguyễn Hiến Lê, tác giả tập trung luận

bàn về đời sống, hoạt động chính trị, tư tưởng chính trị, học thuyết tính thiện,

v.v. của Mạnh Tử, với tư cách là người bổ túc, hoàn thiện Nho giáo. Bàn về tư

tưởng trị quốc của Mạnh Tử, tác giả cho rằng, Mạnh Tử chủ trương “dân vi

quý”. Thượng đế sinh ra vạn vật, làm chủ vạn vật, nhưng không thể săn sóc

riêng từng vật, đặc biệt là từng người một, cho nên mới giao quyền cho vua

thay mình để trị dân. Nhưng vua cũng không thể trông nom mọi việc được,

cần có các quan giúp đỡ. Vậy vua và quân, tức hạng “cai trị người” sở dĩ có là

vì có hạng “bị cai trị” và bổn phận của họ là phải làm lợi cho hạng này, tức là

cho dân chúng [60, tr.86].

Trong cuốn Đại cương lịch sử tư tưởng Trung Quốc của Lê Văn Quán,

với 22 chương, tác giả đã khảo sát lịch sử tư tưởng Trung Quốc từ thời kỳ tiên

Tần đến thời kỳ cận đại; từ tư tưởng kinh tế đến tư tưởng chính trị, tư tưởng

triết học, tư tưởng sử học, văn học, quân sự... Cuốn sách là tài liệu tham khảo

hữu ích, cung cấp những tư liệu quan trọng mà tác giả luận án có thể tiếp thu,

phục vụ cho quá trình nghiên cứu.

Trong cuốn Các bài giảng về tư tưởng phương Đông của Trần Đình

Hượu [39], tác giả đề cập đến quan điểm chính trị đạo đức của Khổng Tử trên

một số phương diện, như: chính danh, đức trị, thượng hiền trong khuôn khổ

thân thân, ba đạt đức của người quân tử: nhân, trí, dũng... Đây là những vấn đề

liên quan đến tư tưởng trị quốc Nho giáo mà tác giả luận án có thể tham khảo,

phục vụ cho việc nghiên cứu, giải quyết các nhiệm vụ của đề tài luận án.

Trong cuốn Đức trị và pháp trị trong Nho giáo của Vũ Khiêu [43], tác

giả đã dụng công trích dẫn những nội dung trong các kinh điển của Nho giáo

bàn về vai trò của việc dùng đức để cai trị, về phẩm chất của người quân tử

cầm quyền, về tư tưởng trọng dân, trọng hiền; quan niệm về pháp luật, về

binh lực...Mặc dù không bình luận nhiều, song cuốn sách cung cấp những tư

12

liệu từ các tác phẩm kinh điển của Nho giáo, giúp tác giả tiết kiệm rất nhiều

thời gian và công sức trong việc tra cứu.

Trong bộ sách Đại cương triết học Trung Quốc gồm 2 tập của Giản Chi

- Nguyễn Hiến Lê [6], khi phân tích vấn đề “Chính trị luận” ở phần thứ năm

của tập 2, các tác giả đã khảo sát một số quan điểm cơ bản của các trường

phái triết học Trung Quốc khi bàn về quốc gia lý tưởng, về chủ trương cai trị,

về vai trò của vua và dân... Đây là những tư liệu cần thiết và quan trọng, giúp

tác giả có những căn cứ đáng tin cậy để khái quát về những nội dung trong tư

tưởng trị quốc của Nho giáo.

Trong cuốn Học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo và ảnh hưởng

của nó ở Việt Nam (Từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX) của Nguyễn Thanh

Bình [3], ở chương 1, tác giả tập trung luận giải về Nho giáo với tính cách là

một học thuyết chính trị - xã hội ở Trung Quốc cổ đại. Đề cập đến một số tư

tưởng cơ bản của Nho giáo về chính trị - xã hội, tác giả phân tích 3 nội dung:

quan điểm về con người, về xã hội lý tưởng và về đường lối trị nước. Đây là

một cách tiếp cận mà tác giả luận án có thể tham khảo, lựa chọn những yếu tố

hợp lý của nó để từ đó tìm cách tiếp cận riêng của mình.

Trong bài “Tư tưởng Nho giáo về cơ sở của sự ổn định xã hội” đăng

trên tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc của Nguyễn Minh Hoàn, tác giả có đề

cập một số vấn đề thuộc nội dung tư tưởng trị quốc của Nho giáo. Theo tác

giả, mục tiêu trị quốc của Nho giáo là “một xã hội thực sự tốt đẹp - thái bình

thịnh trị chỉ có thể là quay về thời kỳ Nghiêu - Thuấn trước kia” [34, tr.54].

Về đường lối trị quốc, quản lý, lãnh đạo quốc gia, đưa đất nước từ “loạn” trở

lại “trị”: 1) Phải chính danh, 2) Khổng Tử đòi hỏi người cầm quyền phải luôn

chú ý đến việc thực hiện lẽ công bằng và sự yên ổn cho dân, 3) Phải giúp dân

“có đủ ăn, đủ mặc và làm giàu”, phải giáo dân “không phân biệt trên dưới,

thân sơ, quý tiện, sang hèn” như chủ trương của Khổng Tử”, 4) Để tránh

chiến tranh liên miên, Mạnh Tử khuyên vua “hà tất phải nói đến lợi, chỉ cần

13

nói tới nhân nghĩa mà thôi” [34, tr.57]. 5) Quan hệ giữa vua và bề tôi, theo

Khổng Tử, “vua dùng lễ sai khiến bề tôi, bề tôi lấy hết lòng trung thờ vua”, và

theo Mạnh Tử chỉ giáo thêm, “mặc dù người cai trị có được người dưới cung

phụng, nhưng ngược lại, người cai trị cũng phải thực hiện trách nhiệm, nghĩa

vụ với những người mà mình cai trị” [34, tr.60]. Đây là một số, chứ không

phải tất cả, nội dung của tư tưởng trị quốc trong Nho giáo, được tác giả bài

viết tiếp cận để làm sáng rõ cơ sở của sự ổn định xã hội theo quan niệm, chủ

trương của Nho giáo Khổng Mạnh.

Trên đây là một số công trình nghiên cứu tiêu biểu, trong đó có sự tìm

hiểu nhiều, ít khác nhau về tư tưởng trị quốc của Nho giáo. Chúng tôi coi đây

là những tài liệu quý, có giá trị khoa học cần được tham khảo và kế thừa có

chọn lọc để giải quyết những nhiệm vụ luận án đặt ra.

1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ

ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRỊ QUỐC NHO GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC XÂY

DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Nghiên cứu về ảnh hưởng của Nho giáo đối với xã hội và con người

Việt Nam trong lịch sử cũng như trong giai đoạn hiện nay đã có không ít công

trình tiêu biểu, có giá trị. Tuy nhiên, liên quan đến vấn đề ảnh hưởng của tư

tưởng trị quốc Nho giáo đến quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa ở nước ta thì không nhiều.

Trong cuốn Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến

Cách mạng Tháng Tám của Trần Văn Giàu, ở chương ba, tác giả đề cập đến

vấn đề “Tư tưởng Nho giáo Việt Nam thế kỷ XIX”. Theo tác giả, tư tưởng

Nho giáo thế kỷ XIX ở Việt Nam bao gồm bốn vấn đề cơ bản là thiên đạo

quan, lịch sử quan, đạo đức và trị đạo. Về nội dung cơ bản của học thuyết

chính trị Nho giáo, tác giả nhận định: “Cái chính yếu nhất của Nho giáo là

đạo đức. Đạo đức Nho giáo cuối cùng là nhằm phục vụ sự trị nước: trị quốc,

bình thiên hạ là cái đích cao của sự thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia” [24,

14

tr.83]. Theo ông, vấn đề tư tưởng về đạo đức, một nội dung quan trọng trong

Nho giáo “là phương châm, phương hướng lớn của việc trị nước” [24, tr.152].

Nho giáo Trung Quốc nói chung, Nho giáo Khổng Mạnh nói riêng đã xâm

nhập Việt Nam. Nó được người Việt Nam tiếp thu và cải biến đi ít nhiều. Ở

nước ta, vì thế, đã hình thành Nho giáo Việt Nam. Tư tưởng đạo đức trong

Nho giáo đóng vai trò trị quốc, cũng như toàn bộ nội dung của Nho giáo Việt

Nam, theo tác giả còn có những ảnh hưởng tiêu cực: “Nho giáo Việt Nam rõ

ràng là lạc hậu, phức tạp, rối mù, xa lạ với khoa học, bên lề của lý trí lôgíc”

[24, tr.123]. Và tác giả cho rằng:

Nho giáo tuy không hẳn là một tôn giáo..., nhưng kỳ thực nó vẫn

phụ thuộc vào trời, vào thần, trói cột lý trí vào số, vào mệnh trời,

lúc nào cũng chực quay về xưa, càng xưa càng tốt đẹp. Một thiên

đạo quan như thế làm sao có thể giúp cho các chính khách, các nhà

đương cuộc, các bậc chí sĩ nhận định đúng thời thế, về sức địch, sức

ta và những nhiệm vụ quốc tế cần kíp? [24, tr.123-124].

Trong cuốn Nho giáo tại Việt Nam do Lê Sĩ Thắng chủ biên, tập hợp

gần 30 bài viết của các nhà nghiên cứu qua 2 cuộc hội thảo vào các năm 1973

và 1978 về đề tài “Nho giáo trong lịch sử và tàn dư của nó trong xã hội Việt

Nam”, có một số bài liên quan đến chủ đề luận án. Tiêu biểu như:

- Bài “Nhân dân Việt Nam dưới tác động của Khổng giáo” của Vũ

Khiêu. Trong công trình nghiên cứu đó, tác giả đề cập một số nội dung chính:

1) Khẳng định, ghi nhận giá trị, ảnh hưởng tích cực của Nho giáo Khổng

Mạnh; 2) Phê phán những tác động tiêu cực của Nho giáo bao hàm tư tưởng

trị quốc trong đó. Về giá trị, ảnh hưởng tích cực của Nho giáo Khổng Mạnh,

tác giả nhận xét: “Khổng giáo được du nhập vào Việt Nam và suốt hai nghìn

năm giữ địa vị của hệ tư tưởng thống trị trong thượng tầng kiến trúc phong

kiến. Khổng giáo thực tế đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong đời

sống tinh thần của nhân dân Việt Nam” [120, tr.236]. Ông cũng khẳng định

thêm về ảnh hưởng của nó trong lịch sử nước ta:

15

Từ đầu thế kỷ XV, nhất là khi Nhà nước phong kiến của Lê Lợi

thiết lập thì chế độ phong kiến Việt Nam đã đi vào giai đoạn phát

triển cao nhất. Khổng giáo đã bắt đầu chiếm địa vị độc tôn trong

thượng tầng kiến trúc phong kiến… Hệ tư tưởng Khổng giáo được

quán triệt vào nhiều chủ trương chính sách của nhà nước phong

kiến và có ảnh hưởng sâu sắc trong mọi lĩnh vực văn hóa đương

thời [120, tr.249].

Bên cạnh sự ghi nhận, đánh giá về ý nghĩa, vai trò, ảnh hưởng tích cực

của Khổng giáo ở một giai đoạn lịch sử nhất định, tác giả còn chỉ ra không ít

ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng trị quốc Nho giáo. Cụ thể là: 1) “Học

thuyết của Khổng Tử là một học thuyết bảo thủ” [120, tr.251]; 2) “Học

thuyết của Khổng Tử tập trung vào tinh thần trung quân. Thờ vua là điểm

cao nhất của đạo làm người, là yêu cầu đạo đức đầu tiên của những đại

trượng phu, của bậc đại dũng, của anh hùng” [120, tr.253]; 3) Tư tưởng

Khổng giáo là hệ tư tưởng chính thống của chế độ phong kiến phương Đông.

Đó là phương tiện tinh thần rất độc hại để nô dịch quần chúng… Khổng giáo

rõ ràng là đứng hẳn về phía giai cấp phong kiến nước ngoài, bào chữa cho sự

xâm lược của chúng, thuyết phục nhân dân ta quy thuận sự thống trị của

phương Bắc, thần phục vua chúa nước lớn, coi như vị thiên tử có uy quyền

tuyệt đối với cả thế gian này. Bọn thống trị thông qua Khổng giáo để đào tạo

những nho sĩ bản xứ, sử dụng họ làm tay sai trong bộ máy quan liêu [120,

tr.264,265]; 4) Tư tưởng khinh rẻ phụ nữ là tư tưởng nổi bật trong Khổng

giáo… Thật là một điều sỉ nhục đối với phụ nữ, khi ông (Khổng Tử) quy đạo

đức của phụ nữ vào bốn điểm Dung, Công, Ngôn, Hạnh. Đó là thứ đạo đức

biến người đàn bà thành một công cụ mua vui cho đàn ông [120, tr.269]; 5)

“Khổng giáo củng cố ở nhân dân tư tưởng về tính vĩnh cửu của chế độ

phong kiến” [120, tr.290]; 6) “Khổng giáo giam con người vào một trật tự

phong kiến chặt chẽ từ trên xuống dưới. Lễ giáo Khổng Tử quy định thứ bậc

cho các tầng lớp nhân dân” [120, tr.291].

16

- Bài “Ảnh hưởng Nho giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam” [120,

tr.385-418] của Nguyễn Đức Quỳ. Trong bài viết này, tác giả bàn tương đối

nhiều về ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của Nho giáo, trong đó có những

yếu tố của tư tưởng trị quốc. Về ảnh hưởng tích cực, tác giả cho rằng: “Khi

gặp Nho giáo với toàn bộ kiến thức và quan niệm trình bày mạch lạc, có lập

luận, có dẫn chứng cụ thể về việc thời xưa được ghi lại bằng chữ, thì những

người trí thức bị bắt buộc làm quen với Nho giáo… đã từ chỗ bị ép học, tiến

dần đến chỗ tự nguyện học và vận dụng nó vào đời sống, lấy nó làm kim chỉ

nam cho suy nghĩ và hành động [120, tr.388], và “tư tưởng Nho giáo ảnh

hưởng sâu, mạnh tới toàn bộ tư tưởng Việt Nam” [120, tr.393]. Tác giả nhận

định: “Về trị nước, Khổng Tử chỉ nói có tám chữ nhưng tổng kết được

những yêu cầu cơ bản của một bộ máy cai trị, dù thời xưa hay thời nay: “Túc

thực, túc binh, dân tín chi hỹ” [120, tr.406]. Tác giả nhận xét, theo Khổng

Tử, trong ba nhân tố là kinh tế dồi dào (“túc thực”), quân đội mạnh mẽ (“túc

binh”) và dân tin tưởng nghe theo (“dân tín”) thì nhân tố thứ ba (“dân tín”)

là quan trọng nhất. Theo tác giả, trong vấn đề trị nước, Khổng Tử xác định

được lực lượng quyết định nhất trong mọi sự nghiệp, thành bại, thịnh suy,

hưng vong đều do dân có củng cố không, có tham gia tích cực hay không?

Khổng Tử nói khi được hỏi phép trị nước: “Dân là gốc nước, gốc bền thì

nước yên”… Khổng Tử đã nói dứt khoát… không có dân thì không làm

được gì, có dân ủng hộ mạnh thì sẽ có kinh tế và quân đội. Mọi chuyện đều

từ dân mà ra [120, tr.407].

Bên cạnh đó, tác giả cũng cho rằng, tư tưởng trị quốc của Nho giáo có

nhiều ảnh hưởng tiêu cực tại Việt Nam. Đó là tính chất bảo thủ, “tuyệt đối hóa

kinh nghiệm của người xưa” [120, tr.395] trong Nho giáo. Đó là việc “Nho

giáo thường hay cực đoan hóa những khuôn phép đã định ra” [120, tr.396].

Đó là việc trong xã hội còn có giai cấp, còn có bộ máy nhà nước, thì còn có

người thống trị, người bị trị, người lãnh đạo, người bị lãnh đạo, thì đẳng cấp,

17

tôn ty theo một lối nào đó là sự cần thiết khách quan, nhưng Nho giáo đã gây

“một tinh thần tôn ty, đẳng cấp quá khắt khe trong nhân dân” [120, tr.402].

Tác giả còn khẳng định: “Theo tôi nghĩ, ảnh hưởng tinh thần cấp bậc này (của

Nho giáo) còn theo sát chúng ta cho tới bây giờ. Nhiều đồng chí kịch liệt đả

kích đạo Nho, nhưng trong hội nghị, khi lên nói gì thì cũng kính thưa đến 5, 6

bậc, chưa có thể nói gọn một câu “Thưa các đồng chí”, có lẽ sợ như thế là “vô

lễ”, “ngạo thượng” chăng?” [120, tr.403-404]. Đây là bài viết có lập luận chặt

chẽ, dẫn chứng cụ thể, nhiều điểm xác đáng, do vậy có sức thuyết phục cao, là

công trình nghiên cứu có giá trị.

- Bài “Bàn về vai trò lịch sử của Nho giáo” [120, tr.529-534] của

Nguyễn Khắc Viện. Đây là bài viết ngắn gọn về giá trị, ảnh hưởng tích cực và

tiêu cực của Nho giáo. Theo tác giả, Nho giáo bao hàm tư tưởng trị quốc, bình

thiên hạ, song: “Nho giáo vừa là công cụ của phong kiến phương Bắc dùng để

lệ thuộc các dân tộc khác, nhưng vừa là công cụ giúp các dân tộc chống lại

Trung Quốc (xâm lược họ)” [120, tr.531]. Nghĩa là, ảnh hưởng tiêu cực của

Nho giáo là nó làm công cụ cho kẻ xâm lược, nhưng ảnh hưởng tích cực của

Nho giáo là học thuyết này làm công cụ chống xâm lược.

- Trong bài “Đạo đức Nho giáo và đạo đức truyền thống Việt Nam” của

Trần Văn Giàu, khi phân tích ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo và của tư

tưởng trị quốc trong học thuyết ấy, tác giả viết:

Nho giáo tự phụ là vũ khí vạn năng để trị quốc, bình thiên hạ,

nhưng nó không cứu vãn được nhà Trần khỏi sụp đổ. Nó không

phải là yếu tố chính của cuộc chiến thắng quân Minh. Trái lại, nó là

một nguyên nhân lớn của sự mất nước Việt Nam về tay Pháp. Triều

đình Nguyễn bại vong, phong trào Cần Vương tan rã đều biểu hiện

sự thất bại hoàn toàn của Nho giáo như là hệ ý thức phong kiến…

Nho giáo tàn lụi hết sức nhanh chóng [120, tr.143].

18

Về ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng trị quốc Nho giáo, tác giả nhấn

mạnh ba yếu tố: Thứ nhất: tư tưởng đức trị, nhân trị, điều này trở ngại cho

đường lối pháp trị xã hội chủ nghĩa. Thứ nhì: chủ nghĩa gia đình, chủ nghĩa

đồng tộc, phương châm trị đạo thân thân, điều này trở ngại cho việc thực hiện

dân chủ, động viên tài năng. Thứ ba: tư tưởng trọng quan khinh dân, nó làm

nền cho thứ chủ nghĩa quan liêu, thơ lại mới [120, tr.149].

Trong cuốn sách đó còn một số bài ít nhiều có liên quan đến chủ đề

luận án, như: “Vài ý kiến về ảnh hưởng của Nho giáo với xã hội Việt Nam”

của Đào Duy Anh; “Cha ông chúng ta đã tiếp thu những gì tích cực ở các ý

thức hệ phong kiến của Trung Quốc” của Trương Chính; “Nho giáo đối với

nước và thiên hạ” của Quang Đạm; “Vị trí và vai trò của Nho giáo ở thời kỳ

cực thịnh của chế độ phong kiến Việt Nam” của Nguyễn Đức Sự; “Nho giáo

Triều Nguyễn và sự thất bại hoàn toàn của nó trước thử thách của lịch sử” của

Nguyễn Tài Thư... Mặc dù không trực tiếp bàn về tư tưởng trị quốc Nho giáo

và ảnh hưởng của nó, song đó đều là những tài liệu hữu ích, cung cấp những

cứ liệu quan trọng cho việc nghiên cứu, khái quát ảnh hưởng của tư tưởng trị

quốc Nho giáo đến xã hội Việt Nam cũng như quá trình xây dựng nhà nước

pháp quyền hiện nay.

Trong cuốn Nho giáo xưa và nay do Vũ Khiêu chủ biên (gồm hơn 20

bài viết của các tác giả), có một số bài viết liên quan đến chủ đề luận án, như:

“Hiện đại đối thoại với Nho giáo” của Bùi Đăng Duy; “Giá trị của Nho giáo

trong xã hội ta ngày nay” của Hoàng Việt; “Tư tưởng thủ cựu của Nho giáo

trước sự tấn công của chủ nghĩa đế quốc” của Trần Văn Giàu... Mặc dù các

bài viết đó không trực tiếp đề cập đến ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho

giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, bởi đó không

phải mục đích mà các tác giả hướng đến, song nó gợi mở những điều bổ ích

về mặt phương pháp luận cho tác giả luận án.

19

Trong cuốn Nho giáo xưa và nay của Quang Đạm, tác giả đã bàn đến

ảnh hưởng của Nho giáo đến xã hội Việt Nam trên nhiều phương diện. Thông

qua các chương bàn về “Đạo đức và chính trị” (Chương III), “Phạm trù: Nhà”

(Chương IV), “Nước” (Chương V), “Và thiên hạ” (Chương VI), “Ai trị ai và ai

nuôi ai?” (Chương VII), tác giả đã phân tích trên tinh thần phê phán những ảnh

hưởng, đặc biệt là ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo đến xã hội và con người

Việt Nam cũng như quá trình xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa. Từ đó, tác

giả nhận định: “Ra sức xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, ngày càng thể

hiện rõ bản chất Nhà nước của dân, do dân, vì dân,... Triết lý “sử” và “do” của

Khổng Khâu cũng như những kiểu cách phát động, đạo diễn kể trên không hợp

với hệ tư tưởng và nếp sống của chúng ta” [13, tr.332], và “Xóa bỏ tận gốc

những biểu hiện và những hậu quả ấy là cần thiết để tiến lên” [13, tr.333].

Trong cuốn Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân,

do dân, vì dân - lý luận và thực tiễn, do Nguyễn Duy Quý và Nguyễn Tất

Viễn đồng chủ biên, các tác giả có bàn đến vấn đề “Nho giáo và sự ảnh hưởng

của nó đến quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam” [110, tr.258,262]. Các tác giả quan niệm, “Nho giáo là vấn đề của quá

khứ, nhưng cũng là vấn đề quan tâm trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam bởi tác động ý thức hệ của nó” [110,

tr.258]. Yếu tố tích cực của Nho giáo được trình bày tại đây là: Lịch sử cho

thấy, ngay sau khi được chính quyền phong kiến thừa nhận làm nền tảng tư

tưởng và đường lối trị nước, Nho giáo đã phát huy được tác dụng, đóng vai

trò tích cực nhất định trong xã hội. Nho giáo đã nêu lên được một số những

nguyên lý, những nguyên tắc, một số đường lối và phương pháp có thể bảo

đảm cho xã hội một sự ổn định nhất định để phát triển [110, tr.259].

Các tác giả cũng nhận xét, ngoài giá trị, ảnh hưởng tích cực, Nho giáo

còn có nhiều dấu hiệu, biểu hiện, ảnh hưởng tiêu cực trong đời sống xã hội, cụ

thể là: Nho giáo không coi trọng mối quan hệ xã hội - mối quan hệ giữa con

người với con người; Nho giáo thủ tiêu đấu tranh vì công lý; Nho giáo không

20

đề cao cá nhân con người. Nho giáo đã đồng nhất cá nhân với cộng đồng;

Nho giáo ít đề cao tài mà thường là đề cao đức [110, tr.260-261].

Trong cuốn Đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển ở Việt Nam

của Vũ Khiêu và Thành Duy, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, các tác

giả đã phân tích những hạn chế và ảnh hưởng tiêu cực của cả tư tưởng đức

trị và pháp trị của xã hội phong kiến. Tuy Nho giáo và tư tưởng phong kiến

không đồng nhất với nhau, nhưng sự phân tích và luận giải những nội dung

của công trình này giúp tác giả hiểu thêm về ảnh hưởng của tư tưởng Nho

giáo nói chung, tư tưởng trị quốc Nho giáo nói riêng trong thời kỳ phong

kiến Việt Nam.

Trong cuốn Học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo và ảnh hưởng

của nó ở Việt Nam (Từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX) của Nguyễn Thanh

Bình [3], tác giả nhận định, Nho giáo trở thành cơ sở tư tưởng chủ yếu để

định ra và thực hiện đường lối đức trị, chế định pháp luật và hoạch định việc

giáo dục khoa cử, củng cố ngôi vua, ổn định trật tự xã hội, lựa chọn nhân tài

của các triều đại phong kiến Việt Nam. Mặc dù công trình này chỉ nghiên cứu

ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam giai đoạn thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ

XIX, song nó cung cấp những tư liệu có ích, giúp tác giả hiểu thêm về ảnh

hưởng của học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo trong thời kỳ xây dựng

và củng cố chính quyền phong kiến nước ta, từ đó có căn cứ để nhận định

những ảnh hưởng của nó trong những giai đoạn sau này trên đất nước ta.

Trong bài “Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đến hoạt động quản lý

nhà nước ở Việt Nam hiện nay” [28, tr.28-31] của Dương Thị Thúy Hằng,

đăng trên tạp chí Giáo dục lý luận, số 8-2016, tác giả cho rằng, Nho giáo có

những ảnh hưởng tích cực đến hoạt động quản lý nhà nước, đó là: 1) “Ảnh

hưởng của tư tưởng Nho giáo trong việc xây dựng một số bộ luật ở Việt Nam

hiện nay”; 2) “Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong việc xây dựng tổ chức

bộ máy hành chính”; 3) “Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong việc xây

21

dựng đội ngũ cán bộ, công chức”; 4) “Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đến

tư duy quản lý kinh tế” [28, tr.28-30]. Bên cạnh đó, theo tác giả, những hạn

chế của tư tưởng Nho giáo ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động quản lý nhà

nước là: 1) Quá đề cao lễ và đạo đức nên hạn chế tính sáng tạo, tính tự chủ

của con người; 2) “Tư tưởng chính danh đã quá đề cao danh phận, trọng danh

hơn thực và là cơ sở hình thành nên bệnh hình thức chủ nghĩa”; 3) “Việc đề

cao tôn ti trật tự trong mối quan hệ tam cương của Nho giáo: cha - con, vợ -

chồng, vua - tôi là nguyên nhân tạo nên tính gia trưởng trong cơ quan nhà

nước hiện nay”; 4) “Tư tưởng duy tình, duy nghĩa của Nho giáo để tình cao

hơn lý tạo nên sự không công bằng trong cơ quan nhà nước” [28, tr.30-31].

Trong khuôn khổ có hạn của một bài báo nên có những vấn đề hầu như mới

chỉ dừng lại ở một số nhận định bước đầu và cần có sự phân tích, luận giải

thêm với những cứ liệu vững chắc hơn.

Đó là một số công trình mà ở đó bàn đến một số nội dung liên quan đến

vấn đề ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo trong tiến trình lịch sử Việt

Nam, cung cấp thêm tài liệu để tác giả luận án có căn cứ nhận định về ảnh

hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

1.3. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN PHƯƠNG

HƯỚNG, GIẢI PHÁP PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ ẢNH

HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TƯ TƯỞNG TRỊ QUỐC NHO GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC

XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

HIỆN NAY

Trong cuốn Nho học và Nho học ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và

thực tiễn” của Nguyễn Tài Thư [132], tác giả cho rằng, ngày nay một số yếu

tố của Nho giáo vẫn có mặt ở nước ta và ảnh hưởng của nó có phạm vi rộng

khắp, từ cá nhân đến gia đình, xã hội. Khi bàn đến vấn đề “Nho học và xã hội

Việt Nam ngày nay”, tác giả khẳng định, xã hội ta không thuộc về Nho học,

không có cơ sở để phục hồi chế độ xã hội mà Nho học là nền tảng tư tưởng

22

nhưng một số yếu tố nào đó của Nho học vẫn còn có mặt ở nước ta ngày nay

nên “nó phải được đối xử như là truyền thống lớn của dân tộc”. Cuốn sách

giúp tác giả luận án hiểu thêm về phương thức ảnh hưởng của Nho giáo nói

chung, tư tưởng trị quốc Nho giáo nói riêng đối với xã hội Việt Nam hiện nay.

Trong cuốn Đến hiện đại từ truyền thống (Chương trình khoa học công

nghệ cấp nhà nước KX-07, H.1994) của Trần Đình Hượu, tác giả khẳng định,

mặc dù xã hội đã đổi thay nhưng nhiều người vẫn sống, vẫn nghĩ rất Nho mặc

dù họ lên án Nho giáo kịch liệt. Tác giả cuốn sách nhận định, “trên con đường

hiện đại hóa không chỉ là phê phán hay cải tạo, kế thừa hay phát huy mà còn

là biết lợi dụng những cái có trong thực tế không nên bỏ, chưa thể bỏ”. Theo

ông, ở Việt Nam khi đi vào hiện đại hóa “Nho giáo đang phải được chú ý ở

mặt là sức cản của xu hướng phát triển. Đồng thời, tìm những khả năng để lợi

dụng những ảnh hưởng nó đang để lại trong thực tế”. Tác giả cho rằng, tình

hình ngày nay đã đổi khác, khi các nước đang mở cửa giao lưu, hội nhập vào

thế giới, các dân tộc vươn tới những giá trị toàn nhân loại thì những lý tưởng

làm người, tu thân để đạt đến nhân nghĩa, tề gia để đạt đến cuộc sống hòa

thuận an vui… có những ý nghĩa tích cực chứ không chỉ dẫn đến trì trệ, ảo

tưởng. Tuy nhiên, ông cũng thể hiện sự lo lắng trong việc tiếp thu, kế thừa

những giá trị của Nho giáo: “đối với Việt Nam, cái Nho giáo để lại trong thực

tế - ở tình trạng đã phân giải - còn là quá nhiều - kế thừa, phát huy rất dễ gây

ra tái sinh, quay lại cái cũ”.

Trong cuốn Nho giáo và phát triển ở Việt Nam của Vũ Khiêu, ở

chương III, tác giả nêu vấn đề: Có thể rút ra bài học gì từ tư tưởng trị nước

của Nho giáo? Tác giả cuốn sách cho rằng: “Tư tưởng Đức trị và Pháp trị thời

phong kiến đều chỉ có tính chất phiến diện. Những tư tưởng ấy đều là những

biện pháp khác nhau của giai cấp phong kiến sử dụng để lừa bịp và đàn áp

nhân dân mà thôi” và khẳng định: “Trên con đường tiến hóa của nhân loại và

của các dân tộc Đông Á, sự thống nhất của đạo đức và pháp luật chỉ có thể

23

thực hiện trong một xã hội dân chủ và nhân đạo trên cơ sở lợi ích của toàn thể

nhân dân” [45, tr.129].

Trong bài “Phong tục và nếp sống của xã thôn Việt Nam dưới sự tác

động của Nho giáo” của Nguyễn Đức Sự in trong cuốn Nông thôn Việt Nam

trong lịch sử [115], qua việc phân tích sự thâm nhập của Nho giáo vào xã

thôn Việt Nam cùng những nhân tố cản trở quá trình ấy, tác giả cho rằng, dù

Nho giáo không còn tồn tại với bộ mặt đích thực của nó, nhưng những tàn dư,

dấu vết Nho giáo trong phong tục tập quán và nếp sống ở xã thôn Việt Nam

vẫn tồn tại ngoan cố và dai dẳng. Theo tác giả, để khắc phục ảnh hưởng của

những tàn dư đó, cần có sự phấn đấu kiên trì của nhân dân trong quá trình

thực hiện ba cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa

học kỹ thuật và cách mạng tư tưởng văn hóa, trong đó cách mạng khoa học kỹ

thuật là then chốt.

Trong cuốn Học thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại - Giá trị tham khảo

trong quản lý xã hội ở Việt Nam hiện nay của Đỗ Đức Minh [87], tác giả mặc

dù không bàn nhiều về tư tưởng trị quốc Nho giáo, song cũng có sự so sánh

sự khác nhau giữa quan điểm trị quốc của Nho gia với quan điểm trị quốc của

các đại biểu thuộc trường phái Pháp gia trên một số điểm cơ bản. Trên cơ sở

đó, tác giả cuốn sách cũng chỉ ra những yêu cầu, một số nguyên tắc và những

điều gợi mở trong việc tiếp thu có chọn lọc những giá trị của học thuyết pháp

trị Trung hoa cổ đại. Đó là những nội dung mà tác giả luận án có thể tham

khảo để rút ra cách tiếp cận cho việc giải quyết mục tiêu, nhiệm vụ của mình.

Trong cuốn Ảnh hưởng của Nhân - Lễ trong Nho giáo đối với đời sống

đạo đức ở Việt Nam hiện nay của Phan Mạnh Toàn [136], tác giả có đề cập

đến phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích

cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Nhân - Lễ đối với đời sống đạo đức ở

Việt Nam hiện nay. Về phương hướng, tác giả cho rằng: Học tập phương

pháp biện chứng của Hồ Chí Minh trong việc sử dụng những phạm trù Nhân -

24

Lễ của Nho giáo; Bảo đảm sự thống nhất giữa kế thừa, lọc bỏ với đổi mới,

phát triển những giá trị của Nhân - Lễ trong quá trình giáo dục đạo đức. Về

giải pháp, tác giả đề xuất: Khắc phục những mặt trái của kinh tế thị trường,

giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; Coi trọng việc kế thừa giá trị và khắc

phục ảnh hưởng tiêu cực của Nhân - Lễ trong quá trình xây dựng các mối

quan hệ trong gia đình ở nước ta hiện nay; Cải tạo các phong tục, tập quán lạc

hậu, xây dựng những tập quán mới, tạo môi trường văn hóa tinh thần lành

mạnh trong xã hội; Thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội, giáo dục ý thức

sống và làm theo pháp luật trong nhân dân. Đây là những nội dung mà tác giả

luận án có thể tham khảo để rút ra những quan điểm của mình khi đề xuất

phương hướng và giải pháp phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng

tiêu cực của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

Trong luận án tiến sĩ triết học “Ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng phong

kiến trong cán bộ lãnh đạo, quản lý và phương hướng khắc phục” của Nguyễn

Bình Yên, tác giả cho rằng phải tập trung giải quyết ba vấn đề quan trọng, đó

là: Đổi mới kinh tế gắn liền với cải biến phong tục tập quán lạc hậu; Dân chủ

hóa trong toàn xã hội đi đôi với dân chủ hóa trong sinh hoạt Đảng; Tiếp tục

đổi mới công tác cán bộ. Mặc dù tư tưởng trị quốc Nho giáo không đồng nhất

với tư tưởng phong kiến, song dấu ấn của Nho giáo nói chung, tư tưởng trị

quốc Nho giáo nói riêng trong tư tưởng phong kiến nước ta là không thể phủ

nhận. Vì vậy, những quan điểm và nhận định của tác giả, những phương

hướng mà tác giả đề xuất là những nội dung mà tác giả luận án có thể tham

khảo cho việc giải quyết nhiệm vụ của mình.

1.4. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ TỔNG QUAN VÀ

NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

Trên đây là những công trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan một cách

trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài luận án. Ngoài ra còn rất nhiều tài liệu khác

mà trong khuôn khổ có hạn, tác giả luận án không có điều kiện phân tích hết.

25

Về những công trình nghiên cứu liên quan đến tư tưởng trị quốc Nho

giáo, các tác giả trong và ngoài nước đã nghiên cứu ở nhiều phương diện với

những cách tiếp cận khá đa dạng. Có những công trình nghiên cứu các vấn đề

liên quan đến tư tưởng trị quốc thể hiện qua những đại biểu cụ thể, riêng biệt,

như: Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử...; hoặc theo các giai đoạn nhất định

trong tiến trình phát triển của Nho giáo, như: Nho giáo sơ kỳ, Hán Nho, Tống

Nho... Mỗi cách tiếp cận đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định của

nó. Trong luận án, tác giả lựa chọn cách tiếp cận của riêng mình, đó là theo

chiều dọc của vấn đề. Nội dung của tư tưởng trị quốc Nho giáo được tác giả

luận án xem xét trên ba lát cắt chủ đạo: Mục tiêu trị quốc, đường lối trị quốc

và chủ thể trị quốc.

Về những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề ảnh hưởng của tư

tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng có những quan niệm và đánh

giá khá đa chiều từ những góc độ khác nhau. Nhiều công trình xuất phát từ

việc nghiên cứu ảnh hưởng của Nho giáo trong lịch sử phong kiến Việt Nam

để nhận định về những ảnh hưởng của nó trong xã hội Việt Nam hiện nay trên

một số phương diện, trong đó có vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền. Nhìn

chung, các công trình đều khẳng định ảnh hưởng có tính hai mặt của Nho giáo

nói chung, tư tưởng trị quốc nói riêng đến xã hội và con người Việt Nam hiện

nay. Tuy nhiên, số lượng những công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến

vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền chưa nhiều và chưa hệ thống. Kế thừa

những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, tác giả luận án tập

trung phân tích ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của tư tưởng trị quốc Nho giáo

đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện

nay trên một số phương diện chủ yếu, đồng thời luận giải những nguyên nhân

của hiện trạng đó.

26

Về những công trình nghiên cứu liên quan đến phương hướng, giải

pháp phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng

trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam hiện nay, có công trình xuất phát từ việc nhấn mạnh các giá

trị của Nho giáo nên đề cao việc kế thừa, phát huy những ảnh hưởng tích cực

của nó; có nhà nghiên cứu xuất phát từ việc chỉ ra những hạn chế, lạc hậu của

học thuyết này nên nhấn mạnh việc lọc bỏ hạn chế, khắc phục ảnh hưởng tiêu

cực của nó đối với tiến trình xây dựng đất nước và con người Việt Nam. Tác

giả luận án quan niệm, tư tưởng trị quốc Nho giáo vừa có giá trị nhất định

song cũng mang không ít hạn chế nên sẽ có ảnh hưởng cả tích cực lẫn tiêu

cực. Vì vậy, phải tính đến tác động hai mặt của nó trong việc đề xuất phương

hướng và giải pháp để có thể phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh

hưởng tiêu cực của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Tóm lại, với những tài liệu đã được tổng quan ở trên cho thấy, do

nhiệm vụ, mục tiêu và cách tiếp cận khác nhau, nên các nhà nghiên cứu đã có

sự quan tâm tìm hiểu những nội dung khác nhau trong học thuyết Nho giáo

nói chung, tư tưởng trị quốc trong học thuyết đó nói riêng, nhưng chưa có

công trình nào tập trung bàn luận có hệ thống và chuyên sâu về ảnh hưởng

của tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, đó là những công trình

nghiên cứu có giá trị của các nhà khoa học đi trước, giúp tác giả luận án có

thêm những tư liệu, những cơ sở khoa học để tiếp tục đi sâu nghiên cứu

những nội dung thuộc chủ đề luận án của mình. Trên cơ sở kế thừa những yếu

tố hợp lý trong các công trình của những nhà khoa học đi trước, luận án tập

trung đi sâu nghiên cứu và giải quyết những vấn đề sau:

Một là, khái quát một cách có hệ thống về cơ sở hình thành, nội dung chủ

yếu trong tư tưởng trị quốc của Nho giáo Trung Quốc; sự du nhập và biến đổi

nội dung của nó trong Nho giáo Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử tiêu biểu.

27

Hai là, phân tích ảnh hưởng mang tính hai mặt của tư tưởng trị quốc

Nho giáo đến việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt

Nam hiện nay cùng những nguyên nhân của thực trạng đó.

Ba là, đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm phát

huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng trị quốc

Nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở

nước ta hiện nay.

Tác giả luận án hy vọng, với việc tiếp tục đi sâu nghiên cứu, luận giải

những vấn đề trên, luận án sẽ góp thêm một cách tiếp cận và có thêm những

đóng góp mới về một khoảng trống trong nghiên cứu về Nho giáo và ảnh

hưởng của nó trong xã hội Việt Nam hiện nay.

28

CHƯƠNG 2

TƯ TƯỞNG TRỊ QUỐC NHO GIÁO

2.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRỊ QUỐC NHO GIÁO

2.1.1. Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội

Bất kể tư tưởng, học thuyết nào cũng được hình thành trong một hoàn

cảnh, điều kiện lịch sử nhất định. Hoàn cảnh, điều kiện lịch sử nào sẽ cho ra

đời tư tưởng học thuyết tương ứng. Nho giáo nói chung, tư tưởng trị quốc

Nho giáo nói riêng cũng là sản phẩm tất yếu của lịch sử Trung Hoa thời Xuân

Thu - Chiến quốc.

Về kinh tế, đồ sắt thời kỳ này được sử dụng phổ biến, nghề luyện sắt,

chế tạo công cụ lao động bằng sắt phát triển. Cùng với việc chế tạo và sử

dụng công cụ lao động bằng sắt, người Trung Quốc thời kỳ này còn biết sử

dụng sức kéo của súc vật, biết dùng súc vật làm công cụ lao động trong sản

xuất nông nghiệp. Mặt khác, họ còn chú trọng làm thủy lợi phục vụ cho cấy

trồng, sản xuất ra của cải vật chất.

Với sự xuất hiện và sử dụng phổ biến công cụ lao động bằng sắt đã góp

phần làm cho sản xuất nông nghiệp phát triển, đồng thời cũng thúc đẩy sự

phát triển của các ngành kinh tế khác, như thủ công nghiệp và thương nghiệp.

Nhiều thành thị buôn bán khá sầm uất đã lần lượt ra đời như Hàm Dương,

Hàm Đan, Lâm Tri... Hoạt động thương nghiệp, buôn bán trong thời Xuân

Thu - Chiến quốc phát triển đã dẫn đến sự ra đời đội ngũ nhà buôn lớn có

nhiều tiền. Tiền tệ đã làm xuất hiện nạn cho vay nặng lãi, trao đổi hàng hóa,

trả công lao động bằng tiền, nộp thuế bằng tiền.

Sản xuất phát triển đã dẫn đến những biến đổi to lớn trong các quan hệ

xã hội, giai cấp. Thời Tây Chu, đất đai dưới gầm trời Trung Quốc, đâu đâu

cũng là đất của thiên tử nhà Chu. Nhưng do sản xuất kinh tế phát triển, nhiều

thế lực xã hội giàu mạnh lên, không hoàn toàn chịu sự ban cấp đất đai của vua

thiên tử như trước nữa. Họ đã chiếm dụng đất đai của thiên tử cho riêng mình,

29

đồng thời thôn tính lẫn nhau để giành đất, giành dân. Không chỉ các chư hầu

thôn tính lẫn nhau mà có những vua chư hầu thế lực suy yếu dần, các đại phu

có thế lực nổi lên tranh giành, tiếm quyền, chiếm đất, biến thành đất đai riêng

của họ.

Chế độ đất đai trong xã hội cũng có sự thay đổi lớn do nền sản xuất,

kinh tế phát triển. Trước đây, toàn bộ ruộng đất là của vua, vua ban cho bề tôi

tùy theo công lao, chức tước. Nay, nhiều người trở nên giàu có do sản xuất,

buôn bán, cho vay lấy lãi nên có điều kiện mua đất đai làm tài sản sở hữu

riêng. Trước đây trong xã hội có chế độ tỉnh điền. Tức là ruộng đất được chia

cắt ra giống như chữ “tỉnh” gồm hai nét ngang, một nét phẩy và một nét sổ,

được chia ra thành 9 phần, thì 8 phần xấu xung quanh chia cấp cho thường

dân, phần thứ 9 ở giữa tốt đẹp nhất dân phải cấy trồng, thu hoạch rồi cống nộp

cho các quan chức trong xã hội, gọi là cho việc công. Chế độ tỉnh điền thời kỳ

này đang đi đến chỗ tan rã hoàn toàn. Lúc này ruộng đất ngày một vào tay

những địa chủ lớn, tiền của nhiều, nông dân càng lúc càng mất dần ruộng đất,

có người không còn thước đất cắm dùi.

Xã hội Trung Quốc cổ đại thời Xuân Thu, Chiến quốc đã có sự phân

hóa rõ và trở nên đối cực. Trước đây cùng là hạng người dân lao động, vai trò

vị trí ngang bằng nhau, thì bây giờ số đông dân chúng trở nên cùng đinh;

nhiều người có sự thay đổi cực lớn và nhanh, họ thành những đại địa chủ, do

thông thạo, khéo mua bán đất và trao đổi hàng hóa, họ còn là những thương

nhân thật sự, làm thành tầng lớp địa chủ kiêm thương nhân trong xã hội. Số

đông dân nghèo không có ruộng đất phải lĩnh canh đất của địa chủ để cấy

trồng, phải phụ thuộc vào giai cấp, tầng lớp địa chủ kiêm thương nhân ấy. Sản

xuất, kinh tế phát triển, hàng hóa nhiều lên là tiền đề dẫn đến lưu thông hàng

hóa phát triển, do đó, xuất hiện tầng lớp những nhà buôn lớn trong xã hội:

“Cuối thời Chiến quốc, nhà buôn kiêm địa chủ nổi tiếng nhất là Lã Bất Vi ở

nước Triệu, một người đã bỏ ra một nghìn cây vàng để buôn vua, và về sau

trở thành thừa tướng của nước Tần” [100, tr.144].

30

Thời kỳ Xuân Thu, Chiến quốc, giai cấp nô lệ ở Trung Quốc cũng ít

nhiều thay đổi. Nô lệ phạm tội hoặc phá sản phải bán vợ con, hoặc bản thân

mình làm nô lệ. Nô lệ vẫn bị áp bức, bóc lột, bị đánh đập tàn nhẫn như trước,

nhưng hiện tượng chôn sống nô lệ theo chủ chết vào thời này bị cho là phi lý

nên đã giảm đi nhiều, giá nô lệ cũng đắt hơn thời trước.

Về chính trị, xã hội, thời Xuân Thu - Chiến quốc trên đất nước Trung

Quốc cổ đại cũng có nhiều biến cố, sự kiện trọng đại. Nhà Chu trong khoảng

4 thế kỷ, từ thế kỷ XI trước công nguyên đến năm 771 trước công nguyên

đóng đô ở phía Tây là thời kỳ cường thịnh. Đến thời Đông Chu thì ngày càng

suy yếu. Ngược lại, một số nước chư hầu của nhà Chu trước đây vốn nhỏ yếu

buộc phải thần phục, triều cống nhà Chu, thì nay ngày một lớn mạnh, họ tiến

hành chiến tranh nhằm giành quyền làm bá chủ.

Lịch sử có sự diễn tiến theo quy luật của nó. Nước Tần trước đây đến

đầu thời Chiến quốc còn là nước tương đối lạc hậu. Nhưng vua Tần với chủ

trương tăng cường trật tự trị an, khuyến khích sản xuất nông nghiệp, làm cho

quốc gia ngày một cường thịnh, phát triển. Thêm nữa, ông khuyến khích

quân, tướng lập công. Bất cứ ai chém lấy được một đầu giặc thì đều được

thưởng tước một cấp, được cấp lương bổng. Ông cho quan, tướng được nô lệ,

được hưởng nhiều hay ít, cao hay thấp, mặc quần áo sang, đẹp như thế nào

đều dựa vào chức tước. Nhờ thưởng phạt rõ ràng mà pháp lệnh của vua được

thi hành nghiêm minh. Nước Chu ngày càng nhỏ bé và đến giữa thế kỷ III

trước công nguyên, cùng với nhiều nước nhược tiểu khác như Hàn, Triệu,

Ngụy, Sở, Yên, Tề đều bị nước Tần hùng mạnh tiêu diệt. Đến năm 221 trước

công nguyên, nước Tần hùng mạnh đã thống nhất Trung Quốc, kết thúc một

thời đại hỗn loạn.

Có thể nói, từ thế kỷ XI đến thế kỷ VIII trước công nguyên, xã hội Trung

Quốc cổ đại còn tương đối ổn định. Nhưng các nước chư hầu ngày một phát

triển mạnh vì thế, đến thời Xuân Thu, từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ V trước

31

công nguyên đã có biểu hiện, hành động chống lại nước lớn, quyền hành của vị

vua nước lớn được mệnh danh là thiên tử, trong xã hội có nhiều hoạt động

tranh giành, chém giết nhau để đoạt được ngôi vị, bổng lộc. Những hiện tượng

như bề tôi giết vua, con giết cha, em giết anh thường xuyên xảy ra. Đây là thời

kỳ trật tự xã hội có nhiều biến đổi, đảo lộn, đạo đức xuống cấp nghiêm trọng,

các quy chế của xã hội thời Tây Chu bị phá hoại. Đời sống của nhân dân trong

một đất nước bất ổn định về chính trị, xã hội và đạo đức như thế, đã trở nên vô

cùng cực khổ. Các nhà nghiên cứu sử học đã nhận định: “Chính hoàn cảnh lịch

sử xã hội ấy đã sản sinh ra những nhà tư tưởng muốn làm thay đổi tình hình,

trong đó tiêu biểu nhất là Lão Tử và Khổng Tử” [100, tr.147].

Tóm lại, những biến đổi sâu sắc về kinh tế, chính trị, xã hội thời kỳ này

cho thấy, trật tự xã hội được tổ chức theo mô hình thể chế nhà Chu đã lỗi thời,

mất sức sống, không thích ứng nổi trước những diễn biến phức tạp của lịch

sử. Trước thực tế đó, nhiều trào lưu tư tưởng đương thời hướng đến việc lý

giải nguyên nhân trật tự xã hội rối loạn, từ đó tìm kiếm mô hình xã hội lý

tưởng và con đường ổn định trật tự xã hội đương thời. Tư tưởng trị quốc Nho

giáo ra đời trong bối cảnh lịch sử đầy biến động đó.

2.1.2. Những tiền đề văn hóa, tư tưởng

Không một học thuyết nào ra đời từ hư vô mà bao giờ cũng mang tính

kế thừa trong sự hình thành, phát triển. Nho giáo nói chung, tư tưởng trị quốc

Nho giáo nói riêng cũng không ngoại lệ.

Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc, thể loại văn học phát triển sớm

nhất thời cổ đại là thơ ca. Tác giả của nó là những người dân lao động. Lao

động làm nảy sinh văn học nghệ thuật. Tác giả của loại hình văn học này còn

là những người có học trong giai cấp thống trị. Vua chúa và vua các nước chư

hầu là người chú trọng hoạt động văn học nghệ thuật, thường sai các vị quan

phụ trách về âm nhạc của triều đình sưu tầm thơ ca từ các địa phương trong

nước về phổ nhạc, Vì thế, từ đầu thời Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu, thơ

ca dân gian Trung Quốc cổ đại đã được sưu tập lại thành một tác phẩm gọi là

32

Thi. Người Trung Hoa rất tự hào về tác phẩm văn học dân gian ấy. Trên cơ sở

tác phẩm văn học dân gian đó, Khổng Tử đã chỉnh lý lại, san định làm thành

Kinh thi - một trong những bộ kinh điển quan trọng của Nho giáo. Về vấn đề

này, kết quả nghiên cứu của Bửu Cầm đã làm rõ. Theo ông, “những bài ca

dao trong Kinh thi đã được các nhà cầm quyền ở Trung Quốc sưu tầm trước

đời Khổng Tử. Nguyên nhan đề sách ấy là Thi chứ không phải là Kinh; người

sau thêm vào chữ Kinh là vì cho rằng sách đó đã được Khổng Tử san định”

[140, tr.18]. Bửu Cầm dẫn lời của Tư Mã Thiên trong Sử ký: “Khổng Tử đã

đem ba trăm lẻ năm thiên trong Kinh thi ra mà đàn ca”, và ông khẳng định:

“Thế là Khổng Tử đã từng nghiên cứu âm nhạc và đem thi ca phổ thành nhạc

khúc. Việc Khổng Tử san định Kinh thi cũng có thấy chép trong thiên “Khổng

Tử thế gia” sách Sử ký” [140, tr.18]. Kinh thi là tác phẩm văn học nghệ thuật

vĩ đại, thể hiện, chuyển tải nhiều nội dung tư tưởng lớn, quan trọng của Nho

giáo. Trong đó bao hàm không ít quan niệm, tư tưởng tích cực, tiến bộ phản

đối chủ trương, hành động trung quân một cách mù quáng như: chôn sống

người hiền tài theo vua lúc vua chết để hầu hạ vua tại cõi âm. Chẳng hạn, bài

ca dao được Khổng Tử san định, phổ nhạc nói về vua “Tần Mục công chết, ba

người con họ Tử Xa bị chôn sống theo đều là người hiền tài của nước Tần”

[140, tr.481]; phê phán kịch liệt một vị vua nước Tề lấy cớ đến thông dâm với

“phu nhân của Lỗ Hoàn công” [140, tr.379].

Bên cạnh đó, sự ra đời của Nho giáo nói chung, tư tưởng trị quốc Nho

giáo nói riêng còn trên cơ sở kế thừa những tư tưởng về chính trị, đạo đức, tôn

giáo trong lịch sử tư tưởng trước đó, nhất là những tư tưởng này ở thời Chu.

Dưới triều đại Ân Thương và Tây Chu, thế giới quan duy tâm, tôn giáo

chiếm địa vị chi phối trong đời sống tinh thần của xã hội. Cũng giống như

nhiều dân tộc khác thời cổ đại, họ xem trời như một lực lượng tối cao, có ý

chí, có quyền lực vô biên. Họ quan niệm sự sinh thành, biến hóa của mọi sự

vật hiện tượng trong đời sống cũng như cuộc đời con người đều do ý chí của

Thượng đế, do thiên mệnh, quỉ thần chi phối. Mọi hiện tượng tự nhiên như

33

mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt hay ngược lại, cho đến những hiện

tượng xã hội như triều đại thịnh suy, bệnh dịch tai ương, thọ yểu, giàu

nghèo... đều phụ thuộc vào Thượng đế anh minh, quỉ thần vi diệu. Họ còn tin

người ta có thể thông đạt cùng thượng đế và quỉ thần bằng những lễ nghi cúng

tế, bói toán. Sự mê tín tôn giáo có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội và giai

cấp quí tộc đương thời đã lợi dụng nó để phục vụ cho những mục tiêu chính

trị. Những tư liệu lịch sử cho thấy, ở thời Chu, quan niệm kính trời, thờ

thượng đế, thờ thần tổ tiên đã tồn tại. Bên cạnh đó, tư tưởng về “mệnh trời”,

hợp mệnh trời cũng đã xuất hiện và các nhà tư tưởng trong giới quí tộc nhà

Chu đã dùng nó để biện minh cho tính hợp lý trong sự thống trị của mình. Họ

khẳng định, vì nhà Chu được nhận mệnh trời mà được hưởng nước hưởng dân

từ nhà Ân. Do đó, kẻ nào dám chống mệnh trời ấy thì vua nhà Chu được

quyền thay trời mà chinh phạt. Đọc trong Kinh Thư chúng ta sẽ thấy những tư

tưởng về nhận dân, hưởng dân, trị dân đã được phủ lên những quan niệm duy

tâm tôn giáo thần bí.

Tuy nhiên, bên cạnh những tư tưởng duy tâm, thần bí cũng đã xuất hiện

những quan niệm thể hiện yếu tố tiến bộ, duy vật, vô thần. Trước những biến

đổi của thực tiễn, sự khủng hoảng trong đời sống xã hội đã làm nảy sinh sự

nghi ngờ về vai trò của Thượng đế, của mệnh trời. Từ chỗ tin vào Thượng đế

như một lực lượng tối cao, có nhân cách, được tin tưởng và sùng kính, người ta

hoài nghi, oán giận. Từ sự hoài nghi, oán giận Thượng đế, người ta đi đến kết

tội, lên án sự xấu xa, bạo ngược của những kẻ được nhận mệnh trời để trị nước

trị dân, đồng thời khẳng định vai trò quan trọng của dân trong đời sống chính

trị xã hội. Trong Kinh Thư có nhiều chỗ nói lên điều đó, như: “dân muốn gì

trời cũng phải theo”, “trời nhìn tự dân ta nhìn”, “trời nghe tự dân ta nghe”...

Nho giáo nói chung, tư tưởng trị quốc Nho giáo nói riêng ra đời trên cơ

sở tiếp thu những tư tưởng về đạo đức, chính trị, tôn giáo đã có trước nó để

giải đáp những vấn đề mà thực tiễn xã hội đang đặt ra. Mặt khác, sau khi ra

đời, Nho giáo có quá trình tồn tại và phát triển qua các giai đoạn lịch sử khác

34

nhau và gắn với chế độ xã hội phong kiến đang trong quá trình hình thành,

phát triển. Vì thế, nội dung của học thuyết ấy cũng có sự đổi thay, bổ sung,

thêm bớt trong mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể.

2.2. TƯ TƯỞNG TRỊ QUỐC CỦA NHO GIÁO TRUNG QUỐC

2.2.1. Quan niệm của Nho giáo về “gia”, “quốc” và “trị quốc”

Trong các kinh điển Nho giáo, mặc dù nó bàn nhiều về việc trị quốc

nhưng không thấy một định nghĩa cụ thể nào về “quốc” (nước). Các nhà sáng

lập Nho giáo có bàn về qui mô lớn nhỏ của nước, như “nước có ngàn cỗ xe”,

“nước có sáu, bảy chục dặm”... nhưng ý niệm về nước chưa thực sự rõ ràng.

Đôi khi, khái niệm đó còn được dùng thay thế bằng những khái niệm khác

tương tự, như khái niệm “bang”... Tuy nhiên, qua sự so sánh về mối tương

quan giữa nước với nhà và thiên hạ trong các kinh truyện Nho giáo, có thể

hiểu trong quan niệm của các nhà nho, gia (nhà), quốc (nước) và thiên hạ là

những loại hình đồng dạng, giống nhau về bản thể và tính chất, chỉ khác về

phạm vi và qui mô lớn nhỏ. Nước là sự mở rộng qui mô của nhà, thiên hạ là

sự mở rộng về qui mô của nước. Điều đó đã được Mạnh Tử khái quát: Thiên

hạ gốc ở nước, nước gốc ở nhà (Thiên hạ chi bản tại quốc, quốc chi bản tại

gia) [trích theo Mạnh Tử, Ly lâu, thượng]. Do đó, muốn bình thiên hạ phải trị

được quốc, muốn trị được quốc trước hết phải yên được nhà. Điều này được

Phan Bội Châu phân tích và giải thích khá rõ trong Khổng học đăng: “Nhà tức

là cái nước nhỏ, nước tức là cái nhà to”, và “tề, trị chỉ có một lẽ, “gia”, “quốc”

chung nhau một gốc” [13, tr.171].

Nho giáo bàn về nước nhưng không bàn từ góc độ sản xuất vật chất

mà chủ yếu bàn từ góc độ chính trị, đứng trên phương diện đạo đức, chính

trị để nhìn nhận, phán xét. Vì thế, về thực chất, nó chủ yếu quan tâm đến vấn

đề trị quốc, cố gắng đi tìm con đường, cách thức cai trị đất nước và đào tạo

chủ thể làm nhiệm vụ đó nhằm hướng đến mục tiêu là xây dựng một mô

hình xã hội lý tưởng. Điều đó được thể hiện khá rõ trong ba cương lĩnh và

35

bát điều mục của sách Đại học, một tác phẩm quan trọng cấu thành bộ Tứ

thư của Nho giáo.

Ba cương lĩnh đó là, thứ nhất, “Minh minh đức”, tức là “phát huy đức

sáng, tính tốt, tính thiện của nhân dân, yêu cầu giai cấp thống trị phát huy

quan niệm đạo đức, luân lý truyền thống Nho gia để duy trì trật tự xã hội” [37,

tr.13]. Thứ hai là “Tân dân”, tức là “đổi mới lòng dân, đổi mới cách suy nghĩ

của dân, bỏ cũ thay mới, bỏ ác theo thiện, yêu cầu mọi người thực hiện đạo

đức của Nho gia” [37, tr.13]. Thứ ba, thực hiện “Chỉ ư chí thiện”, tức là “đạt

đến đạo đức hoàn thiện nhất”. Vì, theo Nho gia, “chỉ khi nào việc tu dưỡng

đạo đức của con người đạt đến mức độ hoàn thiện nhất, thì nước mới được

hưng thịnh, phát đạt, không còn tiềm ẩn nguy cơ bị diệt vong” [37, tr.13-14].

Bát điều mục là tám bước phải thực hiện, cụ thể: Một là “cách vật”,

nghĩa là phải nghiên cứu thấu đáo sự vật. Hai là “trí tri”, nghĩa là hiểu biết phải

sâu sắc, có kiến thức rõ ràng. Ba là “thành ý”, tức là ý nghĩ thành thật với chính

bản thân mình. Bốn là phải “chính tâm” giữ cho lòng dạ ngay thẳng. Năm là

phải “tu thân”, sửa chữa mình trở thành người tốt. Sáu là phải “tề gia”, tức là

chỉnh đốn, sắp xếp tốt việc nhà. Bảy là “trị quốc”, tức là làm cho đất nước yên

ổn. Tám là “bình thiên hạ”, tức là làm cho thiên hạ thái bình [37, tr.13-14].

Những chi tiết, quan niệm, chủ trương kể trên của Nho giáo, chứng tỏ

học thuyết này dùng khái niệm “gia” với nghĩa là nhà, khái niệm “quốc” với

nghĩa là một nước dưới gầm trời, tức là một nước trong “thiên hạ”; “thiên hạ”

là dưới gầm trời, gồm nhiều nước; “quốc”, chỉ là một phần trong “thiên hạ”,

chứ không phải là toàn bộ “thiên hạ”. Theo Nho giáo, muốn bình thiên hạ, tức

là làm cho thiên hạ thái bình thì trước hết phải trị được nước mình (trị quốc).

“Trị quốc”, theo Nho giáo, là làm cho đất nước yên ổn, an bình. Đấy là quan

niệm, đồng thời là chủ trương của Nho giáo. Muốn trị quốc được thì trước đó

phải tề gia, tức là sửa sang, chỉnh đốn việc nhà. Nho giáo lý giải tiếp: muốn tề

gia thì phải tu thân, tức là sửa mình thành người tốt.

36

Khổng Tử còn bàn kỹ về trị quốc. Theo ông, trị quốc là hoạt động tổng

hợp gồm nhiều hoạt động theo những khuôn mẫu của đạo Nho. Khi Nhan

Uyên hỏi thầy về đạo trị nước, Khổng Tử giảng giải: “Dùng lịch pháp của nhà

Hạ, ngồi xe nhà Ân, đôi mũ miện của nhà Chu, âm nhạc thì theo nhạc Thiều

Vũ. Cấm triệt để âm nhạc của nước Trịnh, xa lánh kẻ tiểu nhân nịnh hót; vì

âm nhạc của nước Trịnh dâm dật, kẻ tiểu nhân rất nguy hiểm” [37, tr.437].

Theo Khổng Tử năm vấn đề trên đây, đó là (về lịch pháp, về giao thông, về lễ

nhạc và phép trị nước, về văn hóa lối sống, về con người) có ý nghĩa rất lớn

đến sự hưng thịnh hoặc suy vong của một quốc gia. Và, một quốc gia có ổn

định hay không, chính quyền được củng cố hay không, mấu chốt là ở chỗ

dùng người. Nếu dùng người tài đức, ngay thẳng thì nước hưng thịnh, dùng kẻ

tiểu nhân mưu mô quỷ kế thì đất nước sẽ lâm nguy.

Về nhân tố, vai trò của con người trong việc trị quốc, Mạnh Tử đã

nhiều lần nhấn mạnh, phát triển quan điểm, chủ trương của Khổng Tử. Mạnh

Tử nói, trong công việc trị quốc, “người hiền tài được tôn trọng, người tài giỏi

được sử dụng, người kiệt xuất được ở vị trí xứng đáng thì mọi nhân sĩ trong

thiên hạ đều thỏa mãn, phục vụ triều đình hết lòng” [37, tr.599]. Trong việc trị

quốc, Mạnh Tử rất coi trọng vấn đề đạo đức. Ông nói “lấy nhân nghĩa mà đối

đãi với nhau”, làm được như vậy thì quốc gia sẽ hưng thịnh [37, tr.757].

Công việc trị quốc, theo Nho giáo, không chỉ chú trọng vấn đề đạo đức

và các công việc nói trên, mà còn phải quan tâm thực thi cả pháp luật. Thầy

trò Khổng Tử chủ trương làm theo lời chỉ giáo trong Kinh Thi và được dẫn lại

trong Đại học như sau: “nếu được lòng dân là được nước, mất lòng dân là mất

nước”, nếu “để sơ suất một phân ly, không noi theo khuôn phép, tất sẽ bị nhân

dân loại bỏ ngay” [37, tr.32]. Theo đây thì khuôn phép, tức là pháp luật cần

được thực hiện đúng để không mất lòng dân trong hoạt động trị quốc, không

chú trọng khuôn phép, luật pháp, sẽ mất lòng dân, vì thế, tất yếu sẽ mất nước.

37

2.2.2. Mục tiêu trị quốc trong quan niệm của Nho giáo

Xuất phát từ thực tiễn xã hội rối loạn “vua không ra vua, tôi không ra

tôi, cha không ra cha, con không ra con” của thời Xuân Thu - Chiến Quốc,

như Khổng Tử đã từng than: “Cô bất cô, cô tai! Cô tai!” (Cái bình cũng không

còn ra cái bình!). Vì vậy, cũng giống như nhiều học thuyết đương thời, mục

tiêu cao nhất của Nho giáo nói chung, tư tưởng trị quốc Nho giáo nói riêng là

nhằm tìm kiếm mô hình xã hội lý tưởng để thay thế cục diện đương thời.

Nghĩa là, mục tiêu trị quốc của Nho giáo thể hiện tập trung qua quan niệm về

mô hình xã hội lý tưởng. Trong quan niệm của các nhà sáng lập đạo Nho, mô

hình xã hội lý tưởng với tư cách là mục tiêu trị quốc của Nho giáo mang

những nét đặc trưng cơ bản sau:

Một là, xã hội ổn định, có trật tự tôn ti theo đúng chuẩn mực của từng

mối quan hệ.

Xuất phát từ quan niệm cuộc đời vô cùng hỗn độn, không “chênh bên

này” thì “lệch bên kia”, nên Nho giáo hướng đến việc lập lại kỷ cương, củng

cố trật tự xã hội, làm cho “vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con”. Mặt

khác, các nhà sáng lập Nho giáo muốn xây dựng nước giống mô hình của nhà,

tạo lập các mối quan hệ xã hội tương tự các mối quan hệ gia đình với những

tôn ti, trật tự, thứ bậc chặt chẽ.

Trong cách nhìn của các nhà sáng lập Nho giáo, mỗi người trong xã hội

đều ở một vị trí, một thứ bậc nhất định và mọi người đều phải tuân thủ

nghiêm ngặt trật tự đó. Tất cả các mối quan hệ xã hội đa dạng, phong phú,

được Nho giáo khái quát và nhấn mạnh năm mối chính (vua tôi, cha con,

chồng vợ, anh em, bè bạn) - tức “ngũ luân”. Trong từng mối quan hệ, Nho

giáo có những qui định khá chi tiết và chặt chẽ:

Đối với quan hệ vua tôi thì: Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung

(vua sai khiến bề tôi bằng lễ, bề tôi phụng sự vua phải trung) [trích theo Luận

ngữ, Bát dật]. Đến Mạnh Tử, ông nhấn mạnh mối quan hệ hai chiều vua - tôi

38

với một tinh thần khá dũng cảm trong bối cảnh xã hội đương thời: Vua coi tôi

như tay chân thì tôi coi vua như lòng dạ; vua coi tôi như chó ngựa thì tôi coi

vua như người dưng; vua coi tôi như cỏ rác thì tôi coi vua như thù địch [trích

theo Mạnh Tử, Ly lâu, hạ]. Tư tưởng đó được tiếp nối ở Tuân Tử. mặc dù

Tuân Tử vẫn chủ trương tôn quân, nhưng nếu vua là kẻ tàn ác vô đạo thì sẽ

được quyền trừ bỏ, bởi trong quan niệm của ông “giết một ông vua tàn bạo

cũng như giết một đứa thất phu mà thôi”. Điều đó có nghĩa là, quan hệ vua tôi

trong quan niệm của Nho giáo sơ kỳ không phải là quan hệ một chiều từ trên

xuống dưới khắt khe, nghiệt ngã mà đó là mối quan hệ có tính hai chiều, đòi

hỏi trách nhiệm và bổn phận có đi có lại của cả hai bên.

Trong quan hệ cha con, Nho giáo yêu cầu “phụ từ tử hiếu” (cha từ, con

hiếu). Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy, chăm lo cho con cái, do đó mà có đức

từ, đức nhân và ngược lại, con cái phải có hiếu với cha mẹ. Nhiều nhà nghiên

cứu nhận định, trong các học thuyết cổ đại phương Đông, không học thuyết

nào bàn về chữ “hiếu” một cách rõ ràng, đầy đủ, chi tiết như Nho giáo. Các

nhà nho quan niệm, trong các hành vi của con người, không gì lớn bằng hiếu

và trong các tội cũng không tội nào lớn bằng tội bất hiếu. Chữ hiếu của Nho

giáo mang những nội dung phong phú, như “vô vi”, “vô cải”, “sự thân”, “thủ

thân”, phụng dưỡng khi sống và tế tự khi chết theo đúng “lễ”…

Trong quan hệ vợ chồng, Nho giáo nhấn mạnh “phu nghĩa phụ thính”

(chồng có nghĩa, vợ nghe theo). Tuy nhiên, trong quan niệm Nho giáo vai trò

và địa vị của người vợ nói riêng, người phụ nữ nói chung thường được đánh

giá thấp hơn. Điều đó ngày càng thể hiện rõ trong quan niệm của các nhà nho

ở những thời kỳ lịch sử sau này. Trong quan hệ anh em, trên dưới thì “anh

lành em đễ”, “trưởng có ân, ấu ngoan ngoãn”. Trong quan hệ bạn bè, Nho

giáo đề cao chữ “tín”.

Khổng Tử sống trong thời “lễ giáo suy vi, cương thường đổ nát”, vì

vậy suốt cuộc đời ông trăn trở với việc lập lại kỷ cương xã hội, khôi phục

39

trật tự tôn ti, quay về với lễ chế nhà Chu, quy định danh phận rõ ràng cho

từng người (chính danh), bởi ông tin rằng nếu “chính” được “danh” thì thiên

hạ sẽ thái bình và ngược lại: Danh không chính thì lời nói không thuận, lời

nói không thuận thì việc làm không thành, việc làm không thành thì lễ nhạc

không hưng thịnh, lễ nhạc không hưng thịnh thì hình phạt không trúng, hình

phạt không trúng thì dân không biết làm thế nào cho phải [trích theo Luận

ngữ, Tử Lộ].

Chính danh của Khổng Tử nói lên danh phận cụ thể của mỗi con người.

(Danh là tên gọi, chức vụ, địa vị, thứ bậc của một người; phận là quyền lợi,

nghĩa vụ - tức phận sự của người đó tương ứng với danh). Quan niệm đó có

những hạn chế nhất định, thể hiện tính bảo thủ song nó cũng có ý nghĩa nhất

định trong bối cảnh đương thời, đòi hỏi con người phải tuân thủ đúng phận, vị

của mình, không được tiếm quyền, việt vị. Vấn đề xây dựng xã hội ổn định,

trật tự, mỗi người thực hiện đúng vai trò, bổn phận trong từng mối quan hệ cụ

thể cũng là điều mà Mạnh Tử xem như mục đích của việc trị quốc: Cha con

phải có tình thương yêu nhau, vua tôi phải có nghĩa, vợ chồng phải kính nể

nhau, già trẻ phải có thứ bậc trên dưới, bạn bè phải có tín [trích theo Mạnh

Tử, Đằng Văn Công, thượng].

Nhìn chung, trong Nho giáo sơ kỳ, những yêu cầu trong các mối quan

hệ từ gia đình đến xã hội không phải một chiều theo trục trên - dưới mà nó

mang tính hai chiều, ràng buộc với nhau: vua nhân - tôi trung, cha từ - con

hiếu, anh lành - em đễ, trưởng có ân - ấu ngoan ngoãn, chồng có nghĩa - vợ

nghe theo… Mọi suy nghĩ, hành vi của con người trong các mối quan hệ đều

phải tuân thủ nghiêm ngặt theo những chuẩn mực ấy. Chỉ trên cơ sở thực hiện

đúng danh phận của mỗi người mới có được một xã hội yên bình, thịnh trị

theo mong ước của các nhà nho. Tuy nhiên, do không nhận thấy những biến

đổi sâu sắc của những điều kiện kinh tế xã hội, của hoàn cảnh lịch sử nên

những người sáng lập Nho giáo coi những chuẩn mực ấy là bất biến, muôn

40

thuở hợp đạo trời và tất cả những gì trái với nó, không phù hợp với nó đều là

biểu hiện của sự suy vi và vô đạo. Trong quan niệm của các nhà sáng lập đạo

Nho, nếu thực hiện tốt những mối quan hệ ấy tất yếu sẽ dẫn đến chỗ “thiên hạ

vi công” và có thể đạt đến “xã hội đại đồng” mà sách Lễ ký miêu tả: Đạo lớn

được thi hành thì thiên hạ là của chung, chọn người hiền đức, cử người tài

năng, giảng giải điều tín, trau dồi hòa mục, cho nên người ta không thân quí

riêng cha mẹ mình, không yêu dấu riêng con mình, khiến cho người già có

nơi yên nghỉ cuối đời, lớp người tráng niên có chỗ được dùng, lớp tuổi thơ ấu

có nơi khôn lớn, những người góa vợ góa chồng, những kẻ mồ côi, những

người già nua không có con cái, những người phế tật đều có chỗ nuôi

dưỡng… [trích theo Lễ ký, Lễ vận].

Những người sáng lập Nho giáo còn cho rằng: Của cải bỏ rơi vãi là

điều đáng ghét song không cần giấu cho riêng mình; sức làm việc không phải

chính từ bản thân mình ra là điều đáng ghét, song bất tất là cứ làm cho mình.

Cho nên các mưu toan được chặn lại chứ không nổi lên, trộm cướp giặc giã

không có. Bởi vậy cổng có mà không đóng. Thế gọi là đại đồng [trích theo Lễ

ký, Lễ vận].

Nhà nghiên cứu Quang Đạm cho rằng, mô hình xã hội lý tưởng đó

trong quan niệm của Nho giáo chính là một dạng biểu hiện của chủ nghĩa xã

hội không tưởng phương Đông thời cổ đại: “Lý tưởng ấy là gì, nếu không

phải là chủ nghĩa xã hội không tưởng của những nhà đạo đức thời Đông Chu

ngày đêm mơ mộng phục hưng triều đại nhà Chu đã suy tàn và đang mục đổ”

[13, tr.119]. Mơ ước đó của Nho giáo về xã hội lý tưởng còn ảnh hưởng khá

sâu sắc đối với các nhà nho của những triều đại phong kiến sau này. Trong

những giai đoạn lịch sử nhiều biến động và khủng hoảng, không ít nhà tư

tưởng lại ước mơ về một xã hội có phần hư cấu, như: “cửa không cần phải

đóng”, “của rơi ngoài đường không ai nhặt”...

41

Hai là, xã hội lý tưởng phải đảm bảo cho con người có đời sống vật

chất tương đối đầy đủ, thực hiện nguyên tắc phân phối quân bình.

Nho giáo đề cao sự ổn định và trật tự, không thích sự đổi thay và xáo

trộn, không nhấn mạnh vai trò của sản xuất vật chất. Tuy nhiên, không hẳn

Nho giáo phủ nhận vai trò của đời sống vật chất và cũng không đến nỗi đối

lập tuyệt đối giữa nghĩa và lợi, giữa đạo đức và làm giàu. Nho giáo chủ yếu

phản đối sự giàu sang do bất nhân bất nghĩa mà nó đòi hỏi giàu phải hợp với

đạo, coi “giàu sang mà không đúng đạo thì không nên hưởng”, xem “giàu

sang do bất nghĩa như đám mây nổi”. Sau khi đề cao nhân nghĩa, khẳng định

vị trí, vai trò của đạo đức, những người sáng lập Nho giáo cũng cho rằng “nếu

nước nhà có đạo mà nghèo hèn là điều đáng xấu hổ”. Bản thân Khổng Tử

từng nói, “giàu sang ai cũng muốn, nghèo hèn ai cũng ghét” và nếu được giàu

sang thì dẫu phải cầm roi đánh xe cho người khác ông cũng vẫn làm. Bản thân

các nhà nho cũng đã nhận thấy vai trò phần quan trọng của đời sống vật chất

trong thực tế. Vị Á thánh đạo Nho là Mạnh Tử đã phải thừa nhận, vào

những năm đói kém mất mùa nhiều người trở nên hung bạo, còn những năm

được mùa no đủ thì nhiều người trở thành lương thiện. Từ đó, ông chủ trương,

nhà cầm quyền phải tạo sản nghiệp cho dân, đảm bảo cho người dân có tài sản

riêng (hằng sản) bởi theo ông, chỉ khi dân có “hằng sản” thì họ mới có “hằng

tâm” (thiện tâm vững bền) và ngược lại. Vì thế, ông khuyên những kẻ cầm

quyền trị nước đương thời phải làm sao cho mọi người “trông lên đủ thờ cha

mẹ, cúi xuống đủ nuôi vợ con, năm được mùa thì no nê đầy đủ, năm mất mùa

không đến nỗi chết đói chết rét”. Có thực hiện được điều đó thì khi sai khiến

họ, họ mới dễ dàng nghe theo. Ngược lại, “nếu họ lo cho khỏi chết đói còn

không đủ sức thì đâu còn thời giờ rảnh rỗi để nghĩ đến chuyện lễ nghĩa”.

Để đảm bảo cho sự ổn định của xã hội, người dân có đời sống vật chất

tương đối đầy đủ, các đại biểu sáng lập Nho giáo cũng nêu phương châm:

Việc làm ra của cải có đạo lớn của nó. Người làm ra thì đông mà người ăn

42

tiêu thì ít; việc làm ra thì nhanh chóng mà việc tiêu dùng thì thư thả, như vậy

của cải sẽ luôn luôn đủ. Mặc dù vậy, để cho xã hội nằm trong khuôn khổ đạo

đức, các nhà nho khuyên con người nên an phận với hoàn cảnh của mình,

không nên oán trời, cũng chẳng nên trách người. Do đó, giàu không nên kiêu

căng, nghèo không nên oán trách. Hơn nữa, nếu “nghèo mà vui, giàu mà

chuộng lễ” thì càng được biểu dương. Về sự phân phối của cải tiêu dùng trong

xã hội, Nho giáo đề cao nguyên tắc quân bình với phương châm “bất hoạn

quả nhi hoạn bất quân, bất hoạn bần nhi hoạn bất an” (Không sợ thiếu, chỉ sợ

không đều; không lo nghèo, chỉ lo không yên ổn).

Ba là, xã hội lý tưởng phải là xã hội có đạo đức, coi trọng giáo dục

đạo đức cho mọi người.

Xã hội lý tưởng trong quan niệm của Nho giáo phải là xã hội có đạo

đức, mà biểu hiện cơ bản của nó là vua thánh tôi hiền, mọi người tuân thủ

theo đúng những qui phạm đạo đức mà Nho giáo nêu lên. Coi những phẩm

chất đạo đức như trung, hiếu, nhân, nghĩa… là những phẩm chất con người

cần học tập, tu dưỡng để hoàn thiện nhân cách; xem đạo đức là yêu cầu cơ

bản của mẫu người lý tưởng, là điều kiện cần thiết để có thể tạo lập và duy

trì xã hội lý tưởng nên vấn đề giáo dục đạo đức được các nhà nho đặc biệt

coi trọng.

Ra đời trong bối cảnh xã hội suy vi, cương thường đổ nát và coi nguyên

nhân của hiện trạng đó là bởi nhân tâm chao đảo nên các nhà Nho quan niệm,

muốn ổn định trật tự xã hội thì phải sửa trị nhân tâm. Vì thế, vấn đề “tính

người” (nhân tính) và việc sửa trị nhân tâm được Nho giáo rất chú trọng. Khi

bàn về vấn đề tính người, quan điểm của các nhà nho trong mỗi thời kỳ là

không giống nhau (có người xem tính người là thiện, có người coi tính người

là ác, có người cho rằng tính người không thiện không ác, có người lại khẳng

định tính người từ lúc sinh ra đã là thiện ác lẫn lộn…) nhưng cuối cùng đều

thống nhất ở chỗ cho rằng tính người không bất biến mà có thể cải hóa được.

43

Vì thế, họ hướng đến mục đích giáo dục, giáo hóa con người theo những

chuẩn mực đạo đức Nho giáo nhằm ổn định trật tự, kỷ cương xã hội theo

những yêu cầu của chế độ xã hội đương thời.

Trong quan niệm của các nhà Nho, giáo dục, nhất là giáo dục đạo đức

có vai trò đặc biệt quan trọng bởi nó sẽ làm cho con người khác với cầm thú.

Điều đó đã được các thánh hiền Nho giáo khẳng định, “nếu con người chỉ ăn

no, mặc ấm, ở yên mà không được giáo hóa thì cũng chẳng khác gì cầm thú”.

Muốn tạo ra những con người cần thiết cho xã hội đương thời, tạo ra những

mẫu hình nhân cách lý tưởng, nhất là những chủ thể trị quốc của một xã hội lý

tưởng theo mong ước của các nhà nho thì không thể không thông qua giáo

dục. Về cách thức và phương pháp giáo dục, Nho giáo còn để lại những bài

học tham khảo có giá trị, song về nội dung giáo dục của Nho giáo lại thể hiện

sự phiến diện. Nó hầu như không đề cập đến những tri thức về tự nhiên, về

khoa học kỹ thuật, về sản xuất mà nội dung chủ yếu của nó chỉ dừng lại ở

những nguyên tắc, những tiêu chuẩn đạo đức nhằm tạo ra những mẫu người lý

tưởng về đạo đức theo những chuẩn mực của các thánh hiền đạo Nho.

2.2.3. Đường lối trị quốc của Nho giáo

Nói đến đường lối trị quốc của Nho giáo là nói đến con đường, cách

thức để thực hiện mục tiêu trị quốc theo quan niệm của các nhà Nho. Để thực

hiện mục tiêu trị quốc là hướng đến xây dựng một mô hình xã hội lý tưởng

với những đặc trưng cơ bản nêu trên, Nho giáo đề xuất con đường để thực

hiện mục tiêu đó với những nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, muốn trị được nước, trước hết những chủ thể trị quốc, những

con người tham gia chính sự phải tu được thân và tề được gia để làm gương

cho dân chúng.

Để thực hiện lý tưởng trị quốc rồi có thể bình thiên hạ, Nho giáo rất coi

trọng việc tu dưỡng bản thân, lấy mình làm gương cho dân chúng của những

người cầm quyền cai trị thiên hạ. Vấn đề này được nói rất rõ trong tiết 2 của

44

chương 1 quyển Đại học: “Thời cổ đại, phàm những thánh nhân muốn phát

huy tính thiện của con người đến khắp thiên hạ, trước hết phải lãnh đạo tốt

nước mình, bang mình”.”Muốn lãnh đạo tốt nước mình, bang mình, trước hết

phải tu dưỡng tốt phẩm đức bản thân mình”; Muốn chỉnh đốn tốt gia đình, gia

tộc mình, trước hết phải tu dưỡng tốt phẩm đức bản thân mình [37, tr.11].

Ba câu trích dẫn trên đây đã diễn giải việc tất yếu phải “tu dưỡng tốt

phẩm đức bản thân” tức là tu thân mới “chỉnh đốn tốt gia đình, gia tộc” (tề

gia) được, tề gia được mới “lãnh đạo tốt nước” (trị quốc) được, tức là các

công việc tu thân để tề gia, tề gia để trị quốc đó là việc làm của “những thánh

nhân” thuộc tầng lớp thượng lưu bao gồm các nhân vật có học hành, hiểu biết,

ý chí, tài giỏi, chứ không phải của ai đó thuộc tầng lớp lao động, hạ lưu trong

xã hội.

Theo quan niệm của các thánh hiền đạo Nho, tu thân là sự rèn luyện,

tu dưỡng bản thân của mỗi con người theo đúng những tiêu chuẩn, những

qui phạm đạo đức Nho giáo. Với con đường tám bước của Nho giáo, muốn

tu dưỡng, sửa mình trước hết người ta phải nghiên cứu sự vật, sự việc để có

những hiểu biết, có được tri thức đúng đắn, sâu sắc về nó. Nhờ có sự hiểu

biết đó mà tâm ý trở nên ngay thẳng, thành thật. Khi tâm ý đã thành thật,

ngay thẳng mới có khả năng tu tâm dưỡng tính. Trong quan niệm của các

thánh hiền đạo Nho, tu thân, làm gương cho dân chúng là điều kiện quan

trọng để có thể trở thành người cai trị thiên hạ, bởi: Biết cách tu dưỡng bản

thân ắt sẽ biết cách cai trị người. Biết cách cai trị người tất sẽ biết cách để trị

yên cả đất nước và toàn thiên hạ [trích theo Trung Dung, 20] và Người nào

đã sửa trị lấy mình thì đứng ra cai trị chẳng khó gì. Ngược lại, nếu không

sửa trị lấy mình thì sao có thể cai trị người khác [trích theo Luận ngữ, Tử

Lộ]. Các nhà nho chứng minh vai trò quan trọng của “tu thân” đối với “trị

quốc” thông qua việc dẫn chứng các tấm gương sáng của những ông vua

trong quá khứ, như: vua Thuấn vốn xuất thân là thường dân nhưng nhờ có

45

đức bởi tu thân mà được thiên hạ; vua Thang răn mình bằng việc khắc lên

chiếc chậu rửa mặt mệnh đề “nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân”. Bản thân

các nhà sáng lập đạo Nho cũng là những mẫu hình tiêu biểu cho việc tu thân.

Ông Tăng Tử hàng ngày đều không quên kiểm điểm mình 3 việc: làm việc

gì cho ai có hết lòng không, kết giao với bằng hữu có giữ tín không, những

điều thầy dạy có thực hành không.

Để tu thân, Nho giáo đòi hỏi con người phải ràng buộc, ước thúc bằng

“lễ”. Khổng Tử nhận định: “Không biết lễ thì không tự lập được trong xã hội”

[37, tr.539]. Giới nghiên cứu tìm hiểu khái niệm lễ trong nho giáo đã có nhận

xét: “Lễ có thể làm cho mọi người hiểu rõ quy phạm hành vi xã hội, làm cho

cốt cách con người thêm vững vàng, giúp cho người ta đứng vững trong xã

hội”, và “Khổng Tử rất coi trọng lễ, vì biết lễ thì hiểu rõ thứ tự phép tắc.

Người đi học mà không biết lễ thì chẳng để tâm mà học được…, hành động

chẳng đúng phép tắc” [37, tr.540]. Tuân thủ đúng những qui phạm ràng buộc

theo tiêu chuẩn của “lễ” là điều cốt yếu của việc tu thân. Nó đòi hỏi không

được nhìn, nghe, nói, làm những gì trái “lễ”.

Cùng với tu thân, muốn trị được quốc trước hết phải tề được gia. Khái

niệm “gia” trong quan niệm của các nhà nho được hiểu theo nghĩa hẹp là gia

đình, còn theo nghĩa rộng là gia tộc với những quan hệ đa dạng và phức tạp

hơn. Với quan niệm nước giống như cái nhà to, nhà giống như một nước nhỏ;

xem người gia trưởng là vua của một nhà, vua như người cha của muôn dân,

nên Nho giáo rất coi trọng vấn đề “tề gia”, xem đó như một trong những tiền

đề để có thể trị quốc. Trong vấn đề “tề gia”, Nho giáo đặc biệt coi trọng hiếu,

đễ, coi đó là những phẩm chất quan trọng cần giáo dục cho các thế hệ con em.

Các nhà nho tin tưởng rằng người có hiếu, đễ thì sẽ không phạm thượng,

không ưa trái nghịch với bề trên nên có hiếu thì ắt sẽ có trung, có đễ ắt sẽ biết

tuân lệnh bề trên. Trong sách Lễ ký chép lời Khổng Tử:

46

Dựng lòng ái, khởi đầu từ cha mẹ, là dạy dân hòa mục. Dạy lòng

kính, khởi đầu từ người huynh trưởng, là dạy dân kính thuận. Lấy

từ ái, hòa mục mà dạy dân thì dân biết quí có cha mẹ; lấy kính

người huynh trưởng mà dạy dân thì dân biết quí sự theo lệnh người

trên. Hiếu là để thờ cha mẹ, thuận là để vâng mệnh người trên, đem

những điều ấy mà thi thố ra thiên hạ thì không có điều gì là không

làm được [6, tr.554].

Cũng trên tinh thần ấy, học trò Khổng Tử là Tăng Tử trong sách Đại

học cũng cho rằng: “Nhà mình không thể dạy mà dạy được thiên hạ là không

thể. Cho nên người quân tử không ra khỏi nhà mà dạy được người trong cả

nước” và khẳng định: “Hiếu là để phụng sự vua đấy, đễ là để phụng sự bề trên

đấy, từ là để sai khiến dân chúng đấy” (Đại học). Mặt khác, trong quan niệm

của nhà nho, việc giáo dục trong gia đình có ảnh hưởng quyết định đến sự

hưng vong của cả một đất nước. Điều đó được khẳng định trong sách Đại

học: “Một nhà nhân hậu thì cả nước dấy lên điều nhân, một nhà nhượng thì cả

nước nổi lên điều nhượng”. Đến Mạnh Tử, từ chỗ đề cao vai trò quan trọng

của những gia tộc và những dòng họ lớn mà ông gọi là các “cự thất” và “thế

gia, ông quan niệm: làm chính trị không khó, miễn là không đắc tội với các cự

thất là được; cự thất yêu thích thì cả nước yêu thích, cả nước yêu thích thì cả

thiên hạ yêu thích [trích theo Mạnh Tử, Ly lâu thượng]. Chính vì thế, mục

đích giáo dục con người của các nhà nho cũng tập trung trước hết vào việc

giáo dục trách nhiệm, bổn phận của con người trong những quan hệ gia đình,

bởi nếu dạy được người trong nhà mới có thể dạy được người trong nước, nếu

dạy được người trong nước mới có thể dạy được người trong thiên hạ và thiên

hạ sẽ bình yên: Thân yêu cha mẹ mình, kính trọng bề trên của mình, thế là

thiên hạ thái bình [trích theo Mạnh Tử, Ly lâu thượng].

Thứ hai, dùng đức để trị quốc kết hợp với sử dụng pháp luật và hình

phạt khi cần thiết.

Trong quan niệm Nho giáo, mặc dù không hoàn toàn cự tuyệt, phủ nhận

vai trò của pháp luật, song về cơ bản, nó đề cao đạo đức và coi việc thực hành

47

đạo đức đóng vai trò quyết định đối với việc đào tạo chủ thể trị quốc và xây

dựng mô hình xã hội lý tưởng. Khổng Tử từng khẳng định: Dùng đức làm

chính trị giống như sao Bắc đẩu ở một chỗ mà các vì sao khác đều hướng về nó

(Vi chính dĩ đức, thí như Bắc thần cư kỳ sở, nhi chúng tinh củng chi) [trích

theo Luận ngữ, Vi chính]. Ở chỗ khác ông nói: Dùng pháp chế mà dẫn đạo dân,

lấy hình phạt để tề chỉnh dân thì dân sợ mà chẳng vi phạm chứ không biết xấu

hổ. Dùng đạo đức để dẫn dụ dân, lấy lễ giáo mà tề chỉnh dân thì họ không

những có liêm sỉ mà còn được cảm hóa trở nên tốt lành [trích theo Luận ngữ,

Vi chính].

Nhận thấy “chính” và “hình” tuy có vai trò nhất định song cũng mang

những hạn chế của nó nên Nho giáo muốn dùng đạo đức để bổ sung chúng.

Trong cách hiểu của các đại biểu Nho giáo, chỉ dùng mệnh lệnh và hình phạt

sẽ không đủ mà cần phải tăng cường giáo dục đạo đức, lấy đạo đức để ràng

buộc con người mới có thể đem lại sự ổn định lâu dài. Vì thế, đạo đức là một

trong những nguyên tắc chính trị quan trọng, một phương pháp cai trị đắc lực

mà các triều đại phong kiến Trung Hoa dùng làm chỗ dựa trong suốt cả ngàn

năm lịch sử. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, Nho giáo mặc dù đề cao vai trò

của đạo đức, nhấn mạnh tác dụng của đức trị song nó cũng phần nào thấy

được sự cần thiết của pháp luật. Vì thế, trong lịch sử, về thực chất các triều

đại phong kiến Trung Hoa đều kết hợp giữa đức và hình, giữa Nho và Pháp

theo phương châm “Đức pháp tịnh trọng”, “ngoại Nho nội Pháp”, “dương

Nho âm Pháp”...

Một trong những điều mà Nho giáo đặc biệt quan tâm là việc giữ gìn

đẳng cấp, tôn ti trật tự. Các thánh hiền đạo Nho luôn chú trọng vấn đề giáo

dục cho mọi người nhận thức rõ và tuân thủ nghiêm ngặt những qui định về

bổn phận, trách nhiệm của từng người trong từng mối quan hệ “cương”,

“luân” do họ đề ra nhằm ngăn chặn sự “phạm thượng”. Nhưng thực tế cuộc

sống trong hoàn cảnh của thời đại lúc đó cho thấy, chỉ dùng đạo đức, giáo dục

48

đạo đức là không đủ. Vì thế, bên cạnh đạo đức và giáo dục cũng cần phải có

pháp luật để phân định ngôi thứ, bảo đảm cho trật tự trên dưới theo những vai

vế nhất định và khi cần thiết phải dùng hình phạt để duy trì trật tự xã hội trong

vòng trật tự của lễ giáo đạo Nho. Mặc dù vậy, khi tình nhà và phép nước xuất

hiện mâu thuẫn thì các đại biểu Nho gia đặt tình nhà lên trên hết. Lúc đó,

pháp luật cũng phải nhường chỗ cho quan hệ họ hàng thân thuộc, tình nhà vẫn

cao hơn phép nước. Điều này được minh chứng qua nhiều câu chuyện trong

các kinh điển đạo Nho. Chẳng hạn, khi học trò khen một người ngay thẳng vì

cha bắt trộm dê mà con đi tố cáo, Khổng Tử không đồng tình mà dạy rằng:

Cha che lỗi cho con, con che lỗi cho cha, sự ngay thẳng đã nằm trong đó

[trích theo Luận ngữ, Tử Lộ]. Hoặc học trò của Mạnh Tử hỏi, nếu bố của vua

Thuấn phạm tội giết người, vua Thuấn sẽ xử lý ra sao thì Mạnh Tử trả lời:

Thuấn sẽ vứt bỏ thiên hạ như vứt đôi dép rách để cõng cha mình chạy chốn

đến nơi bãi biển xa xôi, sống cuộc đời vui vẻ mà quên đi thiên hạ [trích theo

Mạnh Tử, Tận tâm thượng]. Nghĩa là, giữa đạo đức với pháp luật và hình

phạt, Nho giáo coi trọng đạo đức hơn nhưng cũng không phủ nhận vai trò cần

thiết của pháp luật và hình phạt. Tuân Tử chủ trương: “Từ bậc sĩ trở lên thì

phải dùng lễ nhạc mà đối đãi; đối với dân chúng trăm họ thì phải dùng pháp

lệnh mà cai trị” và “người nào lấy điều thiện đến với ta, thì dùng lễ mà đối đãi

họ, người nào lấy điều bất thiện đến với ta thì dùng hình phạt đối đãi với họ”

[trích theo 3, tr.84]. Tuy nhiên, các đại biểu Nho giáo cũng khuyên nhà cầm

quyền không nên lạm dụng nó, không nên ham giết người bởi đó chỉ là cái

tạm thời làm cho dân tránh phạm tội chứ không làm cho họ có được liêm sỉ.

Về lâu dài, muốn cho họ thực sự thuận tùng thì phải dùng đạo đức. Mạnh Tử

nhận định: “Ngày nay những người chăn dắt dân trong thiên hạ, không có ai

là không thích giết người. Nếu có người không thích giết người, thì dân trong

thiên hạ đều sẽ nghển cổ mà trông theo người ấy. Và nếu thật như vậy, dân sẽ

về với người ấy, như nước về chỗ trũng, rào rào như thác chảy. ai có thể ngăn

49

lại được?”. Từ đó ông khẳng định: Ai không thích giết người thì có thể thống

nhất được thiên hạ [trích theo Mạnh Tử, Lương Huệ Vương, thượng].

Thứ ba, phải dưỡng dân, giáo dân và làm cho dân tin.

Nhiễm Hữu là người đánh xe dẫn Khổng Tử đi sang nước Vệ. Khổng

Tử thốt lên: “Dân đông quá!”. Nhiễm Hữu liền hỏi: “Dân đã đông, nên làm

như thế nào?”. Khổng Tử đáp ngay: “Phải làm cho họ giàu lên”. Nhiễm Hữu

lại hỏi: “Dân đã giàu lên rồi thì nên làm như thế nào nữa?”. Khổng Tử nói

tiếp: “Phải giáo hóa dân” [37, tr.373]. Qua đoạn đối thoại trên, chúng ta thấy

Khổng Tử rất trọng dân, thương yêu nhân dân lao động. Thấy dân đông và

nghèo, ông chủ trương làm cho họ giàu lên. Họ giàu lên rồi, ông chủ trương

giáo hóa để mở mang tri thức, trí tuệ cho dân. Cũng qua đoạn hỏi đáp trên

đây, chúng ta thấy Khổng Tử đã chỉ rõ phương hướng đi lên của một quốc

gia, cụ thể là phải làm cho dân giàu lên, tức là xây dựng nền văn minh vật

chất. Chủ trương này của Khổng Tử được xây dựng từ thời cổ đại, cách đây

hơn hai ngàn năm nhưng đến hôm nay nó vẫn còn có giá trị và mang tính thời

sự. Đoạn đối thoại nói trên còn chuyển tải tư tưởng, chủ trương quan trọng

khác nữa là trong xây dựng đất nước phải quan tâm, chăm lo xây dựng nền

văn minh tinh thần, mở mang trí tuệ, văn hóa cho nhân dân lao động. Phải là

một người có tư tưởng lớn và tình yêu thương nhân dân lao động mới có được

tư tưởng trọng dân như trên.

Khổng Tử không chỉ chú trọng phú dân, giáo dân, mà còn rất quan tâm

dưỡng dân. Ông ca ngợi, biểu dương Tử Sản: “Nuôi dân thì biết vỗ về, đưa lại

nhiều ân huệ cho dân. Sử dụng, sai khiến dân thì hợp tình, hợp lý” [37,

tr.192]. Khổng Tử còn nói: “Nguyện vọng của ta là muốn cho người già được

nuôi dưỡng đầy đủ, bạn bè tin cậy lẫn nhau, trẻ nhỏ được quan tâm chăm sóc”

[37, tr.202]. Qua đây chứng tỏ tác giả nho giáo có đường lối trị quốc phải

đồng thời thực thi chủ trương làm cho dân giàu, nuôi dưỡng dân chu đáo, no

đủ về cả vật chất và tinh thần.

50

Tư tưởng làm cho dân tín tại nho giáo cũng có ý nghĩa không nhỏ trong

việc trị quốc, xây dựng đất nước. Tử Cống hỏi Khổng Tử về quản lý chính sự

quốc gia. Khổng Tử chỉ giáo: “Phải đầy đủ lương thực, đầy đủ binh lực, được

nhân dân tín phục” [37, tr.347]. Ở đây, Khổng Tử nói trong việc trị quốc phải

coi trọng ba nhân tố là lương thực, binh lực và sự tín phục của nhân dân.

Trong ba nhân tố này, theo Khổng Tử, nhân tố sự tín phục của nhân dân đối

với người lãnh đạo, quản lý chính sự quốc gia là quan trọng nhất. Bởi vì, theo

ông, “nếu nhân dân không còn tín phục nữa, thì nước không thể đứng vững

nổi” [37, tr.347,348]. Mạnh Tử cũng khẳng định: “Kiệt Trụ mất thiên hạ vì

mất dân, sở dĩ mất dân chính là vì mất lòng dân. Có được thiên hạ là nhờ

đường lối sau đây: có được dân là có được thiên hạ. Có được dân cũng do

đường lối sau đây: được lòng dân là có dân” [148, tr.715].

Vậy là, theo các đại biểu sáng lập Nho giáo, trong việc trị quốc, quản lý

chính sự quốc gia phải chú trọng nuôi dưỡng dân, làm cho dân giàu lên, mở

mang trí tuệ, trở nên có văn hóa, văn minh, và phải làm cho dân tin tưởng vào

người có vai trò cầm quyền trị quốc.

2.2.4. Chủ thể trị quốc trong quan niệm của Nho giáo

Trong cách nhìn của các nhà nho, muốn thực hiện đường lối trị quốc để

hướng tới mục tiêu tạo lập mô hình xã hội lý tưởng, cần có chủ thể của quá

trình đó, tức chủ thể trị quốc. Quan niệm của Nho giáo về chủ thể trị quốc thể

hiện mong ước về những con người có khả năng bình ổn xã hội, đảm đương

được các công việc của quốc gia, xã tắc. Có thể hình dung quan niệm về chủ

thể trị quốc của Nho giáo là những bậc vua thánh tôi hiền, mang phẩm chất

của những mẫu hình lý tưởng như kẻ sĩ, quân tử, thánh nhân.

Thứ nhất, những phẩm chất của kẻ sĩ.

Khái niệm sĩ được xuất hiện khá phổ biến trong các kinh điển đạo Nho

và mang nhiều nghĩa khác nhau. Có lúc nó dùng để chỉ những người học trò

51

theo đạo Khổng, có lúc chỉ người ẩn dật xa lánh cuộc đời, có khi chỉ người có

địa vị xã hội, có lúc lại chỉ những người có đạo đức, trí tuệ và bản lĩnh. Với

nghĩa là chủ thể cầm quyền trị quốc, khái niệm kẻ sĩ được dùng để chỉ những

người có học, có đạo đức, trí tuệ và bản lĩnh, là một mẫu hình nhân cách lý

tưởng theo quan niệm Nho giáo. Tăng Tử nói về kẻ sĩ như sau: “kẻ sĩ không

thể không có hoài bão lớn lao, ý chí kiên cường, tinh thần kiên nghị. Bởi vì

trách nhiệm gánh vác của kẻ sĩ rất nặng mà đường lại còn xa. Gánh điều nhân

làm trọng trách của mình chẳng lẽ không phải là quá nặng nề ư? Chỉ đến khi

chết rồi mới ngừng nghỉ” [37, tr.267]

Nho giáo bàn tiếp về phẩm chất của kẻ sĩ để khẳng định bản chất của

tầng lớp người ấy trong xã hội: “kẻ sĩ khi gặp việc nguy hiểm hợp nghĩa thì

dám hy sinh thân mình” [37, tr.508]. Tử Cống hỏi Khổng Tử: “Người như thế

nào đáng được gọi là kẻ sĩ?”. Khổng Tử giải đáp: “Làm việc trái lễ nghĩa phải

biết hổ thẹn. Đi sứ các nước không làm nhục mệnh vua. Người như vậy được

xem là kẻ sĩ” [37, tr.382]. Nho giáo cho rằng, đã là kẻ sĩ, người nhân thì

không ham sự sống để làm điều bất nhân mà dù chết cũng phải giữ đạo nhân:

Chí sĩ nhân nhân vô cầu sinh dĩ hại nhân, hữu sát thân dĩ thành nhân [trích

theo Luận ngữ, Vệ Linh Công] hoặc Làm một điều bất nghĩa, giết một người

không có tội mà được thiên hạ thì kẻ nhân giả không làm [trích theo Luận

ngữ, Hiến vấn].

Kẻ sĩ còn là những người cả cuộc đời mình đều để tâm trí vào đạo, đến

mức “sáng nghe được đạo, chiều chết cũng vui”. Chính vì vui với đạo mà kẻ

sĩ không lo buồn về đời sống khó khăn thiếu thốn. Khổng Tử thường khen

Nhan Hồi là người hiền vì cuộc sống đạm bạc với một giỏ cơm thô, một bầu

nước lã, sống trong túp lều nơi xóm vắng mà vẫn vui với đạo. Ông cũng khen

Tử Lộ mặc áo vá mà không xấu hổ trước người đời, bởi theo ông: Kẻ sĩ để chí

ở đạo mà vẫn xấu hổ vì nỗi áo rách, cơm thô thì không đáng bàn luận với anh

ta [trích theo Luận ngữ, Lý nhân].

52

Kẻ sĩ trong quan niệm của nhà Nho là những người hiểu rõ lẽ “hành” -

“tàng”, nghĩa là biết lúc nào ra làm quan, lúc nào phải thoái lui khỏi chốn quan

trường. Mục đích của kẻ sĩ không phải là trốn đời, ở ẩn mà phải giúp đời trị

quốc, nên nước vô đạo thì lui về ở ẩn, nước có đạo thì ra làm quan giúp đời.

Thứ hai, những phẩm chất của bậc quân tử.

Chủ thể trị quốc, theo Nho giáo còn phải có những phẩm chất của

người quân tử. Trong các mẫu hình nhân cách lý tưởng, người quân tử được

xem như hình tượng tiêu biểu nhất bởi nó kết tinh được những phẩm chất cao

quí của đạo làm người theo quan niệm Nho giáo.

Một điều cần lưu ý là, khái niệm quân tử đã xuất hiện trước Khổng Tử

và cũng không phải chỉ nói đến những con người có đức mà nó còn được

dùng để chỉ những người có địa vị, cho dù người đó có đạo đức hay không.

Theo Trần Trọng Kim, “Lúc đầu chữ quân tử là nói người có địa vị tôn quí,

mà chữ tiểu nhân là nói người thường nhân, không có địa vị gì trong xã hội…

Về sau dùng rộng nghĩa ra, gọi quân tử là người có đức hạnh tôn quí, và gọi

tiểu nhân là người có chí khí hèn hạ”[51, tr.106,107]. Cũng đồng quan điểm

ấy, Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê giải thích: “Tiếng quân tử không phải do

Khổng Tử đặt ra... ở đời Chu nó đã lưu hành. Nhưng thời đó, nó trỏ cái địa vị

trong xã hội, chứ không trỏ cái phẩm tính con người. Người có chức phận

cao, cai trị dân, có đức hay không có đức, đều gọi là quân tử”[6, tr.705,706].

Tuy nhiên, trong quan niệm của các nhà nho, khái niệm quân tử với tư cách là

một trong những mẫu người lý tưởng có khả năng trị quốc chủ yếu được dùng

để chỉ những người có phẩm chất đạo đức theo chuẩn mực Nho giáo. Hầu hết

các nhà nho đều xem mẫu hình quân tử như một mục tiêu để phấn đấu.

Phẩm chất đạo đức cơ bản nhất của người quân tử là phải thực hiện

được “Nhân”. Nếu xa rời đức “Nhân”, không giữ được “Nhân”, vi phạm điều

“Nhân” thì không đáng là quân tử nữa: Quân tử khứ nhân, ô hồ thành danh?

[trích theo Luận ngữ, Lý nhân]. Nhà nho đặt ra yêu cầu “người quân tử trong

53

khoảng bữa ăn cũng không trái nhân, vội vàng cũng phải theo nhân, hoạn nạn

cũng phải theo nhân” [10, tr.52]. Mà muốn có nhân thì phải ước thúc bản thân

theo lễ. Chính vì thế nên quân tử có khả năng và nhiệm vụ dẫn dắt tiểu nhân,

còn tiểu nhân phải nhận sự dẫn dắt của quân tử. Do đó, Khổng Tử nhận xét:

Đức của người quân tử như gió, đức của kẻ tiểu nhân như cỏ, gió thổi tất cỏ

phải rạp xuống [trích theo Luận ngữ, Nhan Uyên]. Trong cuộc sống, nhất là

trong việc chính sự, vai trò quyết định và chi phối thuộc về những người

“quân tử”. Những người được gọi là “tiểu nhân” chỉ cốt sao dễ sai khiến, biết

noi theo, không phạm thượng, phục tùng mệnh lệnh của bề trên.

Quân tử theo quan niệm của Nho giáo là những người không chỉ để

tâm trí về đạo mà hơn nữa, phải luôn lo lắng về đạo, tìm cách thực hành đạo,

phổ cập nó trong dân chúng: Người quân tử tìm đạo chứ không tìm ăn

uống... Người quân tử lo lắng về đạo chứ không lo mình nghèo [trích theo

Luận ngữ, Vệ Linh Công].

Người quân tử còn là con người luôn cố gắng phấn đấu vươn lên về

mọi mặt, tránh xa những cám dỗ tầm thường. Mọi hành vi, cử chỉ, dung mạo

đều đúng mực theo đạo “trung dung”, không thái quá cũng không bất cập. Để

có thể theo đúng đạo “trung dung” thì đòi hỏi mọi việc nghe, nhìn, nói, làm...

đều phải suy nghĩ cẩn trọng, thấu đáo: Người quân tử có chín điều phải suy

ngẫm: nhìn thì phải sáng tỏ, nghe thì phải thông suốt, sắc mặt phải giữ ôn hòa,

dung mạo thì phải cung kính, lời nói thì phải trung tín, việc làm thì phải thận

trọng, những gì còn nghi hoặc thì phải hỏi han, nóng giận phải nghĩ đến cái khó

về sau, thấy lợi phải nhớ đến nghĩa [trích theo Luận ngữ, Quí Thị].

Vì suy nghĩ, hành vi, việc làm luôn đúng mực trong mọi mối quan hệ

và trong mọi hoàn cảnh mà người quân tử có thể hòa hợp với mọi người

nhưng không a dua theo người khác, không đánh mất bản thân trong đám

đông, cũng không gây bè đảng, phe cánh. Phẩm chất đó khác với kẻ tiểu nhân,

chỉ a dua theo người nhưng lại không hòa hợp được với người.

54

Trong mối quan hệ giữa nghĩa và lợi, quân tử phải trọng nghĩa hơn lợi,

bởi quân tử hiểu rõ về việc nghĩa, còn kẻ tiểu nhân mới rành rẽ về việc lợi.

Quân tử khác tiểu nhân chính là vì khi nghèo túng vẫn không thay đổi trước

cái lợi mà giữ nghĩa khí, trái lại, kẻ tiểu nhân khi nghèo túng sẽ chạy theo cái

lợi mà làm càn làm bậy.

Đối với người quân tử, điều quan trọng là phải biết mệnh trời để sợ

mệnh trời và tuân theo mệnh trời. Khổng Tử từng nhấn mạnh, người quân tử

có ba điều phải kính sợ, mà trước hết là phải kính sợ mệnh trời. Nếu không

biết được mệnh trời, không đáng gọi là quân tử (Bất tri mệnh, vô dĩ vi quân tử

dã) [trích theo Luận ngữ, Nghiêu viết]. Bản thân Khổng Tử khi nhận xét về

bản thân cũng cho rằng, phải đến 50 tuổi ông mới biết được mệnh trời. Cũng

chính vì biết mệnh trời, tuân theo mệnh trời mà khiến cho người quân tử

không lo lắng ưu phiền, cũng không sợ sệt (Quân tử bất ưu bất cụ) [trích theo

Luận ngữ, Nhân Uyên].

Thứ ba, phẩm chất của những bậc thánh nhân.

Chủ thể trị quốc theo quan niệm của Nho giáo, còn mang những phẩm

chất của bậc thánh nhân. Nho giáo ca ngợi những minh quân như vua Nghiêu,

vua Thuấn:

Vua Nghiêu là người không bỏ sót người hiền tài, biết lắng nghe lời

bàn của dân chúng, dám bỏ ý riêng để theo ý chung, đối xử nhân hậu

với mọi người. Đó là vị vua anh minh mà đức hậu. Vua Nghiêu

truyền ngôi cho vua Thuấn đã thử tài vua Thuấn… Vua Thuấn vốn

có đức sáng giống vua Nghiêu, tính thâm trầm mà khôn ngoan, văn

vẻ mà sáng suốt, ôn hòa mà cung kính thật thà mà chất phác, thi hành

đạo anh minh, lại không quên truyền lại cho vua Vũ [37, tr.531].

Tuy Nghiêu, Thuấn là những nhân vật trong truyền thuyết, song về cơ

bản trong quan niệm của các nhà nho, thánh nhân không phải là những lực

lượng siêu nhiên, huyền bí với những phép thuật phi phàm mà là những con

55

người trần tục, như Vũ, Thang, Văn, Võ, Chu Công... Đó là những con người

tài năng tột đỉnh, đạo đức tối cao, có công lao, ân huệ to lớn với dân chúng.

Về tài năng, như trong sách Trung Dung miêu tả, đó là những người có thể

“sánh được với trời”, vì họ gồm hết các đức tính thông minh, khoan nhu,

cương nghị, tề chỉnh, cẩn mật, uyên bác như trời, danh tiếng khắp nơi...

Về đạo đức, thánh nhân là người khoan dung độ lượng, cuộc sống giản

dị, tiết kiệm, không ham danh vọng, không màng chức tước mà sẵn sàng tìm

người hiền đức hơn mình để nhường ngôi (Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn là

người hiền, Thuấn lại nhường ngôi cho Vũ là người hiền). Đó là những con

người không chỉ hiếu kính với mẹ cha mà còn hết lòng vì việc công. Vua Vũ

vì lo công việc trị thủy giúp dân mà 8 năm làm việc liên tục bên ngoài, 3 lần

đi qua cửa nhà mình mà không vào.

Thánh nhân là mẫu hình cao nhất trong quan niệm của các nhà Nho.

Tất cả những người được Khổng Tử ca ngợi là thánh nhân đều thuộc về quá

khứ, không người nào đương thời được ông coi là thánh. Bản thân ông cũng

không dám nhận mình là bậc thánh hay bậc nhân. Người học trò ông yêu quí

và kỳ vọng nhiều nhất là Nhan Hồi cũng chỉ được nhận xét là giữ trọn lòng

nhân trong ba tháng.

Có thể nói, trong quan niệm của Nho giáo, chủ thể trị quốc không

đồng nhất với “kẻ sĩ”, “quân tử”, “thánh nhân” bởi không phải “quân tử”

hay “kẻ sĩ” nào cũng là những người cầm quyền, song đã là người cầm

quyền trị quốc thì trước hết phải có những phẩm chất của những mẫu hình lý

tưởng đó mới có thể cai trị thiên hạ, làm gương và cảm hóa dân chúng.

Những phẩm chất của các mẫu hình lý tưởng trong quan niệm của các nhà

sáng lập Nho giáo là cơ sở để họ giáo dục, đào tạo con người nói chung,

người cầm quyền cai trị đất nước nói riêng. Đây cũng là những căn cứ của

các nhà nho sau này dựa vào để yêu cầu các nhà cầm quyền trong xã hội làm

gương phấn đấu.

56

Tóm lại, qua nghiên cứu sự hình thành và những nội dung cơ bản của

tư tưởng trị quốc trong Nho giáo Trung Quốc, có thể rút ra một số nhận

định sau:

Một là, mặc dù trong tư tưởng trị quốc của Nho giáo Trung Quốc ra đời

trong bối cảnh lịch sử cách ngày nay hơn 2000 năm, song nó chứa đựng

những giá trị lịch sử không thể phủ nhận. Tiêu biểu là:

Thứ nhất, về mục tiêu trị quốc, Nho giáo đã nhận thấy vai trò quan

trọng của đời sống vật chất, của đạo đức và việc giáo dục đạo đức đối với việc

duy trì ổn định trật tự xã hội. Nó quan tâm đến việc tạo lập các mối quan hệ

giữa người với người từ gia đình đến xã hội theo những chuẩn mực cụ thể, đề

cao trách nhiệm của con người trong cuộc sống.

Thứ hai, về đường lối trị quốc, mặc dù đề cao vai trò của đạo đức, chủ

trương dùng đức để trị quốc, song Nho giáo cũng đã nhận thấy vai trò và tầm

quan trọng nhất định của pháp luật, chủ trương việc trị quốc phải có pháp luật

và hình phạt khi cần thiết. Mặt khác, trong tư tưởng trị quốc Nho giáo, dân

được coi trọng, được quan tâm, chăm lo, làm cho giàu lên cả về vật chất và

tinh thần. Nó chú trọng đồng thời cả lương thực, binh lực, tài năng, trí tuệ,

đạo đức của con người, niềm tin của con người vào chủ thể trị quốc, coi niềm

tin (chữ tín) này là quan trọng nhất. Nho giáo đã nhận thấy được vai trò quan

trọng của dân, xem dân là gốc của nước.

Thứ ba, về chủ thể trị quốc, Nho giáo hướng đến những mẫu người lý

tưởng như kẻ sĩ, đại trượng phu, quân tử, thánh nhân. Nó yêu cầu người trị

quốc, tham gia chính sự phải là những con người có đạo đức, có tài năng,

được đào tạo và không ngừng nỗ lực tự tu dưỡng. Đó còn phải là những con

người vì dân, biết dưỡng dân, giáo dân, sai khiến dân hợp thời và làm cho dân

tin. Nó phê phán, lên án người cầm quyền xa dân, phản dân, độc ác, tàn bạo,

hoang dâm vô đạo.

57

Hai là, bên cạnh những giá trị cần được ghi nhận, khẳng định, tiếp thu

để phát triển, tư tưởng trị quốc của Nho giáo Trung Quốc không tránh khỏi

những hạn chế bởi hoàn cảnh thời đại:

Thứ nhất, xã hội lý tưởng trong quan niệm về mục tiêu trị quốc của Nho

giáo phản ánh những mơ ước của các nhà nho trong bối cảnh lịch sử đầy hỗn

loạn song nó mang tính ảo tưởng, chưa có cơ sở kinh tế - xã hội hiện thực của

nó. Xã hội đại đồng trong mong ước của các đại biểu Nho giáo, như có người

nhận định, là một dạng của chủ nghĩa xã hội không tưởng phương Đông.

Thứ hai, trong quan niệm về đường lối trị quốc, có lúc các tác giả Nho

giáo tỏ ra mâu thuẫn và sai lầm khi bàn về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp

luật, giữa việc làm giàu và việc thực hành nhân nghĩa, quan niệm “không nên

xem tài sản là lợi ích” mà chỉ “nên xem nhân nghĩa là lợi ích” trong đạo trị

quốc [37, tr.36]. Mặc dù nhận thấy vai trò của đời sống vật chất song về cơ

bản, Nho giáo coi trọng “vi nhân” hơn “vi phú”; nhận thấy sự cần thiết của

pháp luật và hình phạt nhưng Nho giáo nhấn mạnh, đề cao đến mức tuyệt đối

hóa vai trò của “đức” mà chưa thấy hết vai trò, vị trí quan trọng của “pháp”.

Thứ ba, trong quan niệm về chủ thể trị quốc, Nho giáo chủ yếu nhấn

mạnh và đề cao vai trò của nam giới với những mẫu hình lý tưởng được vẽ ra

mà chưa nhận thức và quan tâm đúng mức đến vai trò, đóng góp to lớn, quan

trọng của phụ nữ. Đôi chỗ, học thuyết ấy còn thể hiện sự coi thường phụ nữ,

nhất là trong các giai đoạn Hán Nho, Tống Nho sau này. Mặt khác, học thuyết

ấy cũng chưa đánh giá đúng mức vai trò quan trọng của tuổi trẻ trong xã hội,

nó đề cao, coi trọng người già và tri thức kinh nghiệm hơn sự đổi mới, sáng

tạo đột phá.

2.3. TƯ TƯỞNG TRỊ QUỐC CỦA NHO GIÁO VIỆT NAM

2.3.1. Vài nét về sự du nhập tư tưởng trị quốc Nho giáo vào Việt Nam

Trung Quốc là một đất nước rộng lớn. Từ thế kỷ thứ III trước công

nguyên cho đến thế kỷ XVIII, nhiều triều đại phong kiến Trung Quốc thay

58

nhau xâm lược hòng cướp nước ta, đô hộ, bóc lột nhân dân ta. Năm 218 trước

công nguyên, Tần Thủy Hoàng đã sai Hiệu úy Đồ Thư chỉ huy 50 vạn quân

chia thành 5 đạo tiến xuống phía Nam. Quân Tần đã tiến vào xâm lược nước

Văn Lang. Cuộc kháng chiến của nhân dân Tây Âu và Lạc Việt rất ngoan

cường, mạnh mẽ chống quân Tần. “Quân Tần phải phơi thây, máu chảy, hàng

mấy chục vạn” [111, tr.48]. Người Tây Âu dưới quyền chỉ huy của Thục

Phán. “Giữa vua Hùng và Thục Phán đã có lúc xung đột, chưa phân thắng

bại” [111, tr.49] nhưng khi quân Tần đến xâm lược thì vua Hùng và họ Thục

ở gần nhau đã liên minh lại, “hai bên chấm dứt xung đột, cùng chiến đấu

chống ngoại xâm” [111, tr.49]. Lúc cuộc chiến đấu chống quân Tần ấy thắng

lợi, “Thục Phán với tư cách là người chỉ huy chung đã được thay thế Hùng

Vương làm vua, đặt tên nước mới là Âu Lạc” [111, tr.49] ra đời vào khoảng

năm 208 trước công nguyên [111, tr.49]. Nước Âu Lạc tồn tại đến năm 179

trước công nguyên thì rơi vào ách đô hộ của nhà Triệu, mở đầu một thời kỳ

lịch sử đen tối, đầy đau thương và uất hận trong lịch sử nước ta thường được

gọi là thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc kéo dài từ năm 179 trước công

nguyên. Đến năm 905, với cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ, lật đổ nền đô

hộ của đế chế Đường, giành được quyền độc lập tự chủ của nhân dân ta, thời

Bắc thuộc mới chấm dứt hoàn toàn.

Cùng với kẻ thù xâm lược, Nho giáo nói chung, tư tưởng trị quốc nói

riêng đã được du nhập vào đất nước Âu Lạc do tổ tiên chúng ta tạo lập nên.

Nho giáo được kẻ xâm lược dùng làm công cụ nô dịch và đồng hóa nhân dân

ta về tư tưởng và tinh thần. Nho giáo du nhập Việt Nam trong hoàn cảnh lịch

sử nói trên và lúc đầu là nhằm mục đích phục vụ quân xâm lược.

Tư tưởng trị quốc Nho giáo du nhập Việt Nam và có những biến đổi

nhất định là do yếu tố:

Một là, yếu tố đầu tiên chi phối, làm biến đổi nội dung tư tưởng trị

quốc Nho giáo khi du nhập Việt Nam chính là thực tiễn xây dựng, phát triển

59

của dân tộc ta qua các thời kỳ lịch sử. Rõ ràng, với tư cách một học thuyết,

Nho giáo cùng tư tưởng trị quốc của nó muốn tồn tại và ăn sâu bám rễ trên

mảnh đất mới mà nó du nhập thì buộc nó phải có những sự thay hình đổi dạng

nhất định. Chính nhu cầu thực tiễn của quá trình xây dựng đất nước ở mỗi giai

đoạn qui định việc tiếp nhận những gì và thải loại điều gì để phục vụ cho nhu

cầu ấy. Chính vì thế, tư tưởng trị quốc Nho giáo khi vào Việt Nam tất yếu có

sự biến đổi đáng kể.

Bước sang kỷ nguyên độc lập tự chủ từ cuối thế kỷ X, Phật giáo Việt

Nam phát triển rất mạnh, có ảnh hưởng đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống

xã hội, nhất là về chính trị, tư tưởng, đạo đức, văn học. Đinh Bộ Lĩnh sau khi

đánh thắng 11 sứ quân cát cứ đã lên làm vua vào năm 968, nhà sư Ngô Chân

Lưu được làm tăng thống (một chức tương tự như cố vấn mọi mặt trong triều

đình). “Khi Lê Hoàn làm vua, nhà sư Đỗ Thuận giúp triều đình mọi việc về

đối nội và đối ngoại. Đời nhà Lý, các nhà sư Vạn Hạnh, Tử Lộ… làm quốc

sư”[25, tr.500,501] Các chức vụ đó nói lên vị trí quan trọng của các nhà sư,

đồng thời chứng tỏ Phật giáo chiếm giữ vai trò to lớn trong triều đình và trong

đời sống chính trị xã hội.

Nhưng từ cuối thế kỷ XV trở đi, Phật giáo suy yếu dần. Đến cuối đời

Trần, Nho giáo đã lấn át Phật giáo. Vào thời Lê sơ, Nho giáo chiếm vị trí độc

tôn trong đời sống chính trị, tư tưởng và trở thành quốc giáo ở Việt Nam [24,

tr.21]; [111, tr.333]. Đó là sự biến đổi to lớn, quan trọng về vai trò, vị trí của

Nho giáo đối với đời sống tư tưởng, chính trị xã hội trong mối tương quan

giữa nó với Phật giáo. Có sự biến đổi nói trên là vì trong thời kỳ này, giai cấp

phong kiến thống trị còn là giai cấp đang lên, giữ vai trò tích cực trên vũ đài

chính trị, đã tìm thấy những yếu tố hợp lý trong Nho giáo, và trên thực tế, học

thuyết ấy cũng thể hiện vai trò của nó trong việc củng cố triều đình, ổn định trật

tự xã hội. Tư tưởng trị quốc Nho giáo từ chỗ là công cụ của giai cấp thống trị

ngoại bang dùng để nô dịch người dân bản địa thì giờ đây được các triều đại

60

phong kiến Việt Nam chủ động tiếp thu, vận dụng bởi nó cũng phần nào đáp

ứng nhu cầu thực tiễn trong những thời kỳ lịch sử nhất định. Tuy nhiên, những

giai đoạn lịch sử sau đó cho thấy, khi chế độ phong kiến Việt Nam bước vào

giai đoạn khủng hoảng, suy tàn và bất lực trước sự xâm lược của chủ nghĩa tư

bản phương Tây thì tư tưởng trị quốc Nho giáo càng bộc lộ rõ sự bất lực của nó

trước những đổi thay của thời đại. Lúc đó, những chủ trương, giáo điều cũ kỹ,

lạc hậu trong tư tưởng trị quốc Nho giáo lại được các nhà Nho bảo thủ và triều

đình thủ cựu dùng làm chỗ dựa để bảo vệ cho địa vị của mình.

Hai là, sự lan truyền, ảnh hưởng tác động qua lại giữa các trào lưu tư

tưởng trong lịch sử nhân loại là vấn đề mang tính qui luật. Tri thức, văn hóa,

tư tưởng của con người ở đâu, bao giờ cũng mang tính phổ biến của toàn nhân

loại, chứ không thể bị giới hạn trong một phạm vi nào đó. Tư tưởng trị quốc

Nho giáo có nội dung phong phú cũng theo quy luật chung đó. Bên cạnh đó,

cùng khoảng thời gian Nho giáo du nhập Việt Nam còn có những dòng tư

tưởng khác mà tiêu biểu là Phật giáo và Đạo giáo cũng được truyền vào. Giữa

những học thuyết đó, tuy khác nhau về nội dung, mục đích cũng như vị trí, vai

trò song cũng ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau. Vì thế, chúng đan xen,

thâm nhập vào nhau nên học thuyết này mang những dấu ấn nhất định của

học thuyết kia và sự phân biệt rạch ròi là điều rất khó.

Ba là, sự tiếp thu và bổ sung, lược bỏ, vận dụng của các nhà nho trong

mỗi giai đoạn lịch sử cũng là nhân tố quan trọng làm nên những biến đổi của

tư tưởng trị quốc Nho giáo khi vào Việt Nam. Rõ ràng, những nhà nho là đại

biểu cho giới trí thức nước ta thời phong kiến có vai trò quan trọng đối với

lịch sử tư tưởng dân tộc. Họ chính là những người học theo sách vở của các

thánh hiền Nho giáo, được đào luyện theo kinh điển đạo Nho một cách khá hệ

thống và bài bản. Đội ngũ nho gia thời phong kiến ở nước ta bao gồm từ

những nhà giáo, kẻ sĩ đến các tướng lĩnh, quan lại và nhiều bậc vua chúa đã

tiếp thu Nho giáo Trung Quốc. Bằng chứng hiển nhiên không ai có thể phủ

61

nhận được điều ấy là tại Văn miếu Quốc Tử Giám, Trường Đại học đầu tiên,

nơi đào tạo ra những tiến sĩ của nước ta có thờ Khổng Tử - ông tổ của Nho

giáo. Đội ngũ nho gia Việt Nam không chỉ tiếp thu Nho giáo Trung Quốc, mà

còn lược bỏ và thêm vào đó không ít quan điểm, chủ trương mới khiến cho

Nho giáo cũng như tư tưởng trị quốc của Nho giáo Việt Nam có những sắc

thái riêng. Tuy nhiên, mỗi người do năng lực cá nhân, do lập trường tư tưởng

và sự nhạy bén trước hiện thực lịch sử đất nước ở mỗi thời kỳ mà họ tiếp thu,

vận dụng những nội dung không giống nhau trong tư tưởng trị quốc Nho giáo.

Sự lược bỏ hay bổ sung, thêm bớt những gì từ hiện thực cuộc sống vào tư

tưởng trị quốc Nho giáo của mỗi người cũng không giống nhau. Chính vì thế,

cùng một giai đoạn lịch sử, nhất là ở những thời kỳ nhiều biến động, nhà nho

tiến bộ, có công lao với đất nước và lịch sử tư tưởng dân tộc rất nhiều, nhưng

những nhà nho bảo thủ, thậm chí phản động cũng không ít.

Do sự tác động đan xen của các yếu tố trên mà Nho giáo nói chung, tư

tưởng trị quốc Nho giáo nói riêng khi du nhập Việt Nam đã có sự biến đổi,

làm cho tư tưởng trị quốc trong Nho giáo ở Việt Nam có những nét riêng biệt

nhất định chứ không hoàn toàn chỉ là “vay mượn”, “sao chép”, “thích nghi”...

như có người nhận định.

2.3.2. Một số nội dung cơ bản của tư tưởng trị quốc trong Nho giáo

Việt Nam

Một là, về mục tiêu trị quốc trong quan niệm của Nho giáo Việt Nam.

Có thể nói, quốc gia độc lập, thái bình, giàu mạnh, trường tồn là mục

tiêu trị quốc mà các đại biểu Nho giáo Việt Nam hướng tới. Điều đó được thể

hiện qua những áng thơ văn bất hủ, để lại ấn tượng sâu sắc cho muôn đời sau.

Dưới thời Lý - Trần, Nho giáo từng bước thể hiện vai trò của nó, mặc

dù Phật giáo vẫn chiếm ưu thế. Những yếu tố của tư tưởng trị quốc Nho giáo

được vận dụng nhằm mục tiêu giữ gìn, khẳng định nền độc lập dân tộc. Trong

Nam quốc sơn hà, bản Tuyên ngôn độc lập thứ nhất của dân tộc, khẳng định

62

nước Nam của chúng ta là một Tổ quốc có chủ quyền, có minh đế, không một

kẻ thù nào được xâm phạm nếu không muốn bị đánh cho thất bại thảm hại.

Tác giả khẳng định nước Nam được xây dựng từ trong quá khứ, đó là một đất

nước có chủ nhân, người chủ đó là một hoàng đế. Trong lịch sử Trung Hoa,

hoàng đế là một vị vua của một nước lớn mạnh, hùng cường, là “thiên tử”

được nhiều nước nhỏ và vua của nước nhỏ đó ở xung quanh thần phục. Các

vua nước nhỏ thì không được gọi, không được xưng là hoàng đế, chỉ được

gọi, được xưng là vua, hoặc vua của nước chư hầu. Thậm chí, có vua nước

nhỏ trong lịch sử phải chịu nhục làm con tin, làm kẻ hầu hạ cho vua, hoàng đế

của nước lớn mạnh. Như vậy, lịch sử đã chứng tỏ vai trò, uy phong của hoàng

đế cao đến tột đỉnh so với vua của một nước nhỏ. Tác giả Nam quốc sơn hà

khẳng định nước Nam đã được xây dựng tự quá khứ lịch sử và đây là nước lớn

mạnh, hùng cường có hoàng đế đứng đầu, oai phong vĩ đại không thua kém gì

những hoàng đế của Trung Quốc. Ở đây, tác giả của nó đã góp phần khẳng

định nước Nam của chúng ta được tổ tiên của chúng ta xây dựng nên và có

hoàng đế oai phong đứng đầu, nhà nước ấy, hoàng đế đứng đầu nhà nước ấy sẽ

lãnh đạo, chỉ huy quân dân cả nước sẵn sàng đập tan quân xâm lược.

Ở thời Trần, một vị vua, một tác giả quan trọng khác là Trần Nhân

Tông cũng nói về nhiệm vụ xây dựng Tổ quốc Việt Nam. Trong tác phẩm có

tựa đề Tức sự (I), Trần Nhân Tông viết: “Xã tắc hai phen chồn ngựa đá/ Non

sông nghìn thuở vững âu vàng” [125, tr.204]. Ở đây, quân vương họ Trần đã

góp phần khẳng định đất nước của chúng ta được xây dựng, nó được vững

chắc và đẹp như cái âu bằng vàng trong trường kỳ lịch sử. Nghĩa bóng của hai

chữ “âu vàng” là cơ đồ của bậc đế vương, là thế lực của quốc gia. Tức là quân

vương, một nhà Nho giáo Việt Nam khẳng định và ước mong đất nước Việt

Nam đã được xây dựng sẽ tồn tại, rực rỡ mãi mãi. Trần Quang Khải, một

quan đại thần, vị tướng tài ba thời Trần cũng bàn về xây dựng đất nước Việt

Nam. Trong một bài Đường thi dạng ngũ ngôn tứ tuyệt, Trần Quang Khải

63

viết: “Chương Dương cướp giáo giặc/ Hàm Tử bắt quân thù/ Thái bình nên

gắng sức/ Non nước ấy nghìn thu” [125, tr.212]. Ông kêu gọi nhân dân cả

nước trong hoàn cảnh hòa bình giành được từ cuộc chiến đấu đánh đuổi quân

xâm lược, mọi người cần nỗ lực nhiều hơn nữa để xây dựng đất nước trường

tồn mãi mãi trong lịch sử.

Trong thời Lê sơ, sau cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược

thắng lợi, Nguyễn Trãi - người anh hùng dân tộc văn võ song toàn - được nhà

vua, anh hùng dân tộc Lê Lợi giao cho viết bản Bình Ngô đại cáo. Văn kiện

lịch sử này được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai, sau Nam quốc sơn hà.

Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo là làm lời cho vua Lê Lợi bá cáo với đồng

bào cả nước cuộc chiến đấu chống giặc Minh xâm lược đã toàn thắng. Theo

bản tuyên ngôn độc lập này thì, nhân dân ta đã anh dũng, mưu lược tiến hành

kháng chiến và giành được thắng lợi. Khi đất nước sạch bóng quân thù, nhà

vua tuyên bố: “Một thiên đại định tạo thành công nghiệp vô song” [137, tr.81-

82]. Câu này chỉ hành động, việc làm của Lê Lợi đã thành công lớn, mở ra

một sự nghiệp vĩ đại xây dựng đất nước sau hòa bình.

Như đã nói, Nguyễn Trãi thừa lệnh của Lê Lợi, viết Bình Ngô đại cáo

cho thấy việc trị quốc có mục đích “cốt ở yên dân và đội quân cứu nước do

ông tập hợp, đoàn kết lại để cùng nhau chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và Nhà

nước Đại Việt, “Quân cứu nước trước cần trừ bạo” [137, tr.77] để “lấy toàn

dân làm cốt mà cho dân được nghỉ/… Xã tắc do đó được yên/ Non sông do đó

đổi mới/ Càn khôn đã bĩ mà lại thái/ Nhật nguyệt đã mờ mà lại trong/ Để mở

nền thái bình muôn thuở/ Để rửa nỗi sỉ nhục ngàn thu” [137, tr.81,82]. Nho

giáo Việt Nam xác định về mục tiêu trị quốc là như vậy, tất cả đều mong dân

được an lành, tổ quốc được độc lập, đất nước được hòa bình, và rửa được “nỗi

sỉ nhục ngàn thu” của người dân một quốc gia bị xâm lược. Tìm hiểu lịch sử

dân tộc, có ai trong chúng ta lại không thương yêu Tổ quốc và nhân dân của

mình phải chịu tủi cực, bị sỉ nhục khi đất nước bị ngoại bang xâm lược. Khi

64

kẻ thù xâm lược Tổ quốc ta, đô hộ, áp bức bóc lột đồng bào ta, nhân dân ta

phải khốn khổ trăm bề và chịu tủi hận vô cùng. Mỗi con người, mỗi quốc gia

dân tộc, lẽ ra phải được độc lập, tự do, sống hạnh phúc. Nhưng khi đất nước

bị xâm lược thì các thành viên, con dân của nó mất hết những quyền cơ bản,

chính đáng của con người. Chẳng hạn, thời kỳ nhà Minh xâm lược Đại Việt,

vua Lê Lợi, lúc ấy là thủ lĩnh, linh hồn của cuộc kháng chiến chống xâm lược

phải xưng là thần, phải thừa nhận Tổ quốc của mình chỉ là một quận như cách

gọi của ngoại bang, và tỏ ra “sợ hãi cúi đầu kính dâng lời” lên kẻ cướp nước

mình để xin có lỗi thì được xá, có tội thì được tha, và được như vậy thì xin

“tạc dạ nhớ ơn, khắc xương ghi đức. Thực lòng quy thuận; hết sức tỏ trung.

Dâng biểu xưng thần, dám nguyện hầu phiên trọn chức… dâng biểu kính tâu,

tỏ lời trần tạ” [137, tr.116]. Lê Lợi, người anh hùng của dân tộc ta phải xin

cầu phong như thế với kẻ xâm lược. Chính vì vậy, tư tưởng trị quốc của Nho

giáo Việt Nam có mục tiêu mở nền thái bình vĩnh viễn cho đất nước và rửa

nỗi bị sỉ nhục ngàn thu như đã dẫn ở trên là mang giá trị to lớn, đó là lý tưởng

chính trị xã hội cao cả.

Mục tiêu tư tưởng trị quốc của Nho giáo Việt Nam còn được Nguyễn

Trãi nói đến trong Ức Trai thi tập. Ở đấy, tại một bài thơ, Nguyễn Trãi viết:

“Biển Bắc năm ấy giết cá kình/ Yên ổn mà còn lo luyện quân sự/ … Lòng

thánh muốn để dân ngơi nghỉ/ Rốt cuộc phải xây dựng thái bình bằng văn trị”

[137, tr.289]. Quân sư của Bình Định vương nói rõ ở đây là sau khi chiến

thắng giặc Minh (“giết cá kình”), đất nước đã được hòa bình rồi, nhưng còn

tiếp tục lo luyện quân sự, mặt khác, tình cảm, suy nghĩ của vua (“Lòng

thánh”) muốn cho dân được nghỉ ngơi, nên tất yếu phải lo xây dựng văn hóa

(“văn trị”) cho nhân dân hưởng thụ.

Bước sang thế kỷ XVI, triều đình phong kiến khủng hoảng. Trong bối

cảnh đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm, một nhà nho “Ngang trời dọc đất, cùng lòng

Chu Tế tâm tư/ Suy trước biết sau, học lối Nghiêu Phu môn hộ”, với cuộc

65

sống ẩn dật gần dân, cảm nhận rõ nỗi đau khổ của dân trong thời biến loạn

cũng mơ ước về một xã hội thái bình, thịnh trị. Xã hội lý tưởng thể hiện qua

thơ văn của ông là một xã hội yên bình, không có chiến tranh loạn lạc với vua

sáng tôi hiền. Ông phê phán gay gắt bọn quan tham như loài chuột bọ đục

khoét xương thịt nhân dân. Ông mơ ước và mong sao xã hội được như thời

Nghiêu Thuấn để làm người dân trong một đất nước thái bình.

Trong thời kỳ biến loạn xã hội ở cuối thế kỷ XVIII, Ngô Thì Nhậm đã

nhận thấy vai trò quan trọng của đời sống vật chất đối với người dân. Ông

xem hiện tượng dân phải ly tán, phiêu bạt từ nơi này đến nơi khác, dân không

thực hiện các chủ trương của triều đình, một bộ phận nổi lên làm giặc... trước

tiên là bởi đời sống thiếu thốn. Trong sách Xuân Thu quản kiến, thông qua

những nhận xét, đánh giá của ông về các việc làm của một số ông vua ở

Trung Quốc thời Xuân Thu cho thấy quan niệm của ông về điều này: “Sao mà

Trang Công lo việc nước nhầm lẫn đến nhường ấy. Thành phải có dân giữ,

dân phải có thóc mới sống được. Vào năm mất mùa dân đói, phải đi đong thóc

ở nước Tề, lại còn cần kíp đắp thành mà làm gì?” [129, tr.464]. Hay khi đề

cập đến công việc của Huyền Tông nhà Đường, ông nhận định: “Vua Huyền

Tông nhà Đường ưa dùng ngựa đẹp năm sắc mà vẫn không ngăn được quân

giặc ở Ngũ dương. Nước đã đói thì dân phải phiêu bạt, nhiều ngựa mà làm

gì?” [129, tr.464]. Theo ông, thiếu thốn là nguồn gốc của sự rệu rã trong

chính triều đình và sự mất an ninh ngoài xã hội. Do đó, ông chủ trương mọi

công việc của triều đình phải nhằm mục đích làm cho dân no đủ, quan lại

được sung túc. Các công việc phục vụ việc chinh chiến như đắp thành, mua

ngựa đều phải xếp ở hàng thứ yếu, chỉ nên thực hiện chúng sau khi đã đảm

bảo được đời sống của người dân. Theo ông, “Điều mấu chốt là hãy đem cái

tình trạng thiếu thốn và cái thực sự thiếu thốn mà nghiên cứu chỉnh lý lại đã.

Đó là cái tâm pháp làm chính trị của muôn đời” [129, tr.465]. Mặc dù vậy, xã

66

hội lý tưởng với vua thánh tôi hiền theo quan niệm của đạo Nho xuất hiện

hàng ngàn năm về trước vẫn là điều ông mong mỏi.

Hai là, về đường lối trị quốc trong quan niệm của Nho giáo Việt Nam.

Như lịch sử đã ghi chép rõ ràng, đất nước Việt Nam từ thời đại các vua

Hùng, dựa vào các tài liệu và những thành tựu nghiên cứu về thời đại Hùng

Vương, có thể đoán định có cơ sở rằng thời điểm ra đời của nhà nước Văn

Lang với tư cách là nhà nước sơ khai là vào khoảng thế kỷ VII đến thế kỷ VI

trước công nguyên. “Sự ra đời sớm của nhà nước Văn Lang (vào thời điểm

thế kỷ VII - thế kỷ VI trước công nguyên) dù còn sơ khai đã đánh dấu một

bước phát triển lớn lao có ý nghĩa thời đại trong lịch sử Việt Nam - mở đầu

thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc ta” [111, tr.47]. Lúc ấy

dân nước ta được gọi là “người Lạc Việt” [111, tr.47]. Theo tài liệu lịch sử

mới được công bố gần đây nhất và đã dẫn ở trên thì người Tây Âu sống trên

đất Văn Lang có mối quan hệ gần gũi với người Lạc Việt về kinh tế và văn

hóa, và thủ lĩnh của người Tây Âu là Thục Phán; trước cuộc xâm lược của

quân Tần vào Văn Lang, “vua Hùng và họ Thục đã xảy ra một xung đột kéo

dài chưa phân thắng bại”. Trong bối cảnh “cuộc xâm lăng của quân Tần xảy

ra ồ ạt” thì vua Hùng và họ Thục đã “chấm dứt xung đột, cùng chiến đấu

chống ngoại xâm. Kháng chiến thắng lợi, Thục Phán với tư cách người chỉ

huy chung đã được thay thế Hùng Vương làm vua, đặt tên nước là Âu Lạc…

Nước Âu Lạc là bước kế tục và phát triển cao hơn của nước Văn Lang và trên

một phạm vi rộng lớn hơn của người Lạc Việt và người Tây Âu” [111, tr.49].

Như thế là từ thuở khai quốc, tổ tiên người Việt đã thực thi một phương

thức trị quốc là liên minh trong chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc và đem lại thái

bình cho nhân dân.

Về cơ sở tư tưởng để chế định pháp luật trong thời kỳ phong kiến.

Trong sự nghiệp trọng đại trị quốc, Nho giáo Việt Nam tỏ ra thấy được vai trò

của pháp luật cũng như hình luật và cần phải thực thi pháp luật. Từ thời kỳ

67

nhà nước Văn Lang của vua Hùng được thành lập “vào khoảng thế kỷ VII -

VI trước công nguyên”. Thời kỳ này đã áp dụng luật “cha truyền con nối

ngôi” [111, tr.46,47], thời kỳ lịch sử ấy đã có văn bản mà sử sách Trung Quốc

gọi là “luật Việt khác luật Hán hơn 10 việc” [111, tr.47]. Sau đó, Thục Phán

đã dẹp bỏ bất bình xung đột với vua Hùng rồi liên minh với vua Hùng kháng

chiến chống kẻ thù chung. Cuộc kháng chiến đó thắng lợi:

Thục Phán với tư cách người chỉ huy chung đã được thay thế vua

Hùng làm vua, đặt tên nước mới là Âu Lạc. Quốc gia Âu Lạc ra

đời khoảng đầu thế kỷ III trước công nguyên. Mặc dù nước Âu

Lạc tồn tại không lâu, chỉ trong khoảng từ năm 208 đến năm 179

trước công nguyên, nhưng về các mặt vẫn tiếp tục được phát triển

trên cơ sở kế thừa những thành tựu đã đạt được thời Văn Lang

(của vua Hùng) [111, tr.49].

Thế có nghĩa là, từ thời Văn Lang, đến thời Âu Lạc, Nho giáo Việt

Nam đã và vẫn sử dụng luật pháp trong việc trị quốc.

Sau khi chấm dứt ngàn năm Bắc thuộc, bước vào quá trình xây dựng

quốc gia độc lập, tự chủ, các triều đại phong kiến Việt Nam từ Lý - Trần đến

Lê - Nguyễn đã chủ động tiếp thu, vận dụng những nội dung của đường lối trị

quốc Nho giáo để ổn định ngai vàng và tạo lập, củng cố chế độ phong kiến

trung ương tập quyền.

Dưới thời Lý - Trần, ảnh hưởng của Nho giáo trong lĩnh vực tư tưởng

chính trị - xã hội lúc này “biểu hiện rõ rệt nhất ở các vấn đề trung hiếu, đức

trị, thần quyền v.v...” và “Nho giáo được vận dụng bước đầu vào thực tiễn

chính trị trong nước. Nhưng cũng ở đây Nho giáo đã được cải biến, khiến cho

nhiều khái niệm của nó mang tính dân tộc và tính nhân dân ở mức độ nhất

định” [129, tr.161]. Ngay trong Chiếu dời đô và Nam quốc sơn hà, những tư

tưởng về mệnh trời, thiên thư của Nho cũng đã được viện dẫn. Mặt khác, để

củng cố quan hệ vua tôi, từ thời Lý đến thời Trần đều có tục mùa xuân hàng

68

năm vua tôi đến đền Đồng Cổ uống máu ăn thề, nguyện làm con hiếu thảo,

làm bề tôi trung. Bên cạnh đó, vai trò của dân và tầm quan trọng của vấn đề

dưỡng dân, giáo dân, dân tín cũng được triều đình nhận thức khá sâu sắc.

Nhiều vị vua quan thời kỳ này tỏ lòng thương yêu dân chúng, quan tâm đến

vấn đề dân sinh. Trong sách Đại việt sử ký toàn thư còn ghi lại nhiều sự kiện

lịch sử cho thấy điều đó, như việc xá thuế cho dân của Lý Thái Tổ, tư tưởng

“khoan hòa giúp đỡ trăm họ” của Lý Thường Kiệt, tư tưởng “khoan thư sức

dân” của Trần Quốc Tuấn, thái độ nhân từ của nhiều vị vua thời Trần với nô

tỳ và người dân nghèo khổ... Vấn đề lòng dân, ý dân, dân tâm cũng được các

vị vua thời kỳ này xem như những căn cứ để định hình nên những phương

châm, chủ trương chính trị của triều đình. Tuy nhiên, quan niệm về dân vẫn

chưa thoát khỏi những hạn chế của hệ tư tưởng phong kiến. Về cơ bản, họ vẫn

chỉ được xem là đối tượng được bề trên thương xót chứ không phải là chủ

nhân thực sự của đất nước.

Dưới triều Lê, vua Lê Thái Tổ trong bài thơ Đi đánh Điêu Cát Hãn trở

về qua đường đê Long Thủy có viết: “Mặc đường hiểm trở gian lao/ Gan vàng

dạ sắt tuổi cao sá gì/ Ngàn mây cũng quét phăng đi/ Vạn non chí lớn ngại chi

đạp bằng/ Mưu sâu gìn giữ biên phòng/ Yên bề non nước kế hằng dài lâu/ Lời

truyền bao thác hiểm sâu/ Coi như dòng thuận có đâu ngại ngùng” [90,

tr.116,117]. Ở đây đã nói lên biện pháp, con đường trị quốc một cách rất chi

tiết, cụ thể: lo việc biên phòng, giữ yên việc nước phải có ý chí, quyết tâm

vượt qua gian khó, phải có mưu lược lâu dài hữu hiệu.

Chủ trương thực thi phương thức trị quốc của Lê Lợi còn được Nguyễn

Trãi, quân sư xuất sắc của nhà vua, thể hiện trong văn kiện Bình Ngô đại cáo.

Trong bản tuyên ngôn về sự toàn thắng, chủ quyền của dân tộc này, Nguyễn

Trãi thể hiện một phương thức đấu tranh để giành thắng lợi và cũng là để trị

quốc của Lê Lợi là: “lấy đại nghĩa mà thắng hung tàn/ Lấy chí nhân mà thay

cường bạo” [137, tr.79]. Đây thiết nghĩ là một chủ trương, việc làm đúng và

69

đã đem lại kết quả khả quan. Nước ta là một nước nhỏ yếu, có nhưng không

nhiều quân hùng, tướng mạnh như của kẻ thù xâm lược thì càng phải chú

trọng, thực thi phương thức đấu tranh, trị quốc nói trên của Bình Định Vương

do quân sư xuất sắc nhất của ông thể hiện trong văn kiện quan trọng được coi

là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc.

Bàn về sức mạnh của dân và mối quan hệ giữa vua với dân, Nho giáo

Việt Nam còn chủ trương thực thi phương thức trị quốc cực kỳ quan trọng là

sử dụng, phát huy sức mạnh của nhân dân. Nguyễn Trãi, một nhà nho, một

chủ thể trị quốc trong Nho giáo Việt Nam, viết về Hồ Quý Ly. Ông nhận thức

được Hồ Quý Ly là nhân vật lịch sử vừa có công vừa có tội. Có công là vì

sáng lập ra triều Hồ thay thế triều đại nhà Trần khi triều đại nhà Trần đã trở

nên mục nát đi ngược lại với nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân và xu hướng

phát triển của lịch sử, của dân tộc. Có tội vì đã không biết sử dụng, đoàn kết,

tập hợp được lực lượng dân chúng nên dẫn đến thất bại. Có lẽ chính vì thế,

Nguyễn Trãi cùng với chủ tướng của ông là Lê Lợi đã chủ trương trong đấu

tranh đánh đuổi quân thù xâm lược để bảo vệ Tổ quốc và trị quốc làm cho đất

nước an lành thì phải biết sử dụng sức mạnh vĩ đại của nhân dân, “tin rằng

dân là như nước”, “Lật thuyền mới rõ dân như nước” [137, tr,281], nên lôi

kéo, đoàn kết được “dân chúng bốn phương”, làm cho “binh sĩ một dạ cha

con”, và thương yêu quân dân: “Ta lấy toàn quân làm cốt mà cho dân được

nghỉ” [137, tr.79]. Phương thức đấu tranh và trị quốc này đã góp phần làm

nên chiến thắng vĩ đại của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống quân

Minh xâm lược hồi thế kỷ XV, đem lại thái bình cho đất nước. Nho giáo Việt

Nam chú trọng áp dụng thực hành cả hình luật trong trị quốc. Vấn đề này đã

được Nguyễn Trãi viết rõ trong Lam sơn thực lục:

Vua (Lê Lợi) đến Đông đô… Phàm sĩ dân và quân nhân đến cửa

quân, đều tùy tài cao thấp cắt đặt làm các chức. Thưởng tước để

khuyến khích khiến người ta tự gắng, lại dùng hình phạt thêm vào

70

khiến người ta tự răn. Bởi thế ai nấy đều cảm kích nguyện hết sức

liều chết, cho nên đến đâu là lập được công ngay [137, tr.63].

Rõ ràng là hình luật và các phương thức khác được sử dụng trong việc

trị quốc nói ở đây đã đem đến kết quả mà chủ thể của nó mong muốn.

Con đường, cách thức trị quốc bằng “vương đạo” hay “bá đạo” cũng là

điều mà Nguyễn Bỉnh Khiêm ở thế kỷ XVI trăn trở. Qua những sự phân tích,

so sánh hai đường lối trị quốc ấy, ông nhận định, “bá đạo” là con đường của sự

xưng hùng xưng bá và là nguyên nhân dẫn đến những thảm cảnh xương chất

thành núi, máu chảy thành sông. Từ đó, ông lên án chiến tranh, phê phán chủ

trương dùng “bá đạo” mà chủ trương nhà cầm quyền muốn có được xã hội ổn

định, thái hòa phải dùng “vương đạo”. Nội dung cốt yếu của “vương đạo” trong

quan niệm Nho giáo là dùng đức trị quốc, lấy nhân nghĩa để cảm hóa người.

Tuy nhiên, nhân nghĩa trong quan niệm của ông không bó hẹp trong giới hạn

quan hệ huyết thống mà nó gắn liền với những ưu tư về cuộc sống của nhân

dân, của đất nước. Ông yêu cầu người cầm quyền phải lo lắng, quan tâm đến cả

những người dân nơi nhà nát xóm nghèo và nhắc nhở họ “Cổ lai quốc dĩ dân vi

bản/ Đắc quốc ưng tri tại đắc dân” [117, tr.28]. Các nhà nghiên cứu từng nhận

định, do cuộc sống gần dân, kế thừa được những tinh hoa tư tưởng dân tộc và

biết đúc kết kinh nghiệm lịch sử nên “ông đã xây dựng đường lối chính trị nhân

nghĩa, trong đó quyền lợi của vua phải gắn bó với quyền lợi của nhân dân và

phải lấy việc bảo đảm đời sống của dân làm cơ sở” [129, tr.360].

Sang triều Nguyễn, với việc giành được ngai vàng nhờ vào thế lực

ngoại bang và không có sự hậu thuẫn từ quần chúng nhân dân nên họ luôn lo

sợ mất ngôi. Đường lối trị quốc Nho giáo là chỗ dựa để vua quan nhà Nguyễn

củng cố địa vị thống trị của mình và các vua nhà Nguyễn đều trực tiếp tham

gia vào quá trình truyền bá Nho giáo, đào tạo nho sĩ. Song thứ Nho giáo làm

bệ đỡ tư tưởng cho triều đình Nguyễn không phải là Nho giáo sơ kỳ mà chủ

yếu là Hán Nho và Tống Nho với những tư tưởng “mệnh trời”, “tam cương”,

71

“tam tòng”, trung hiếu... khắc nghiệt. Họ dùng “mệnh trời” để biện minh cho

tính hợp lý của triều đại mình, lấy “tam cương”, “trung”, “hiếu”... để ràng

buộc bề tôi với triều đình. Điều đó được thể hiện qua rất nhiều thư tịch thời

kỳ này. Không chỉ các vua nhà Nguyễn mới khẳng định “Trời vì dân đặt ra

vua để thống trị” (Tự Đức), “Triều đình dạy chữ hiếu để làm người tôi trung”

(Thiệu Trị)... mà các nhà nho như Lý Văn Phức, Phạm Đình Hổ, Nguyễn Đức

Đạt... cũng tuyên truyền “Trái với vua chính là trái với trời” (Nguyễn Đức

Đạt). Những người nào dám hy sinh tính mạng cho triều đình thì được ca ngợi

là “biết cách chết, “chết khôn ngoan”... Khi đất nước từng bước rơi vào tay

của thực dân xâm lược phương Tây thì Nho giáo lại là chỗ dựa để biện minh

cho sự đầu hàng, thất bại của triều đình. Nhận định về Nho giáo thời kỳ này,

các nhà nghiên cứu cho rằng, “Nếu như Nho giáo Việt Nam trong một số triều

đại trước ít nhiều có tính chất tích cực và hợp thời, thì Nho giáo triều Nguyễn

đã trở thành hết sức tiêu cực và lỗi thời. Vì lỗi thời nên Nho giáo triều

Nguyễn thất bại trong việc ấn định trật tự xã hội và thất bại hoàn toàn trước

thử thách của lịch sử” [120, tr.528].

Ba là, về chủ thể trị quốc trong quan niệm của Nho giáo Việt Nam.

Bước vào quá trình xây dựng quốc gia phong kiến độc lập, tự chủ, để

thực hiện mục tiêu và đường lối trị quốc trên, các nhà nho Việt Nam cũng nêu

những yêu cầu về phẩm chất đối với người cầm quyền trị quốc cao nhất cùng

với đội ngũ quan liêu, quan lại của triều đình phong kiến.

Dưới thời Lý - Trần, các nhà nho, nhà tư tưởng thời kỳ này xem đạo

đức của nhà vua là yếu tố quan trọng hàng đầu để có thể xây dựng đất nước

thái bình, thịnh trị, nhân dân yên ổn. Do đó, họ khuyên người cầm quyền trị

quốc phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức, coi trọng việc giáo hóa nhân dân,

chuyên tâm vào công việc và xa lánh những cám dỗ của đời sống vật dục. Các

tư liệu lịch sử để lại cho thấy, những ông vua nhân từ, những tướng lĩnh

thương dân, vì nước, quan tâm đến vấn đề dân sinh được sử sách ngợi ca. Vạn

72

Hạnh và Đào Cam Mộc ca ngợi Lý Công Uẩn là người khoan thứ, nhân từ.

Văn bia chùa Linh Xứng ghi nhận Lý Thường Kiệt là người sáng suốt, khoan

hòa, nhân từ, giản dị.

Sử sách còn ghi, vua Lý Thái Tông là người luôn quan tâm đến đời

sống của dân chúng. Trong một bài thơ nói về thiền sư Tiniđalưuchi, sau khi

ca ngợi nhà sư nói trên, nhà thơ viết hai câu kết tỏ lòng mong ước “Bao giờ

được gặp mặt/ Cùng nhau bàn đạo huyền” [125, tr.46]. Nhà vua, nhà thơ và là

một chủ thể trị quốc, một tác giả Nho giáo Việt Nam này đã chứng tỏ ông có

quan hệ rất thân tình, quý trọng một nhà sư với tư cách một bề tôi, con dân

nước Việt, giữa ông vua và người dân ở đây thật sự gần gũi, không có gì xa

cách. Một bậc vua, chủ thể trị quốc, một tác giả Nho giáo Việt Nam như vậy,

tất góp phần tích cực vào việc trị quốc an dân. Vua Trần Minh Tông đã ban

hành nhiều chính sách để củng cố cơ nghiệp nhà Trần. Ông tỏ ra cứng rắn hơn

trong việc dùng sức mạnh để quét sạch các lực lượng quấy rối biên giới phía

Tây và phía Nam, bảo đảm bờ cõi Việt Nam yên ổn và vững mạnh. Tuy nhiên

về cuối triều Minh Tông, mâu thuẫn trong triều đình dần dần trở nên gay gắt,

ông không đủ sáng suốt, vì thế, chính ông cũng bị lôi kéo vào những vụ thanh

toán lẫn nhau trong cung đình, để sau này nhà vua phải hối hận, tỏ ra thương

người bị hại oan trái vô cùng. Tình thương người, tâm trạng ấy của ông được

ông bộc lộ qua bài Mưa đêm: “Giọt mưa tàu chuối tiễn đêm dài/ Hiu hắt đèn

thu trước ban mai/ Ba chục năm rồi lầm lỗi bấy/ Đành ôm sầu hận, lắng mưa

rơi” [125, tr.173,177]. Ông vua ở đây ân hận, thương nhớ người đã mất bởi sự

thiếu sáng suốt, lầm lỗi của mình. Trong tâm trạng và suy nghĩ ấy, ông thức

trắng đêm mưa, nghe từng giọt nước mưa rơi trên tàu chuối, đến ban mai, ông

nhìn ngọn đèn hiu hắt, rồi tưởng nhớ đến người vô tội bị thanh trừng từ ba

chục năm trước do ông thiếu sáng suốt, mắc sai lầm không kịp can ngăn, ông

ôm nỗi buồn, mối sầu hận và lắng nghe tiếng mưa rơi tiếp. Trong bài thơ

Đường dạng thất ngôn bát cú, viết để viếng một thiền sư mà ông thấy không

có chút nợ trần nào, ông hạ bút làm hai câu kết: “Kim cổ cùng nhau nay vắng

73

vẻ/ Viếng ai một khúc lệ đôi hàng” [125, tr.181]. Một ông vua rất thương yêu

một chân sư với tư cách bề tôi mới viết được nên câu thơ làm lay động tâm

hồn người đọc đến như thế. Qua đây, độc giả có cảm nhận quan hệ giữa nhà

vua và bề tôi có sự thân ái, yêu thương như quan hệ vợ chồng, cha con, anh

em trong gia đình, chứ không hề mang tính quan phương xa cách nhân dân.

Đến thời Lê sơ, chế độ phong kiến Việt Nam phát triển đến giai đoạn

cao của nó và Nho giáo lúc này chiếm lĩnh vị thế trong cung đình, ảnh hưởng

sâu sắc đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Vua Lê Lợi, một chủ thể trị quốc,

là người rất chú ý việc thương yêu, quý trọng dân trong sự nghiệp trị quốc.

Sau đây là một trong nhiều chi tiết chứng minh cho nhận xét khái quát trên về

đức độ của Bình Định Vương:

Vua (Lê Lợi) đến Đông đô. Trong ba ngày đầu, nhân dân kinh lộ và

các phủ, châu, huyện cùng các tù trưởng ở biên trấn đều tấp nập đến

cửa quân… Vua đem lòng thành để phủ dụ, úy lạo (thăm hỏi), bảo

cho họ biết lẽ thuận nghịch. Phàm sĩ dân và quân nhân đến cửa

quân, vua đều nhún lời hậu lễ mà đãi, đều tùy tài cao thấp cắt đặt

làm chức tước… Bởi thế ai nấy đều cảm kích “trước tình cảm, thái

độ của vua dành cho họ [137, tr.63].

Giữa vua và dân, sĩ, quân ở đây chỉ có các dấu hiệu thân ái, thương yêu,

quý trọng, ngoài ra không có phẩm chất nào, biểu hiện nào nói lên sự xa lạ,

ngăn cách cả.

Nguyễn Trãi, nhà nho tiêu biểu thời Lê sơ nêu yêu cầu đối với người

cầm quyền trị quốc cao nhất: “Người làm vua... phải để lòng nơi nhân nghĩa,

coi nhân nghĩa là chỗ đứng của mình” [56, tr.513]. Nhận thấy vai trò quan

trọng của dân, khẳng định họ không chỉ tạo nên sức mạnh to lớn cho cuộc

kháng chiến, là nguồn gốc sâu xa để kháng chiến thắng lợi mà “qui mô lớn

lao lộng lẫy, đều là sức lao khổ của quân dân” [137, tr.196]. Do đó, ông nhắc

nhở người cầm quyền phải “yêu nuôi nhân dân, để cho các nơi làng mạc

74

không có tiếng oán giận than sầu”. Ông khuyên triều đình không được sưu

cao thuế nặng mà phải chăm lo đến cái ăn cái học của dân, bởi “Đẹp cung thất

mà cao đài tạ, tất gây thói tục xa hoa; theo ý mình mà ức lòng người, tất đến

trăm năm oán giận” [137, tr.196].

Là một nhà nho, đồng thời là một trong những nhà vua tiêu biểu của

chế độ phong kiến nước ta, Lê Thánh Tông luôn quan niệm triều đình phải

thực thi đường lối nhân chính, dùng hiền tài để trị nước, quan tâm đến việc

đào tạo nhân tài. Trong quan niệm của ông, người làm vua trước hết phải có

đạo đức bởi sự thịnh suy của triều đại phụ thuộc rất lớn vào việc nhà vua có

đạo đức và thi hành đường lối nhân chính hay không. Tuy nhiên, người làm

vua không chỉ cần có đạo đức mà còn phải làm cho dân có cuộc sống no đủ.

Do đó, phải giảm nhẹ thuế khóa, trừ kẻ tàn bạo để bảo vệ dân.

Nguyễn Bỉnh Khiêm - nhà nho tiêu biểu ở thế kỷ XVI cũng yêu cầu người

cầm quyền thực hiện đường lối chính trị thân dân, lấy dân làm gốc. Điều đó phải

được biểu hiện thành chính sách cụ thể là chăm lo đời sống của dân; nhà vua

phải soi xét đến đời sống của “những người dân nơi nhà nát xóm nghèo”. Ông

nhắc nhở nhà cầm quyền “Yên bách tính thì yên trị đạo, Thất thiên kim chớ thất

nhân tâm” và khẳng định vai trò to lớn của dân: “Xưa nay nước lấy dân làm gốc,

Được nước là bởi lẽ được dân” (Cổ lai quốc dĩ dân vi bản, Đắc quốc ưng tri tại

đắc dân) [117, tr.28]. Trong quan niệm của các nhà nho tiêu biểu khác thời kỳ

này như Nguyễn Dữ, Phùng Khắc Khoan..., “dựa vào nhân, noi theo nghĩa” với

nội dung cơ bản là làm cho dân no đủ, yên ổn, đất nước thái bình, cũng được

xem là đường lối để cứu thời dẹp loạn. Họ mơ ước về một ông vua sáng, thực

hành nhân nghĩa, “ban ân trạch cho dân sinh, đưa tất cả cuộc đời vào cõi nhân

thọ” (Nguyễn Dữ), và tin tưởng nếu người cầm quyền thực hiện nhân nghĩa thì

sẽ “được trời quí, dân theo” (Phùng Khắc Khoan).

Tóm lại, qua việc tìm hiểu về quá trình du nhập, nội dung của tư tưởng trị

quốc trong Nho giáo Việt Nam, có thể rút ra một số nhận định khái quát sau:

75

Một là, Nho giáo nói chung, tư tưởng trị quốc Nho giáo nói riêng du

nhập Việt Nam những năm đầu công nguyên không phải theo con đường giao

lưu văn hóa bình thường mà có phần mang tính cưỡng bức bởi nó gắn với sự

xâm lược của đội quân viễn chinh phương Bắc. Tuy nhiên, bước vào thời kỳ

xây dựng quốc gia phong kiến độc lập, tự chủ, tư tưởng trị quốc Nho giáo đáp

ứng được những đòi hỏi nhất định của quá trình ấy nên nó được các triều đại

phong kiến Việt Nam chủ động tiếp thu, sử dụng.

Hai là, khi vào Việt Nam, Nho giáo cùng các nội dung của nó, trong đó

có tư tưởng trị quốc không còn nguyên dạng lúc ban đầu của Nho giáo tiên

Tần mà đã được nhào nặn qua thời Hán, Tống. Hơn nữa, dưới sự tác động của

nhiều nhân tố khác nhau mà khi du nhập Việt Nam, nó cũng có sự biến đổi để

có thể thích nghi và tồn tại trên mảnh đất mới, với những điều kiện, hoàn cảnh

mới. Những nội dung của tư tưởng trị quốc trong quan niệm của các nhà nho

Việt Nam tuy không phải là sự đoạn tuyệt, không liên quan gì tới Nho giáo

Trung Quốc, nhưng cũng không phải chỉ là sự tán dương, sao chép máy móc.

Do yêu cầu của đất nước trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể mà nó được tiếp

nhận, vận dụng và đồng thời được bổ sung thêm bằng tổng kết thực tiễn đất

nước cũng như truyền thống văn hóa của người dân bản địa. Chính điều đó

tạo nên những nét khác biệt trong tư tưởng trị quốc của Nho giáo Việt Nam:

Thứ nhất, quan niệm về xã hội lý tưởng trong mục tiêu trị quốc Nho

giáo vẫn là cơ sở, đóng vai trò định hướng cho mục tiêu chính trị của Nho

giáo Việt Nam qua các giai đoạn của thời kỳ xây dựng quốc gia phong kiến tự

chủ, song do lịch sử của dân tộc ta là lịch sử dựng nước gắn liền với giữ nước

nên vấn đề xây dựng quốc gia độc lập, thống nhất, ngang hàng với quốc gia

phương Bắc, khẳng định quyền tự chủ dân tộc là điều mà các triều đại cũng

như các nhà nho Việt Nam yêu nước mong mỏi.

Thứ hai, cũng chủ trương trị quốc bằng đường lối đức trị, lấy các chuẩn

mực đạo đức để cai trị xã hội, song trong quan niệm của Nho giáo Việt Nam,

76

những chuẩn mực và qui phạm đạo đức như nhân, nghĩa, trung, hiếu... đã

được bổ sung bằng các yếu tố của văn hóa truyền thống dân tộc nên nó gần

gũi với người dân hơn, ít khắt khe và khắc nghiệt hơn so với những qui phạm

đạo đức của Nho giáo thời Hán, Tống. Những nội dung của tư tưởng trị quốc

Nho giáo cũng là chỗ dựa và là cơ sở cho việc xây dựng chính sách khoa cử

đào tạo nhân tài và chế định pháp luật nhằm củng cố ngôi vua, ổn định trật tự

xã hội. Các bộ luật dưới chế độ phong kiến Việt Nam suy cho cùng vẫn là sự

thể hiện ý chí và là công cụ của giai cấp phong kiến thống trị, duy trì và bảo

vệ các quan hệ xã hội theo những chuẩn mực Nho giáo, nhưng do ảnh hưởng

của những yếu tố truyền thống dân tộc mà phần nào bớt đi tính chất khắc

nghiệt so với luật pháp Trung Hoa thời phong kiến.

Thứ ba, những yêu cầu về phẩm chất của người cầm quyền trong quan

niệm của các nhà nho Việt Nam qua các thời kỳ mặc dù cũng dựa trên các

chuẩn mực và yêu cầu của Nho giáo, song nó gắn với những yêu cầu, đòi hỏi

của đất nước trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Những người cầm

quyền gần dân, vì dân, biết đặt quyền lợi của đất nước, của dân tộc lên trên

hết, hy sinh vì độc lập dân tộc và sự tồn vong của giống nòi người Việt luôn

được sử sách ngợi ca và nhân dân tôn thờ, tưởng nhớ.

Tiểu kết chương 2

Tư tưởng trị quốc Nho giáo ra đời trong bối cảnh xã hội loạn lạc của

thời Xuân Thu - Chiến Quốc nhằm vãn hồi trật tự đương thời. Nội dung của

tư tưởng trị quốc trong Nho giáo Trung Quốc thể hiện qua những quan niệm

về mục tiêu, đường lối và chủ thể trị quốc cho thấy, nó hướng đến xây dựng

một mô hình xã hội lý tưởng, một xã hội tốt đẹp, ổn định, có trật tự và phải

thống nhất về một mối. Trong xã hội, dân được coi trọng, được quan tâm,

chăm lo, làm cho giàu lên cả vật chất lẫn tinh thần. Để xây dựng đất nước như

trên Nho giáo chủ trương trị quốc bằng đạo đức (đức trị), với chủ thể trị quốc

77

phải là những người có phẩm chất của những mẫu hình lý tưởng như kẻ sĩ, đại

trượng phu, quân tử, thánh nhân. Người trị quốc phải là những người có đạo

đức, phải vì dân, biết dưỡng dân và có khả năng bình ổn xã hội, đảm đương

được các công việc của quốc gia, xã tắc. Tuy nhiên các nhà nho cũng nhận

thấy bên cạnh đạo đức cần phải có pháp luật để phân định ngôi thứ và khi cần

thiết phải dùng hình phạt để duy trì trật tự xã hội trong vòng trật tự của lễ giáo

đạo Nho. Tư tưởng trị quốc Nho giáo bên cạnh những giá trị mang tính lịch

sử cần được ghi nhận cũng chứa đựng những mặt lỗi thời, hạn chế nhất định

như: xã hội lý tưởng mà các nhà nho hướng tới nó mang tính ảo tưởng, xa rời

thực tế, chưa có cơ sở kinh tế xã hội hiện thực của nó; về chủ thể trị quốc,

Nho giáo chưa thấy được vai trò của phụ nữ....

Khi vào Việt Nam, tư tưởng trị quốc Nho giáo có những đổi thay nhất

định do thực tiễn đất nước, ảnh hưởng của văn hóa truyền thống bản địa. Do

vậy, tư tưởng trị quốc trong Nho giáo Việt Nam không đồng nhất với tư tưởng

trị quốc trong Nho giáo Trung Quốc. Do sự tác động của nhiều nhân tố khác

nhau mà tư tưởng trị quốc trong Nho giáo Việt Nam cũng mang những nét

riêng nhất định. Ngày nay, Nho giáo tuy không còn giữ địa vị của hệ tư tưởng

thống trị nhưng những dấu ấn và ảnh hưởng của nó chưa phải đã hết. Do đó,

việc nghiên cứu, tìm hiểu những ảnh hưởng của nó đối với quá trình xây dựng

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của chúng ta hôm nay là điều cần thiết.

78

CHƯƠNG 3

ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRỊ QUỐC NHO GIÁO ĐỐI VỚI

VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN

3.1. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ

NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Nhà nước pháp quyền là vấn đề đã được đề cập từ lâu trong lịch sử tư

tưởng nhân loại. Về đại thể, có thể hiểu Nhà nước pháp quyền “không phải là

kiểu nhà nước mà là một mô hình nhà nước, mà ở đó, bên cạnh những đặc

điểm chung nó còn những đặc điểm riêng” [110, tr.151]. Pháp quyền là “Hệ

thống pháp luật tiêu biểu cho quyền lực của một nhà nước, một chế độ” [151,

tr.1320]. Vậy nhà nước pháp quyền là nhà nước có hệ thống pháp luật tiêu

biểu cho quyền lực của một nhà nước, một chế độ. Hệ thống pháp luật này

phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bảo đảm cho nhân dân thực hiện

quyền dân chủ của mình. Không có pháp quyền được thực thi nhờ pháp luật

và hình luật bảo đảm thì nhân dân không thể thực hiện được quyền dân chủ.

Chính vì thế, “Nhà nước pháp quyền là một khái niệm có thể được hiểu ở hai

mức độ: a) với tính chất là học thuyết, là tư tưởng; b) với tính chất là thực tiễn

tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, thực thi dân chủ” [143, tr.61].

Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng

đã chính thức nhấn mạnh và khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và từng bước

hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam” [14, tr.56]. Trong Hội nghị này,

Đảng mới nói “Nhà nước pháp quyền Việt Nam” là “Nhà nước của nhân dân,

do nhân dân, vì nhân dân” [14, tr.56], chưa nói tính chất, tính từ “xã hội chủ

nghĩa” của nhà nước ấy. Quan điểm về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của Đảng ngày càng được

thể hiện rõ trong các kỳ Đại hội tiếp theo. Tại Đại hội VIII, Đảng Cộng sản

79

Việt Nam chủ trương: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam” [15, tr.45]; Đảng nói rõ: nhà nước ấy là “nhà nước xã hội chủ

nghĩa của dân, do dân, vì dân” [15, tr.44]. Như vậy, đến Đại hội VIII họp

tháng 6-1996, khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” được Đảng

ta chính thức sử dụng (trước đó, Đảng ta dùng khái niệm “Nhà nước pháp

quyền Việt Nam”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX ghi rõ:

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa… là công cụ chủ

yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp

quyền của dân, do dân, vì dân... Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp

luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có

nhiệm vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật [16, tr.131,132]

Đại hội X của Đảng khẳng định rõ hơn, Nhà nước pháp quyền ở Việt

Nam là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,

vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp

tác với nhân dân các nước trên thế giới” [17, tr.68].

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng tiếp tục khẳng định:

“Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do

nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền

tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí

thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo” [18, tr.85].

Và, trong Đại hội XII gần đây nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam một lần

nữa nhấn mạnh: “Tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,

xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh; hoàn thiện hệ

thống pháp luật” [19, tr.79].

Ngoài những đặc điểm mang tính phổ biến của nhà nước pháp quyền

nói chung thì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn có một số

đặc điểm mang tính riêng biệt của nó, thể hiện ở dấu hiệu nó có bản chất giai

cấp công nhân, tính nhân dân rộng, tính dân tộc sâu sắc, tất cả quyền lực nhà

nước đều thuộc về nhân dân, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân,

80

là nhà nước dân chủ triệt để. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, tổ chức và hoạt động theo

nguyên tắc tập trung dân chủ; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân

công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện

các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần được xây dựng,

đó là một tất yếu lịch sử. Tính tất yếu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam được quy định bởi những yếu tố sau đây:

Thứ nhất, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là bước phát triển tiến

bộ của lịch sử. Trước nó, nhà nước là của một thiểu số có sức mạnh nhất

trong xã hội, cai trị, lãnh đạo và bắt buộc mọi thành viên trong xã hội phải

phục tùng nó. Nhưng, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự là nhà

nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Được xây dựng và hoàn

thiện, nó sẽ là nhà nước ưu việt, tiến bộ nhất trong lịch sử nhân loại.

Thứ hai, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước quản lý xã

hội bằng pháp luật, bảo đảm tính tối thượng của pháp luật, đòi hỏi mọi người

dân trong xã hội từ người đứng đầu nhà nước đến dân thường cùng phải chấp

hành pháp luật, cùng bình đẳng trước pháp luật không phân biệt nam nữ, dân

tộc, tôn giáo, đảng phái, giai cấp, tầng lớp trong xã hội.

Thứ ba, lãnh đạo nhà nước này là Đảng Cộng sản - đảng của giai cấp công

nhân đại diện cho quyền lợi chính đáng của toàn dân tộc, bao gồm những con

người ưu tú, tiên tiến nhất trong lực lượng tiên tiến, cách mạng của cả nước.

Thứ tư, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có khả năng đoàn kết,

tập hợp được toàn bộ dân tộc thành một khối vững chắc để xây dựng, bảo vệ

Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thứ năm, sự tồn tại của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không

nhằm mục đích duy trì sự tồn tại vĩnh viễn của nhà nước, mà đó chỉ là bước

quá độ để đi đến xóa bỏ giai cấp, nhà nước, làm cho xã hội tiến lên giai đoạn

81

tiến bộ, văn minh nhất trong lịch sử không còn giai cấp, không còn nhà nước,

trong đất nước, xã hội lúc nhà nước ấy còn tồn tại có khoa học, kỹ thuật, công

nghệ hết sức phát triển, xã hội làm ra của cải vật chất, tinh thần nhiều, nhanh,

chất lượng cao, con người phát triển toàn diện.

Bởi những sự tiến bộ, ưu việt đó của nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa nên toàn dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tất yếu sẽ

xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong quá trình

xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần đảm bảo các

yêu cầu cơ bản sau:

Một là, tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân, nhà nước phải

phục vụ nhân dân, tôn trọng nhân dân và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc

tế [19, tr.171].

Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công, phối

hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp,

hành pháp, tư pháp. Trong đó, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập

Hiến và lập pháp; Chính phủ điều hành việc thực thi theo Hiến pháp và pháp

luật; các cơ quan tư pháp khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật của nhà nước đã

ban hành [19, tr.172].

Ba là, mọi cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội chỉ được hoạt động trong

khuôn khổ, giới hạn của Hiến pháp và pháp luật [19, tr.176].

Bốn là, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng chủ trương, đường lối, không

bằng chỉ thị, mệnh lệnh, không bao biện làm thay Nhà nước [19, tr.180].

Để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do

nhân dân, vì nhân dân, hướng đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,

công bằng, văn minh” đòi hỏi phải có sự phấn đấu nỗ lực của toàn hệ thống

chính trị và xem xét ảnh hưởng của những tư tưởng, lý thuyết chính trị xã hội

trong lịch sử, trong đó có tư tưởng trị quốc Nho giáo để từ đó rút ra những bài

học kinh nghiệm, xác định phương hướng và tìm kiếm giải pháp nhằm phát

huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của chúng.

82

3.2. THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRỊ QUỐC NHO

GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ

NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.2.1. Những ảnh hưởng tích cực của tư tưởng trị quốc Nho giáo

đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

hiện nay

Một là, tư tưởng trị quốc Nho giáo có ảnh hưởng và ý nghĩa tích cực

trong việc giáo dục con người sống có đạo đức, tinh thần trách nhiệm với gia

đình, cộng đồng trong một xã hội ổn định, có trật tự, kỷ cương.

Như đã luận chứng, mục tiêu trị quốc theo quan niệm, chủ trương của

Nho giáo là “khiến cho đất nước yên ổn”. Xã hội ổn định, có trật tự là mong

ước của các nhà nho, và để có một xã hội như thế thì đòi hỏi phải coi trọng

giáo dục đạo đức, làm cho con người sống có đạo đức, có tinh thần trách

nhiệm với gia đình, cộng đồng. Mặc dù Nho giáo không hoàn toàn phủ nhận

vai trò của pháp luật và tầm quan trọng của hình phạt nhưng trong suy nghĩ

của các thánh hiền đạo Nho, khiến cho người ta sợ hãi mà tuân theo sẽ không

lâu bền bằng việc dùng đức để cảm hóa. Trong quá trình xây dựng nhà nước

pháp quyền hiện nay, pháp luật giữ vị trí tối thượng trong việc điều chỉnh các

quan hệ xã hội, song pháp luật cũng không phải là công cụ vạn năng bởi vẫn

có những cái mà pháp luật không thể vươn tới. Thực tế cho thấy, trong cuộc

sống con người không chỉ chịu sự điều chỉnh bởi pháp luật mà còn bị chi phối

bởi các qui phạm khác như đạo đức, tôn giáo, tập quán, lệ làng, hương ước...

mà các qui định pháp luật không thể bao quát hết. Mặt khác, Nho giáo luôn

đặt con người trong các mối quan hệ ràng buộc từ gia đình đến xã hội và chú

trọng việc giáo dục con người tuân thủ theo những qui định về trách nhiệm,

bổn phận trong từng mối quan hệ cụ thể. Thái độ sống vô trách nhiệm, vô lễ,

vô luân là điều xa lạ trong quan niệm của các nhà nho. Trong xã hội ngày nay,

quan hệ giữa người với người ngày càng đa dạng, phong phú và luôn vận

động, biến đổi không ngừng song trong từng mối quan hệ cụ thể vẫn cần có

83

những yêu cầu, nghĩa vụ của mỗi bên và việc thực hiện nó với tinh thần trách

nhiệm là điều cần thiết. Nếu tạm gạt qua những mặt lỗi thời, hạn chế thì

những quan niệm, chủ trương về một xã hội ổn định, có trật tự, con người

sống có đạo đức, tinh thần trách nhiệm với gia đình, cộng đồng... được các

nhà nho và nhiều triều đại phong kiến nước ta tiếp thu, sử dụng, vẫn có ảnh

hưởng và thể hiện những ý nghĩa tiến bộ nhất định của nó trong việc xây dựng

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

Thực tế ngày nay cho thấy, công cuộc đổi mới mạnh mẽ của đất nước,

toàn cầu hóa và hội nhập ngày càng sâu rộng, hiện đại hóa và đô thị hóa diễn

ra nhanh chóng cùng với sự phát triển kinh tế thị trường đã làm thay đổi nhiều

mặt của đời sống đạo đức. Văn hóa ứng xử trong các mối quan hệ từ gia đình,

đến nhà trường, xã hội có chiều xuống cấp.

Trong gia đình, quan hệ giữa các thành viên có phần trở nên lỏng lẻo.

Do những nhận thức cực đoan trong những quan niệm về tự do, dân chủ nên

những truyền thống nền nếp, kỷ cương kính trên nhường dưới... có phần suy

giảm. Những căng thẳng, bất hòa, xung đột và đổ vỡ trong các mối quan hệ

thân tình, ruột thịt có chiều hướng gia tăng. Những biểu hiện của sự thiếu

gương mẫu trong đạo đức, lối sống của cha mẹ và người lớn tuổi làm tổn

thương nhân cách của lớp trẻ. Tệ nạn xã hội ảnh hưởng, làm băng hoại những

giá trị truyền thống và thuần phong mỹ tục, hủy hoại nhân phẩm con người.

Bên cạnh đó là vấn đề bạo lực gia đình diễn biến phức tạp mà nhiều khi chỉ

người trong cuộc mới hiểu. Vì những toan tính ích kỷ bởi lợi ích kinh tế đã

khiến nhiều kẻ lôi kéo cả những người thân trong gia đình, họ hàng vào con

đường làm ăn phi pháp. Tình nghĩa yêu thương, thủy chung giữa các thành

viên, quan niệm hiếu, nghĩa, sự gương mẫu, trách nhiệm có phần suy giảm,

làm mất dần tính bền vững của các mối quan hệ gia đình. Sự suy thoái của

văn hóa, đạo đức, lối sống ngay trong môi trường gia đình ảnh hưởng rất lớn

đến sự hình thành, hoàn thiện nhân cách của con người, nhất là lớp trẻ. Theo

84

một cuộc điều tra ở thành phố Đà Nẵng, “số trẻ em phạm pháp có nguồn gốc

gia đình làm nghề buôn bán bất hợp pháp chiếm 51,94%, gia đình có người

phạm tội hình sự chiếm 40%; 30% số trẻ phạm tội có bố, mẹ hoặc cả hai

nghiệm hút ma túy” [36, tr.64].

Trong nhà trường, vấn đề giáo dục tri thức là cần thiết và rất quan trọng

trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang phát triển mạnh

mẽ, song vấn đề giáo dục đạo đức lại có phần bị buông lỏng. Nhiều hiện

tượng đạo đức tiêu cực nảy sinh trong mối quan hệ thày trò, bè bạn làm những

người có lương tri day dứt. Bạo lực học đường trở thành vấn đề nhức nhối

trong xã hội, diễn biến ngày càng phức tạp nhưng chưa có cơ chế hữu hiệu để

hạn chế, khắc phục, xử lý. Quan niệm về chuẩn mực đạo đức của lớp trẻ có

phần đáng lo ngại. Một đề tài nghiên cứu tiến hành trên 874 sinh viên từ các

trường đại học tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy:

41% sinh viên cho rằng không nhất thiết phải sống cao thượng vì

đôi khi cao thượng lại là mù quáng; 36% sinh viên đồng tình rằng

làm việc theo lương tâm sẽ bị thua thiệt; có 32% sinh viên chấp

nhận hành vi vô ơn, không xem đó là chuyện phi đạo đức và 28% số

người được hỏi có tư tưởng trả thù, báo oán [36, tr.65].

Trong lao động, giao tiếp và quan hệ xã hội, những nhận thức và hành

vi lệch chuẩn, thậm chí vô đạo đức nảy sinh. Thực tế cho thấy, việc tìm kiếm

lợi ích cá nhân trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập là điều hợp lý và

cần được khuyến khích, bởi đó là một trong những động lực thúc đẩy con

người tìm tòi, khám khá để có những sáng tạo đột phá. Song nếu làm giàu

bằng mọi giá, theo đuổi lợi ích cá nhân bằng mọi thủ đoạn, bất chấp luật pháp

và đạo lý lại là điều nguy hiểm. Mặt khác, nhiều khi do tuyệt đối hóa lợi ích

cá nhân mà người ta sẵn sàng gây tổn hại cho lợi ích của người khác, của

cộng đồng và xã hội. Thái độ thờ ơ, vô cảm, dửng dưng trước nỗi đau của

người khác, những hành vi ứng xử thiếu tính nhân văn và thiếu vắng lòng

85

nhân ái, ý thức trách nhiệm, bổn phận với cộng đồng là điều đáng lo ngại.

Ngày xưa, người ta chỉ coi trọng đạo đức, tuyệt đối hóa nhân nghĩa mà không

dám nói đến lợi, không coi trọng việc làm giàu bởi xem đó là công việc của

tiểu nhân thì trái lại, giờ đây lại xuất hiện trào lưu coi trọng đồng tiền, xem lợi

ích vật chất là mục tiêu cứu cánh, là lẽ sống của cuộc đời. Khi lợi ích vật chất

và đồng tiền thắng thế luật pháp và đạo lý thì nó sẽ có sức mạnh tàn phá ghê

gớm. Nhiều hiện tượng tiêu cực, làm đảo lộn các giá trị, đổi trắng thay đen

đẩy con người trên đà trượt dốc về đạo đức, lối sống và rơi vào vòng tội lỗi.

Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Đạo đức, lối sống có mặt xuống cấp

đáng lo ngại... Môi trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành

mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số loại tội

phạm có chiều hướng gia tăng...” [19, tr.125].

Thực trạng trên cho thấy, nếu tạm gạt đi những yếu tố lỗi thời thì mục

tiêu xây dựng xã hội ổn định mà ở đó con người có đạo đức, coi trọng giáo

dục đạo đức ngay từ trong gia đình của tư tưởng trị quốc Nho giáo vẫn thể

hiện ý nghĩa tiến bộ của nó. Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là chúng ta

lặp lại những chuẩn mực và khuôn mẫu của cương thường, lễ giáo đạo Nho

của hàng nghìn năm về trước mà phải là những giá trị đạo đức mới, những

chuẩn mực của đạo đức cách mạng theo yêu cầu mới của đất nước và thời đại

hiện nay.

Hai là, tư tưởng trị quốc Nho giáo có ảnh hưởng và ý nghĩa tích cực

trong việc xây dựng chính quyền của dân, do dân, vì dân.

Trong tư tưởng trị quốc của Nho giáo, chủ trương nhằm bảo đảm cho

người dân có đời sống vật chất, tinh thần tương đối đầy đủ, coi trọng việc

“dưỡng dân” có ảnh hưởng và ý nghĩa tích cực nhất định của nó. Khổng Tử

biểu dương, đồng thời nhắc nhở người cầm quyền phải chú trọng việc chăm

nuôi dân, và chính ông cũng rất quan tâm việc đó. Mạnh Tử, người bổ sung,

phát triển Khổng giáo, tỏ ra phê phán, lên án mạnh mẽ người cầm quyền “thi

86

hành chính sách hung bạo, đang tâm để dân chết đói”. Hầu chuyện vua Tề

Tuyên Vương, Mạnh Tử đã nói: “bậc vua hiền sáng suốt nên định mức sao

cho dân trên đủ phụng dưỡng cha mẹ, dưới đủ nuôi vợ con; năm được mùa thì

cả năm no đủ, năm mất mùa thì không đến nỗi chết đói chết rét”. Mạnh Tử

nói thêm và nhấn mạnh, nhà vua phải “chăm lo cho người già được mặc áo

lụa, được ăn thịt cá, trăm họ thoát khỏi cảnh đói rách”, làm được như vậy thì

trị quốc mới được thịnh vượng [37, tr.560,561].

Để đất nước được yên ổn, Nho giáo không chỉ chủ trương phải làm cho

dân giàu lên, mà còn yêu cầu phải “giáo hóa dân”. Nho giáo có quan niệm,

chủ trương thực thi sự bình đẳng trong công việc dạy học, giáo dục nhân dân.

Khổng Tử nói dứt khoát: “Người quân tử dạy người chẳng phân biệt người

thiện kẻ ác” [37, tr.455]. Theo ông, người có nhu cầu học tập, được giáo dục

là người muốn có được hiểu biết mới, bổ túc tri thức đều là người có suy nghĩ

đúng, vì thế, ông chủ trương dạy học, giáo dục cho bất kể ai có nhu cầu,

không kể giàu nghèo, thiện ác, sang hèn, thuộc tầng lớp thượng lưu quý phái

hay tiện dân. Theo đây, người dân trong nước được quyền bình đẳng trong

học tập và giáo dục. Tức là chăm lo cả đời sống vật chất và tinh thần cho dân

chúng được Nho giáo chú tâm thực hiện và coi đó là một trong những mục

tiêu của công việc trị quốc. Đây quả đúng là một giá trị tích cực, cần ghi nhận,

tiếp thu để vận dụng trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

Chủ trương dưỡng dân, phú dân, giáo dân như trên trong đường lối trị

quốc của Nho giáo cũng đã được nhiều nhà nho và các triều đại phong kiến

nước ta tiếp thu, vận dụng sáng tạo. Nếu tạm bỏ qua những hạn chế không

tránh khỏi do hoàn cảnh lịch sử ra đời, thì tinh thần của những quan niệm, chủ

trương đó có ý nghĩa tiến bộ của nó. Lúc sinh thời, Hồ Chí Minh cũng có sự

quan tâm đặc biệt đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Người

nhắc nhở đội ngũ cán bộ: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại

87

đến dân, ta phải hết sức tránh” [79, tr.64]. Theo Người, đấu tranh xã hội, làm

cách mạng là vì dân, cho dân: “Chúng ta được tự do, độc lập rồi mà dân cứ

chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị

của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ” [79, tr.175]. Vì thế, Hồ

Chí Minh có chủ trương và kêu gọi thực hiện kế hoạch kiến quốc, cụ thể là

phải: “Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm

cho dân được học hành” [79, tr.175]. Trước lúc ra đi vào cõi vĩnh hằng gặp

các lãnh tụ thiên tài của nhân dân lao động toàn thế giới, Hồ Chí Minh di chúc

cho Đảng: “cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa,

nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân” [84, tr.612].

Suy ngẫm về những lời dạy trên đây của Hồ Chí Minh về chăm lo đời

sống vật chất, tinh thần, văn hóa cho nhân dân, chúng ta sẽ thấy, chủ trương

dưỡng dân, phú dân, giáo dân trong dường lối trị quốc của Nho giáo có giá trị,

vừa mang tính lịch sử, vừa có ý nghĩa thời đại. Tinh thần của đường lối, chủ

trương ấy cần ghi nhận và có thể vận dụng sáng tạo trong quá trình xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân

dân ở Việt Nam hiện nay. Chúng ta trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng cần có hành động hiệu quả nhất nhằm

mục tiêu làm cho đất nước yên ổn để phát triển bền vững, nhanh, mạnh hơn

nữa “góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” [84, tr.614] như

lời Hồ Chí Minh đã viết trong bản Di chúc mang giá trị lịch sử để lại cho toàn

Đảng, toàn dân, toàn quân Việt Nam. Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang

lãnh đạo, tổ chức, quản lý, tập hợp toàn quân, toàn dân cùng chung sức xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhiệm vụ lịch sử này

không thể không vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn

minh, ngày càng phồn vinh, hạnh phúc” [20, tr.57].

Một nội dung khác nữa trong tư tưởng trị quốc Nho giáo thể hiện giá trị

và ảnh hưởng tích cực, thể hiện ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng chính

88

quyền của dân, do dân, vì dân hiện nay là chủ trương làm cho dân tín, coi

trọng lòng dân, ý dân. Trong xã hội thời Khổng Tử, giai cấp nô lệ chiếm số

đông và thân phận thấp kém, bị tầng lớp thống trị coi khinh, xem thường,

nhưng ông lại dành cho họ tình yêu thương, coi họ, khẳng định họ là con

người: “Khổng Tử đã nâng thân phận nô lệ lên địa vị con người” [37, tr.312].

Mạnh Tử sống, làm quan và trước tác trong giai đoạn đầu của xã hội phong

kiến Trung Quốc. Lúc này giá trị của quần chúng nhân dân đã được nâng cao

hơn giá trị người nô lệ, nhưng vẫn thuộc tầng lớp hạ lưu, dưới đáy của xã hội.

Trong bối cảnh lịch sử chính trị xã hội mà quần chúng nhân dân lao động bị

khinh miệt, coi rẻ ấy, song Khổng Tử cùng các môn đồ của ông vẫn nhận ra

và khẳng định quần chúng nhân dân có vai trò quan trọng, đứng trên cả nhà

vua, vì họ quyết định sự tồn tại vững vàng của đất nước. Trong tư tưởng trị

quốc của Nho giáo rất coi trọng dân và chủ trương phải làm như thế nào để

dân tin theo người lãnh đạo quốc gia, người lãnh đạo quốc gia phải biết đoàn

kết, tập hợp nhân dân.

Trong học thuyết trị quốc của Nho giáo, quần chúng nhân dân có vị trí đặc

biệt. Nho giáo nhấn mạnh trong đường lối trị quốc: “dân là gốc của nước, gốc

bền thì nước yên” [142, tr.258]; “được lòng dân là được nước, mất lòng dân là

mất nước” [37, tr.32]; “nếu nhân dân không còn tín phục nữa thì nước không thể

đứng vững nổi” [37, tr.348]. Vì thế, Mạnh Tử đã khẳng định có sức thuyết phục

rằng: “Dân quý nhất, rồi đến xã tắc… sau mới đến nhà vua” [37, tr.791].

Quan niệm, tư tưởng về vai trò hết sức quan trọng có ý nghĩa quyết

định của quần chúng nhân dân trong đường lối trị quốc của Nho giáo có

những điểm tương đồng với tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã từng

luận giải về vai trò lịch sử của nhân dân. Trong tác phẩm Dân vận, Hồ Chí

Minh viết:

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là

trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công

89

việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân

cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm

lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân [81, tr.232].

Trong quá trình lãnh đạo toàn quân, toàn dân Việt Nam xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, tất yếu Đảng ta phải

hướng dẫn quần chúng nhân dân thực thi nhiều nhiệm vụ chính trị, thực tiễn.

Vì vậy, những giá trị tích cực từ quan niệm, chủ trương về đường lối trị quốc

của Nho giáo như đã bàn luận trên đây khẳng định vai trò, vị trí của dân. Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang được xây dựng hiện nay là

nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân như Đảng ta đã khẳng định

nhiều lần có không ít dấu hiệu tương đồng với tư tưởng trị quốc trong Nho

giáo khi bàn về thuyết trọng dân. Thuyết trọng dân này với quan niệm, chủ

trương tiến bộ trong đó đương nhiên là có ảnh hưởng tích cực trong đời sống

xã hội và hoạt động chính trị, thực tiễn tại Việt Nam hiện nay. Trong quá trình

xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam lúc này, chúng ta

cần chú trọng phát huy giá trị và ảnh hưởng tích cực từ tư tưởng trị quốc của

Nho giáo đã bàn luận ở trên.

Xây dựng một nền chính trị vì dân, lấy dân làm gốc đã trở thành tư

tưởng quán xuyến trong toàn bộ đường lối chính trị của Chủ tịch Hồ Chí

Minh cũng như của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, quan niệm về việc xây

dựng một nền chính trị vì dân trong quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng,

Nhà nước ta thực sự đã có những thay đổi về chất, ở đó, dân không chỉ là gốc,

là nền móng của nước mà dân còn là chủ thực sự của đất nước: “Chính phủ ta

là một Chính phủ đầy tớ của nhân dân, một lòng, một dạ phục vụ nhân dân”

[85, tr.227,228]. Tư tưởng này tiếp tục được Đảng ta quán triệt một cách sâu

sắc trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo, quản lý của mình. Trong Văn kiện Đại

hội XII, Đảng ta nhấn mạnh:

90

Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tất cả quyền

lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của

Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện

vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân

tham gia ý kiến [19, tr.169].

Chủ trương quan tâm và thực thi đạo đức, pháp luật trong tư tưởng trị

quốc của Nho giáo cũng nhằm làm cho dân tin vào triều đình, tin người cầm

quyền. Nho giáo tỏ ra rất quan tâm đến giá trị đạo đức và không phủ nhận

việc cần thiết phải thực thi pháp luật trong những trường hợp nhất định. Theo

Nho giáo, phải: “Học pháp điển của người xưa, bàn việc theo thể chế thì

chính sự không nhầm lẫn”. “Xử kiện phải có lòng thương xót kẻ có tội… Phải

nắm vững pháp luật… Trong xét xử khi nghe đôi bên nguyên, bị, không được

thiên vị bên nào” [142, tr.349, 365]. Vẫn theo tác giả Nho giáo thì trong trị

quốc phải coi trọng pháp luật, hình phạt. Nho giáo cho rằng có trường hợp

dùng đạo đức trong hoạt động trị quốc không đạt hiệu quả nên phải chú ý

dùng phép thường tức là những phép tắc của pháp luật. Qua đây giới nghiên

cứu cùng đông đảo độc giả thấy đường lối trị quốc của Nho giáo với việc kết

hợp thực thi giá trị đạo đức với sử dụng pháp luật, hình luật vừa mang tính

nhân đạo, vừa mang tính công minh, công bằng. Đấy là một chủ trương,

đường lối trị quốc tiến bộ, hợp lý. Lúc này Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam đang được xây dựng, đó là nhà nước quản lý, điều hành xã

hội theo Hiến pháp và pháp luật, đó còn là nhà nước tiến bộ, đạo đức, văn

minh. Vì thế, giá trị, ảnh hưởng tích cực về đạo đức và pháp luật trong tư

tưởng trị quốc của Nho giáo cần được lực lượng xây dựng nhà nước kiểu mới,

tiến bộ nhất trong lịch sử tiếp thu và phát huy. Tư tưởng trị quốc của Nho giáo

chủ trương phải tiến tới xây dựng một đất nước, xã hội coi trọng pháp luật,

thực thi pháp luật nghiêm minh, thì tại tư tưởng Hồ Chí Minh cũng nhiều lần

nhấn mạnh việc ban hành và áp dụng pháp luật trong đời sống xã hội. Ngày

91

18-6-1919, từ Pari, Hồ Chí Minh gửi cho Tổng thống Mỹ một bức thư. Trong

thư ấy, Hồ Chí Minh gửi kèm theo bản Yêu sách của nhân dân An Nam. Tại

bản Yêu sách này, Người yêu cầu Chính phủ Pháp: “Cải cách nền pháp lý ở

Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những

đảm bảo về mặt pháp luật như người châu Âu... Thay chế độ ra các sắc lệnh

bằng chế độ ra các đạo luật” [78, tr.441]. Trong bài văn vần Việt Nam yêu cầu

ca, Hồ Chí Minh đề nghị tám điều, trong đó: “Hai xin phép luật sửa sang/

Người Tây người Việt hai phương cùng đồng”, và: “Bảy xin hiến pháp ban

hành/ Trăm đều phải có thần linh pháp quyền” [78, tr.472].

Nho giáo còn chủ trương xây dựng quân đội đủ mạnh để ngăn chặn

xâm lược và bảo vệ Tổ quốc. Khi được hỏi về quản lý chính trị quốc gia,

Khổng Tử nói phải có ba điều. Một trong số ba điều đó là: “đầy đủ binh lực”

[37, tr.347]. Về vấn đề quân đội, quốc phòng, Khổng Tử còn cảnh báo: “Dùng

dân chưa được huấn luyện quân sự đi đánh giặc, ấy gọi là bỏ dân” [37,

tr.390]. Trong Kinh thi, tác phẩm do Khổng Tử san định có luận điểm về vai

trò to lớn, quan trọng của quân đội: “Vua Văn Vương nổi giận, chỉnh đốn

binh sĩ, chặn đứng sự xâm lấn của nước Cử (một nước cổ xưa), chẳng những

củng cố vững chắc lâu dài nền chính trị của nhà Chu mà còn làm gương cho

thiên hạ”. Mạnh Tử đọc câu đó cho vua Tề Tuyên Vương nghe, rồi ông bình

luận: “Đây là nết dũng của vua Văn Vương. Chỉ nhờ một cơn nổi giận đích

đáng mà vua Văn Vương đưa lại sự yên bình cho cả trăm họ” [37, tr.566]. Tử

Cống hỏi về quản lý chính sự quốc gia, Khổng Tử giải đáp phải làm cho đầy

đủ nhiều vấn đề quan trọng, trong đó, phải có “đầy đủ binh lực” [37, tr.347].

Cụm từ “đầy đủ binh lực” có nghĩa là đầy đủ số lượng quân đội và vũ khí

trang bị cho lực lượng quân đội đó. Chủ trương xây dựng, củng cố quân đội

được trang bị vũ khí đầy đủ như thế không chỉ đúng trong hoàn cảnh lịch sử

xã hội chiếm hữu nô lệ và xã hội phong kiến nổ ra chiến tranh liên miên, nước

lớn dùng vũ lực xâm lược, tiêu diệt nước nhỏ yếu, nước nhược tiểu buộc phải

92

huy động sức mạnh của mình để chống kẻ thù đến cướp nước. Trong xã hội

còn phân chia thành giai cấp thì chủ quyền của mỗi quốc gia luôn tiềm ẩn khả

năng bị xâm phạm, và để bảo vệ Tổ quốc thì một yêu cầu cần thiết là xây

dựng, củng cố, tăng cường lực lượng quân đội đến mức đủ mạnh, có khả năng

đẩy lùi, đập tan các thế lực ngoại bang xâm lược. Nếu không có lực lượng

quân đội như thế thì thành quả kiến thiết quốc gia bị đe dọa. Lịch sử thế giới

đã có nhiều thực tế sinh động chứng minh điều đó.

Vậy là tác giả Nho giáo nói chung, người sáng lập tư tưởng trị quốc

trong đó nói riêng tuy bàn về quân đội, quốc phòng không nhiều như các vấn

đề khác, nhưng rõ ràng là cũng không ít. Qua những luận điểm về quân đội,

quốc phòng trong tư tưởng trị quốc của Nho giáo, có thể thấy Khổng Tử có sự

coi trọng lực lượng quân đội, quốc phòng để bảo vệ đất nước. Theo ông, một

đất nước phải xây dựng lực lượng quân đội, quốc phòng đến mức đủ mạnh để

bảo vệ triều đại. Chủ trương ấy, thiết nghĩ, nó không chỉ có giá trị trong thời

đại Khổng Tử mà nó còn có ý nghĩa chính trị thực tiễn cho đến hôm nay.

Quan niệm, chủ trương xây dựng quân đội và làm cho lực lượng này trở nên

vững chắc trong đường lối trị quốc của Nho giáo cũng có nét tương đồng với

tư tưởng Hồ Chí Minh. Người sáng lập Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân

dân Việt Nam đã nhiều lần nói về vai trò, nhiệm vụ quan trọng của quân đội.

Sau đây, chỉ đơn cử một lần Người nói về xây dựng quân đội và trọng trách

lịch sử của quân đội. Ngày 19-9-1954, trong cuộc gặp cán bộ chiến sĩ Đại

đoàn Quân tiên phong tại Đền Hùng (Phú Thọ), Hồ Chí Minh nói:

Phải ra sức học tập kỹ thuật, chiến thuật quân sự để xây dựng lực

lượng quân đội mạnh… Nhiệm vụ giải phóng, xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc ta (của quân đội) còn rất nặng nề và quan trọng. Các cháu

đã thấy: Các vua Hùng đã có công dựng nước/ Bác cháu ta phải

cùng nhau giữ lấy nước [82, tr.59].

93

Việt Nam đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong

bối cảnh lịch sử, quốc tế còn các tập đoàn người, quốc gia có lợi ích khác

nhau, mâu thuẫn, xung đột với nhau, nhiều lúc phải giải quyết bất đồng quan

điểm, chính kiến, lợi ích bằng súng đạn, vũ khí hủy diệt con người hàng loạt

thì việc củng cố, tăng cường lực lượng quân đội, quốc phòng đến mức đủ

mạnh là tất yếu, nhằm bảo vệ chủ quyền đất nước nói chung và để thực thi

được nhiệm vụ cho ra đời nhà nước tiến bộ nhất trong lịch sử nói riêng. Bởi

thế, giá trị và ảnh hưởng của chủ trương xây dựng lực lượng quân sự, quốc

phòng trong tư tưởng trị quốc của Nho giáo cần được chúng ta tham khảo,

học tập vừa để bảo vệ đất nước, dân tộc Việt Nam vừa để có an ninh chính trị,

hoạt động sáng tạo tại nước ta. Chúng ta có thể tiếp thu, phát huy ảnh hưởng

tích cực từ quan niệm chủ trương xây dựng quân đội đủ mạnh tại đường lối trị

quốc của Nho giáo trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam hiện nay.

Ba là, tư tưởng trị quốc Nho giáo có ảnh hưởng và ý nghĩa tích cực

trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ công chức nhà nước có phẩm chất, năng

lực gắn với nhu cầu của đất nước trong những giai đoạn cụ thể.

Đối với chủ thể cầm quyền trị quốc, các đại biểu Nho giáo đề cao tinh

thần tự giáo dục, tự rèn luyện, tự tu dưỡng để trở thành tấm gương mẫu mực

cho nhân dân noi theo. Trong sách Đại học viết: “Vua Nghiêu, vua Thuấn

dùng nhân ái để quản lý thiên hạ. Nhân dân theo đó mà thực hiện nhân ái…

Ra lệnh cho dân chúng thực hành nhân ái, nhưng mình lại tàn bạo, thì dân

nhất định chẳng nghe theo” [37, tr.28], và “Bậc vua hiền xử sự ở địa vị một

người làm cha, làm con, làm anh, làm em đều trở thành một tấm gương cho cả

gia tộc noi theo, thì nhân dân mới noi theo” [37, tr.29]. Qua những luận điểm

trên cho thấy, học thuyết trị quốc trong Nho giáo không chỉ đề xuất quan

niệm, chủ trương mà còn có yêu cầu rất nghiêm khắc với các nhân vật là chủ

thể trị quốc, nhất là những người ở địa vị cao nhất phải là tấm gương sáng về

94

đạo đức cho quần chúng nhân dân noi theo, các bậc vua hiền mà không như

vậy thì dân không nghe theo, đó là điều chắc chắn.

Vấn đề về chủ thể trị quốc trong Nho giáo trên đây cho thấy có những

biểu hiện tương đồng với tư tưởng Hồ Chí Minh. Tại văn kiện Nâng cao đạo

đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh viết:

Nhân dân ta thường nói: đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Đó

là một lời khen chân thành đối với đảng viên và cán bộ chúng ta…

Trong lịch sử đấu tranh của Đảng và trong mọi hoạt động hàng

ngày, nhất là trên mặt trận chiến đấu sản xuất, rất nhiều cán bộ,

đảng viên ta tỏ ra anh dũng, gương mẫu, gian khổ đi trước, hưởng

thụ đi sau và đã làm nên những thành tích rất vẻ vang [84, tr.546].

Những đại từ “cán bộ”, “đảng viên” trong luận điểm của Hồ Chí Minh

đã dẫn ở đây chính là những chủ thể lãnh đạo quần chúng nhân dân trên mọi

mặt trận, lĩnh vực kiến thiết và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng Nhà nước Việt Nam

nói chung, trong đó bao hàm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam nói riêng. Những chủ thể thời hiện đại này cũng giống như chủ thể trong

tư tưởng trị quốc của Nho giáo ở phẩm chất là tấm gương cho quần chúng

nhân dân học tập, làm theo. Tư tưởng nói trên trong tư tưởng Hồ Chí Minh

đã, đang và còn là kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trước thực tế “Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý

chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo

đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Một số cán bộ

lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, thiếu gương mẫu, uy

tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá

nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm.

Không ít cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước thiếu tu dưỡng, rèn luyện...”

[20, tr.47,48], những yếu tố hợp lý nhất định trong quan niệm về chủ thể trị

quốc của Nho giáo có ý nghĩa và giá trị tham khảo trong việc xây dựng đội

95

ngũ cán bộ, công chức để không ngừng hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Trong tư tưởng trị quốc của Nho giáo yêu cầu người lãnh đạo, quản lý

đất nước, từ vua đến quan, đều phải “chính danh”, nghĩa là phải làm đúng với

chức trách, danh phận của mình. Theo Nho giáo, trong việc cai trị, củng cố,

bảo vệ quốc gia, từ người lãnh đạo cao nhất đến mọi gia đình, người dân đều

phải nói, làm đúng với chức vụ, danh phận của mình, cụ thể vua phải ra vua,

bề tôi phải ra bề tôi, người cha đúng là cha, người con đúng là con. Tất cả

những thành viên trong xã hội cùng phải có danh hiệu phản ánh đúng thực

chất, nội dung đúng như tên gọi của nó. Qua đây cho thấy, quan niệm “chính

danh” trong tư tưởng trị quốc của Nho giáo có những giá trị tích cực và ý

nghĩa tiến bộ của nó. Điều này cũng có ý nghĩa tích cực và như một lời cảnh

báo đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ công chức của Nhà nước Việt Nam

hôm nay. Một số không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước ta

đáng ra phải làm “người đày tớ thật trung thành của nhân dân” [84, tr.622]

như Hồ Chí Minh đã căn dặn, nhưng họ lại “tham nhũng, lãng phí, quan liêu,

hách dịch, cửa quyền” [19, tr.181]. Chúng ta cần có biện pháp giáo dục, bồi

dưỡng để đội ngũ cán bộ, lãnh đạo quản lý của Đảng và Nhà nước Việt Nam

hiện nay làm đúng chức trách của mình, tức là cũng phải trên tinh thần “chính

danh” theo một nghĩa nào đó. Tất cả các thành viên trong đội ngũ cán bộ của

Đảng và Nhà nước ta, nếu muốn được là người chính danh, chứ không phải là

hư danh, thì phải nỗ lực phấn đấu để trở thành người đày tớ thật trung thành

của nhân dân. Trong đời sống chính trị ở Việt Nam đã từng có những người

chạy vạy để mua bằng được chức quyền, được rồi thì hách dịch với dân

chúng, tham ô chiếm đoạt của công, hối lộ và nhận hối lộ, v.v.. Những típ

người như thế không phải là cán bộ chân chính, họ không chính danh, không

xứng đáng là người đày tớ trung thành của nhân dân. Thực tại khách quan ấy,

96

thiết tưởng, phải được khắc phục nhanh, vì đó là lực cản cho sự phát triển của

khoa học nói riêng, của xã hội nói chung.

Hiện nay chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam đương nhiên là cần phải có đội ngũ cán bộ viên chức của nhà

nước này có việc làm, thực chất đúng với danh hiệu của họ. Cán bộ của Đảng

và Nhà nước ta, theo Hồ Chí Minh, “phải xứng đáng là người lãnh đạo, là

người đày tớ thật trung thành của nhân dân” [84, tr.622].

Nhưng, đã từ lâu và cho đến nay, nhiều cán bộ trong đội ngũ lãnh đạo

của Đảng và Nhà nước ta đã có việc làm không đúng với danh hiệu của họ, vì

thế trở nên thoái hóa, biến chất, từ chỗ đáng ra là đày tớ của dân, thì lại trở

thành sâu mọt hút máu mủ của dân, phản dân, hại nước. Bởi vậy, ở những góc

độ nhất định, thuyết chính danh trong tư tưởng trị quốc của Nho giáo cho thấy

ý nghĩa hiện thời của nó trong việc xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của

Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay. Chẳng hạn, trước đây Khổng Tử từng

nói, người nào không xứng đáng với địa vị nào đó mà không biết thoái lui,

nghĩa là không chính danh, thì chỉ là kẻ ăn cắp địa vị của người khác. Trong

bối cảnh mới và trên tinh thần mới, Đảng ta xác định, phải “Xây dựng qui

định để việc nhận trách nhiệm, từ chức, từ nhiệm trở thành nền nếp văn hóa

ứng xử của cán bộ” [20, tr.65,66].

Khi bàn về chủ thể trị quốc đã có nhiều lần, các đại biểu Nho giáo nhấn

mạnh nhân tố tài năng và trí tuệ của con người tham gia chính sự, khẳng định

vai trò quan trọng của nó bên cạnh những phẩm chất đạo đức trong hoạt động

quản lý quốc gia. Khổng Tử hầu chuyện vua Lỗ Ai Công, vị vua này hỏi về

việc trị nước. Khổng Tử thưa rằng: “Người lãnh đạo dân chúng có tài đức thì

đất nước mau hưng thịnh” [37, tr.73]. Theo đây thì tài năng của người lãnh

đạo ở vị trí quan trọng. Khổng Tử bàn tiếp về ba phẩm chất trí tuệ, lòng dũng

cảm và nhân nghĩa đạo đức của người lãnh đạo. Ông nói: “ba đức tính đó là:

trí, dũng, nhân. Đó là ba phẩm đức mà mọi người trong thiên hạ phải phấn

97

đấu đạt cho được, mục đích là để thực hiện tốt năm mối quan hệ nói trên (tức

là các quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè)” [120, tr.74]. Đến

đây, chúng ta thấy Khổng Tử không chỉ nhấn mạnh vai trò của đạo đức mà

còn coi trọng cả tài năng, trí tuệ trong việc lựa chọn người cầm quyền trị

quốc. Các đại biểu Nho giáo, nói chung chủ trương chủ thể trị quốc, tức đội

ngũ lãnh đạo quốc gia, phải gồm những người có học, có tài đức, dám hy sinh

thân mình vì sự nghiệp chung từ hơn hai ngàn năm trước. Gần đây chúng ta

đã có chủ trương và hiện thực hóa chủ trương đưa người có tài đức, có trình

độ văn hóa vào cơ quan nhà nước, giữ các chức vụ quan trọng trong đó. Thiết

nghĩ, chúng ta cần học tập làm theo tư tưởng trị quốc trong Nho giáo, cụ thể

tuyển chọn những người có phẩm chất đạo đức tốt, có tài năng, trí tuệ, vì dân,

thương yêu dân vào đội ngũ lãnh đạo, quản lý Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, hơn nữa, phải có sự sáng tạo mới trong quá

trình tạo lập Nhà nước ưu việt, tiến bộ nhất trong lịch sử.

Muốn có tài năng, trí tuệ thì phải chăm lo việc dạy và học. Khổng Tử

có nhiều câu cách ngôn nổi tiếng, một trong số nhiều đó nói về sự ham học,

khuyến khích đương thời và hậu thế say mê học tập không ngừng nghỉ cho

đến giờ phút cuối cùng của cuộc đời. Khổng Tử nói ông là người: “Kiên trì

học tập không biết chán, dạy bảo người khác không biết mệt mỏi” [37,

tr.231]. Khổng Tử chủ trương ai ham học để có sự hiểu biết đều được dạy học

chứ không có sự ngăn cấm, “phân biệt người thiện kẻ ác” [37, tr.455]. Nội

dung học tập và dạy học của Nho giáo khá phong phú, gồm có bốn mặt là

“văn, hạnh, trung, tín” [37, tr.248]. Ở đây, văn là văn hiến lịch sử, hạnh là đức

hạnh, trung là trung thành, tín là chữ tín. Trong tư tưởng trị quốc đã chứng tỏ

rõ ràng, việc học không phải là không nhằm đến mục đích gì, mà là để làm

chính trị, làm quan. Khổng Tử nói: “Học thuộc Kinh thi ba trăm bài, khi được

giao giải quyết chính sự thì làm không nổi. Học như vậy có ích gì?” [37,

tr.370]. Theo đây thì Khổng Tử chủ trương học để làm chính trị. Mục đích

98

của việc học được xác định rất cụ thể như vậy. Tử Hạ nói về đạo học của

người quân tử như sau: “Người làm quan còn dư thì giờ, dư sức lực thì nên

đọc thêm. Người học giỏi còn dư thì giờ, đủ sức lực thì nên ra làm quan” [37,

tr.519]. Qua đây cho thấy, trong tư tưởng trị quốc của Nho giáo rất coi trọng

việc học tập để nâng cao tri thức và làm chính sự. Thời cổ đại và phong kiến,

trừ ít trường hợp mang tính cá biệt, còn nói chung, người làm quan phải là

người có học. Ông quan vốn là người được học hành đến một chừng mực đủ

ra làm quan được, nhưng không thể bằng lòng, thỏa mãn với tri thức đã có do

học tập, vì thế, khi rảnh rỗi, vẫn cần học thêm nữa để bổ túc kiến thức và

người học giỏi, có kiến thức nhiều thì nên ra làm quan lo việc nước.

Từ hơn hai ngàn năm trước mà Khổng Tử đã chú trọng công tác học

tập nói chung và dạy học nói riêng như thế. Đấy cũng là một nội dung vừa có

giá trị lịch sử, vừa mang tính thời sự. Vấn đề này cũng có sự tương đồng với

nhiều nguyên lý, luận điểm trong chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh. Chẳng hạn, trong tác phẩm Nhiệm vụ của Đoàn Thanh niên, V.I. Lênin

viết: “nhiệm vụ của thanh niên nói chung, và của đoàn thanh niên cộng sản và

các tổ chức khác nói riêng, có thể tóm gọn bằng một từ. Nhiệm vụ đó là: học

tập” [65, tr.354]. Quan niệm, chủ trương về mục đích của việc học trong tư

tưởng trị quốc nói trên cũng có sự tương đồng với tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tháng 9 năm 1949, Hồ Chí Minh ghi vào trang đầu quyển sổ vàng của

Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương như sau: “Học để làm việc, làm người,

làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng

sự Tổ quốc và nhân loại” [81, tr.208]. Ở đây, theo Hồ Chí Minh, việc học

nhằm đến nhiều mục đích, và một trong số nhiều ấy là “làm cán bộ”, các mục

đích khác đều nhằm thực thi các nhiệm vụ chính trị trong xã hội còn phân

chia thành giai cấp. Các chủ nhân của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam hiện nay là nhà nước của dân, do dân, vì dân, bởi thế, không thể

không sử dụng, đào tạo, hình thành đội ngũ cán bộ công chức bao gồm những

99

người có học để làm được việc, làm người, làm cán bộ, phụng sự Đảng,

phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại như lời dạy

của Hồ Chí Minh.

Điều đó cho thấy, trong tư tưởng trị quốc của Nho giáo rất coi trọng

việc học, việc dạy học, tài năng và phẩm chất trí tuệ của người cầm quyền trị

quốc. Đây là những giá trị đúng được ghi nhận, không chỉ mang tính lịch sử,

mà còn mang tính thời sự trong công cuộc đổi mới để phát triển, xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Chúng ta xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh kinh tế tri thức,

một nền kinh tế đặc biệt chú trọng việc học tập, tài năng và trí tuệ của con

người được hình thành qua học tập. Vì vậy, giá trị và ảnh hưởng của chủ

trương việc dạy và học, coi trọng cả đạo đức và tài năng, trí tuệ của người

cầm quyền trong tư tưởng trị quốc của Nho giáo có ý nghĩa tích cực của nó

trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ ở nước ta hiện nay. Trong quá trình xây

dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực,

uy tín, ngang tầm nhiệm vụ hiện nay, Đảng ta xác định, phải “Xử lý hài hòa,

hợp lý mối quan hệ... giữa đức và tài, trong đó đức là gốc” [20, tr.56].

Theo Nho giáo, chủ thể cầm quyền trị quốc cao nhất là vua phải vì dân,

nếu không “sẽ bị nhân dân loại bỏ ngay” [37, tr.32]. Khổng Tử từng nói, vua

phải ra vua. Ông ca ngợi vua Nghiêu, vua Thuấn là những bậc vua anh minh

[37, tr.530,531], phê phán vua Tấn Văn Công xảo trá, lên án vua Trụ tàn bạo

[37, tr.495]. Chủ thể trị quốc trong Nho giáo là người sẵn sàng chia sẻ cộng

khổ với nhân dân. Khổng Tử đã nói về vấn đề ấy. Theo ông, chủ thể trị quốc

phải là người “Chịu khó nhọc cùng những công việc khó nhọc của dân” [37,

tr.364]. Khổng Tử giảng giải thêm về chủ thể tham gia chính sự, cho rằng chủ

thể trị quốc làm công việc mang tính chia sẻ, cộng khổ với dân ấy phải “bền

bỉ, không được mỏi mệt” [37, tr.365].

Vậy là, theo tư tưởng trị quốc của Nho giáo, người lãnh đạo cao nhất của

đất nước làm việc phải theo khuôn phép, pháp luật và vì nhân dân, phục vụ

100

nhân dân, nếu không sẽ bị nhân dân phế truất. Vẫn theo đấy, những vị lãnh đạo

cao cấp của quốc gia mà phản đạo đức, vô văn hóa, bất chấp luân thường đạo

lý sẽ bị phê phán kịch liệt. Giá trị, chủ trương này trong tư tưởng trị quốc của

Nho giáo đương nhiên là có ảnh hưởng và ý nghĩa tích cực trong bối cảnh hiện

nay. Những đòi hỏi trên của Khổng Tử đối với các nhân vật là chủ thể trị quốc

nếu đối chiếu với tư tưởng Hồ Chí Minh về đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chúng ta

sẽ thấy có nhiều điểm tương đồng. Hồ Chí Minh viết: “Trong việc kiến thiết

nước nhà, sửa sang mọi việc (các cán bộ, thành viên trong Chính phủ) phải làm

dần dần, không thể một tháng, một năm mà làm được hết… Việc gì có lợi cho

dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh” [79,

tr.64]. Ở đây, Hồ Chí Minh chỉ giáo, đội ngũ cán bộ của Chính phủ, của Nhà

nước Việt Nam phải làm nhiều việc cho dân, vì dân một cách dần dần, lâu dài,

chứ không thể nóng vội làm trong một thời gian ngắn. Những lời dạy này của

Hồ Chí Minh không phải là giống hệt, nhưng có những nét tương đồng với chủ

trương, đòi hỏi của Khổng Tử đối với chủ thể trị quốc trong học thuyết của

ông. Tính khách quan của nhận xét này chứng tỏ quan niệm, chủ trương về chủ

thể trị quốc trong Nho giáo cần được nhận thức đúng và phát huy trong hoạt

động chính trị thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay.

Chủ thể trị quốc trong Nho giáo là người yêu dân, kính dân. Khổng Tử

nói, người lãnh đạo dân chúng, tức chủ thể trị quốc phải “kính yêu người

trong thân tộc, yêu nhân dân của mình” và “quan tâm đến dân” [37, tr.74, 75].

Trong Kinh thư có viết về chức trách của các vị quan: phải “làm cho muôn

dân được sống yên vui” [142, tr.348,349]. Chưa hết! Nho giáo còn chủ

trương: “Vua yêu thương chăm lo cho dân giống như người mẹ chăm sóc bảo

vệ trẻ sơ sinh vậy” [37, tr.28]. Qua đây chứng tỏ các chủ thể trị quốc trong

Nho giáo là những con người của dân, do dân, vì dân. Họ có việc làm, tình

cảm yêu thương dân, kính trọng dân thật sự để lại trong tâm trí bạn đọc ấn

tượng sâu sắc và sự cảm động đến khôn cùng.

101

Tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh, người nghiên cứu cũng nhận thấy lãnh tụ

sáng lập Đảng và Nhà nước ta đã nhiều lần chỉ giáo cho đội ngũ cán bộ cách

mạng phải yêu thương, kính trọng nhân dân bằng những việc làm cụ thể và tình

cảm chân thật. Trong một văn kiện, Người viết: “Việc gì có lợi cho dân, ta (cán

bộ của Đảng và Nhà nước Việt Nam) phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân, ta

phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”

[79, tr.65]. Mới chỉ một tháng sau ngày tuyên bố khai sinh nước Việt Nam dân

chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh đã viết để chỉ giáo cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo

trong nhà nước Việt Nam mới như sau: “các cơ quan của Chính phủ từ toàn

quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung

cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị

của Pháp, Nhật” [79, tr.64]. Ở đây, Hồ Chí Minh đã khẳng định đội ngũ cán bộ

từ Trung ương đến các địa phương đều phải là công bộc (đày tớ) của dân, làm

việc cho dân, phục vụ nhân dân, chứ không phải là ngược lại. Trong bản Di chúc

lịch sử, Hồ Chí Minh viết: “Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng

là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân” [84, tr.622].

Vậy là, đã hơn một lần, Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản

lý xã hội và Nhà nước Việt Nam phải là những người đày tớ của nhân dân, phục

vụ nhân dân tận tụy, và Người kêu gọi tất cả cán bộ của Đảng và Nhà nước Việt

Nam cần làm đúng chức phận, nhiệm vụ của mình như cái danh hiệu mà Đảng

và Nhà nước đã trao cho mình.

3.2.2. Những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng trị quốc Nho giáo

đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

hiện nay

Một là, tư tưởng địa vị, ngôi thứ, đầu óc gia trưởng, thiếu dân chủ.

Đọc kinh điển của nho giáo Khổng Mạnh, độc giả không khó nhận ra

trong học thuyết này có nhiều câu chữ chứng tỏ ý thức phân biệt địa vị, ngôi

thứ thấp cao giữa người trên với kẻ dưới.

102

Như đã bàn, nho giáo Khổng Mạnh còn bao hàm học thuyết chính danh

rất nổi tiếng. Nó luận giải các thành viên trong xã hội phải làm như thế nào để

danh nghĩa đúng với công việc, thực chất của mình, cụ thể là vua phải ra vua,

bề tôi phải đúng là bề tôi, cha đúng là cha, con xứng là con. Đấy là quan niệm

đúng, có giá trị, nó yêu cầu, đòi hỏi mỗi con người xã hội phải hoàn thành

bằng được công việc, phận sự của mình. Nhưng, cũng qua đây, nó không phải

là vô hình trung, mà rõ ràng là có ý thức phân biệt rạch ròi vua với bề tôi, cha

với con, v.v., khẳng định vua là người sai khiến bề tôi, bề tôi là người ở vị trí

thấp hơn vua, chịu sự sai khiến của vua, con cái là người do cha mẹ sinh ra,

phải vâng lời cha mẹ, nghe cha mẹ dạy bảo, v.v.. Thuyết chính danh như thế,

hiển nhiên là hàm chứa nội dung phân biệt thứ bậc cao thấp trong mỗi gia

đình và toàn xã hội.

Những điều nói trên của nho giáo Khổng Mạnh ít nhiều có ảnh hưởng

tiêu cực trong xã hội Việt Nam kể từ khi nó xâm nhập vào đất nước ta từ đầu

công nguyên đến nay. Nó dẫn đến tư tưởng địa vị, ngôi thứ, đầu óc gia trưởng

trong các cơ quan nhà nước Việt Nam cả xưa và nay. Không ít cán bộ được

làm thủ trưởng trong các cơ quan nhà nước trước đây và hiện tại có cảm nhận

ngầm rằng mình như ông vua thời phong kiến đứng đầu một nước, như người

chủ một gia đình đông đến hai, ba, bốn, năm chục thành viên, mình ở vị trí

cao hơn, ở vị trí lãnh đạo cả đơn vị. Có tư tưởng địa vị, phân biệt thứ bậc cao

của mình là người đứng đầu, lãnh đạo của đơn vị với cán bộ cấp thấp hơn

mình cùng tất cả nhân viên trong đơn vị, không được phép bàn bạc, trao đổi

về công việc của người lãnh đạo cao nhất đơn vị, nên thủ trưởng đơn vị độc

đoán, tự quyết một mình các nhiệm vụ, công việc của cả cơ quan. Nhiều cơ

quan nhà nước ta đã từ lâu và hiện nay thiếu tinh thần dân chủ trong hoạt

động là lý do đó. Tư tưởng, suy nghĩ và việc làm của không ít cán bộ lãnh đạo

trong nhiều cơ quan nhà nước Việt Nam hiện nay có chỗ dựa là những tư

103

tưởng tiêu cực nhưng đã trở thành thâm căn cố đế mà không dễ gì thay đổi

nhanh chóng.

Hàng ngàn năm tồn tại của chế độ phong kiến Việt Nam với Nho giáo

là hệ tư tưởng thống trị, giai cấp thống trị thiết lập một trật tự xã hội theo tôn

ti, thứ bậc chặt chẽ từ trên xuống dưới, phân biệt con người theo địa vị, ngôi

thứ. Trong trật tự gia đình, người đứng đầu gia đình (gia trưởng) có quyền uy

cao nhất, quyết định mọi vấn đề hệ trọng. Ngoài xã hội, vua được xem như

cha của muôn dân, nắm mọi quyền sinh quyền sát. Chế độ phụ quyền, gia

trưởng ấy tồn tại trên đất nước ta qua nhiều thế kỉ đã sản sinh ra hệ quả tất yếu

của nó là tư tưởng địa vị, ngôi thứ, đầu óc gia trưởng, độc đoán chuyên quyền,

mất dân chủ… mà tàn dư của nó đến nay chưa phải đã hết. Không những thế,

trong bối cảnh mới, biểu hiện của nó lại càng phức tạp bởi sự đan xen với

những yếu tố mới nảy sinh. Do ảnh hưởng của tâm lý cũ cùng với sự tác động

đan xen từ những yếu tố mới nảy sinh trong bối cảnh mới mà những tư tưởng

địa vị, ngôi thứ, gia trưởng hiện nay biểu hiện rất phức tạp. Tư tưởng đó

không chỉ tồn tại trong một số cán bộ lãnh đạo, quản lý mà còn tồn tại trong

suy nghĩ của một bộ phận quần chúng nhân dân.

Trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, những người còn chịu ảnh

hưởng của tư tưởng gia trưởng, đầu óc địa vị, ngôi thứ thường tự cho mình

đứng trên tập thể, ở vị thế cao hơn người khác, uy quyền hơn tất cả. Họ ham

muốn địa vị, thích thể hiện quyền uy với người khác. Mặt khác, địa vị thường

đi liền với đặc quyền đặc lợi nên lôi kéo nhiều người đua chen trong chốn

quan trường, quyết sao để giành ghế, giữ ghế bởi nó không chỉ đơn thuần thỏa

mãn tư tưởng địa vị mà còn là cơ hội để thu lợi bất chính.

Tư tưởng địa vị ngôi thứ, đầu óc tôn ti trật tự, gia trưởng cổ vũ cho sự

truy cầu công danh, địa vị, tâm lý “trọng quan”. Dưới chế độ phong kiến,

quan lại luôn đứng ở vị trí cao hơn trong hệ thống đẳng cấp xã hội, được mọi

người kính nể và có cuộc sống phong lưu hơn các tầng lớp khác, vì thế người

104

ta phấn đấu đi học cũng với mục đích làm quan hưởng lộc. Tư tưởng đó vẫn

tồn tại và ảnh hưởng ở mức độ nhất định cho đến hiện nay. Không ít người

xem nhẹ công tác chuyên môn mà chỉ lo tiến thân bằng con đường quan chức.

Vì thế, tình trạng “chạy chức, chạy quyền” ở nước ta có diễn biến phức tạp và

là vấn đề nhức nhối, như có người nhận định: “chạy chức, chạy quyền xuất

hiện từ thời phong kiến chứ không phải nay mới đề cập. Thời nay vấn nạn này

diễn biến phức tạp và tinh vi hơn rất nhiều dưới mọi hình thức. Chúng đang

ngấm ngầm gây nguy hại cho xã hội, khiến người dân mất niềm tin vào Đảng,

Nhà nước…” [146].

Trong quản lý nhà nước, không ít cán bộ công chức ở các cấp, các

ngành, các địa phương xa rời quần chúng, hống hách nạt nộ, sách nhiễu nhân

dân, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân. Thực tế cho thấy, ở đâu và khi nào

những tàn dư tiêu cực của tư tưởng địa vị, ngôi thứ, gia trưởng còn ảnh hưởng

thì nơi đó, khi đó tính chủ động, tích cực sáng tạo, tinh thần dân chủ và sức

vươn lên của con người còn bị kìm hãm. Chừng nào chưa xóa bỏ chúng thì

chừng đó tự do dân chủ còn bị hạn chế, tinh thần làm chủ của nhân dân khó

có thể được phát huy.

Cũng do ảnh hưởng lâu dài của tư tưởng địa vị, ngôi thứ từ trong quá

khứ mà hiện nay, tâm trạng rụt rè sợ hãi, tự ti của quần chúng, của những

người “cấp dưới” trước người lãnh đạo, người cấp trên vẫn tồn tại. Trong thực

tế, trong không ít cơ quan, đơn vị, người cấp trên thì kiêu căng, chuyên quyền

độc đoán còn người cấp dưới thì sợ sệt, khúm núm. Những biến tướng, biến

dạng khác nhau của tệ sùng bái cá nhân vẫn tồn tại. Không chỉ cán bộ lãnh

đạo, mà khá nhiều nhân viên trong một số cơ quan nhà nước ta cũng chịu ảnh

hưởng tiêu cực từ Nho giáo có sự phân biệt thứ bậc, cao thấp. Bởi thế, mỗi

khi họp hành, hội thảo, hội nghị... người ta thường rất chú trọng đến việc kính

thưa kính gửi danh sách các nhân vật dài hàng nửa trang giấy, được sắp xếp

theo trật tự cao thấp, trước sau rất chặt chẽ, vì sợ mang tiếng “phạm thượng”.

105

Mặc dù ngày nay các dạng phân biệt đối xử cụ thể quá lỗi thời theo đạo lý

phong kiến đã không còn nhưng tinh thần phân biệt đối xử theo kiểu lễ giáo Nho

gia chưa mất và nó thường được biểu lộ bằng những hình thức biến tướng, biến

dạng rất phức tạp. Từ tư tưởng địa vị ngôi thứ theo trật tự tôn ti, tác phong gia

trưởng sẽ dẫn đến tình trạng thiếu dân chủ, mất dân chủ trong xã hội. Một số cán

bộ lợi dụng chức quyền đè đầu cưỡi cổ nhân dân, gây phiền hà nhũng nhiễu đối

với người dân, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Hồ Chí Minh đã chỉ ra:

“Nguyên nhân của bệnh cấp bậc là: vì cán bộ chưa gột sạch óc quan liêu, ngôi

thứ. Vì còn mang nặng chứng “quan cách mạng” [81, tr.408]. Tư tưởng địa vị

ngôi thứ, đầu óc gia trưởng sẽ dẫn đến hạn chế việc thực hiện quyền làm chủ,

quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân là điều khó tránh.

Có thể nói, những tàn tích của tư tưởng tiêu cực đó còn sót lại, chưa

được gạt bỏ sẽ hạn chế, thậm chí kéo lùi bước tiến của nhân dân ta, gây cản

trở cho việc xây dựng cuộc sống mới và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước. Yêu cầu của đất nước hiện nay đòi hỏi, người cán bộ lãnh đạo

không thể là “quan nhân dân” mà phải là “người đầy tớ trung thành của nhân

dân” bởi “lãnh đạo nghĩa là làm đầy tớ”, phải “lễ phép với nhân dân” như Bác

Hồ từng căn dặn.

Hai là, bệnh gia đình trị, cục bộ địa phương.

Như đã bàn luận nhiều ở các chương, tiết trên trong công trình này về

vấn đề nho giáo Khổng Mạnh rất chú trọng đến vai trò của gia đình. Nho giáo

chủ trương phải “tề gia” để “trị quốc”, và “trị quốc” được rồi sẽ thực hiện

được lý tưởng xã hội vĩ đại là “bình thiên hạ”. Nho giáo đã hơn một lần nhấn

mạnh, đại ý rằng: “Muốn lãnh đạo tốt nước mình, bang mình, trước hết cần

chỉnh đốn tốt gia đình, gia tộc mình”. Đấy là tư tưởng, chủ trương đúng đắn

của nho giáo về vấn đề gia đình. Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng rất quan

tâm, chăm lo xây dựng các gia đình văn hóa mới trong tất cả các vùng miền

trên đất nước ta, và khẳng định mỗi gia đình Việt Nam là một tế bào của xã

106

hội, tất cả các gia đình trong Tổ quốc Việt Nam cấu thành đại gia đình các

dân tộc Việt Nam.

Nhưng, việc đề cao đến mức thái quá về vai trò, tác dụng lịch sử, quan

trọng đặc biệt của gia đình trong nho giáo, cộng thêm với những quan niệm

mang tính hủ tục, lỗi thời về gia đình của người Việt Nam đã dẫn đến nhiều

hậu quả mà chúng ta không hằng mong muốn. Không phải cứ tề được gia là

trị được quốc, rồi bình được thiên hạ. Tề được gia mới chỉ là một trong nhiều

nhiệm vụ nhằm trị được quốc và bình được thiên hạ. Nho giáo Khổng Mạnh

đã ảo tưởng về tác dụng lịch sử của gia đình và của gia tộc (gồm nhiều gia

đình có quan hệ gần gũi về huyết thống có chung một ông tổ).

Quan niệm, tư tưởng đề cao, chú trọng đến gia đình, gia tộc như trên

trong nho giáo đã có ảnh hưởng tiêu cực đến không ít cán bộ lãnh đạo trong

các cơ quan nhà nước hiện nay. Số cán bộ bị ảnh hưởng tiêu cực ấy đã có tư

tưởng gia đình chủ nghĩa, gia đình trị. Ở ngoài xã hội, tại quê hương, họ chăm

lo, quan tâm, bảo vệ gia tộc, gia đình của mình theo phương châm vốn là sản

phẩm của nền sản xuất nhỏ nông nghiệp lạc hậu từ mấy ngàn năm nay phẳng

lặng như mặt nước ao tù, nay đã tỏ ra lỗi thời, lạc hậu: “Đi việc làng giữ lấy

họ, đi việc họ giữ lấy anh em”. Tại cơ quan chuyên môn nghiệp vụ, họ ngộ

nhận mình như người chủ của một gia đình, xưng “chú”, “bác” với nhân viên

ít tuổi hơn mình. Công tác ở quê quán hoặc gần quê quán, họ chú ý, giới

thiệu, đề nghị cấp trên cất nhắc, đề bạt người trong gia đình, gia tộc, dòng họ

của mình vào vị trí, đội ngũ cán bộ lãnh đạo quan trọng, chủ chốt, bất chấp

trình độ, năng lực còn yếu kém, hạn chế của người mà họ lưu tâm tạo thành

cái mà xã hội gọi, phê phán là “gia đình trị”. Đây là một trong những hiện

tượng cần được khắc phục, xóa bỏ dần và hết trong các cơ quan nhà nước của

chúng ta hiện nay.

Quá chú trọng đến gia đình, gia tộc mình mà họ đặt danh vọng, lợi ích

gia đình lên trên tất cả, cốt sao vơ vét cho bản thân, củng cố cho uy thế gia

107

đình. Họ tìm cách tham nhũng của công để làm giàu cho bản thân và gia đình.

Mặt khác, nhằm củng cố vị thế của gia đình, gia tộc nên trong các xã hội

trước đây, ở Trung Quốc cũng như Việt Nam thời phong kiến, khi triều đại

mới được thiết lập thì việc sắp đặt con em và những người thân thích trong

dòng tộc của người cầm quyền vào những vị trí quan trọng của chính quyền

nhà nước là điều mặc nhiên và được xem là hợp đạo lý. Điều đó có cơ sở từ lý

thuyết của các vị thánh hiền Nho giáo. Trong sách Mạnh Tử từng ghi lại câu

chuyện em vua Thuấn là kẻ hư hỏng nhưng vẫn được làm quan. Khi học trò

thắc mắc vì sao có chuyện đó thì Mạnh Tử thản nhiên đáp “Anh làm vua thì

em phải làm quan chứ”. Chính lý lẽ ấy đã tạo căn cứ và tiền lệ cho các triều

đại phong kiến lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống dựa vào để biện hộ

cho những hành động vô nguyên tắc trong việc bố trí, sắp đặt người thân vào

những vị trí quyền lực quan trọng nhằm củng cố quyền uy và vị thế gia đình.

Sự tồn tại trong suốt một thời gian dài lối tư duy và cách làm đó dần dần tạo

nên căn bệnh gia đình chủ nghĩa, không chỉ tồn tại trong quá khứ mà ngày

nay cũng vẫn chưa hết. Thực tế những năm qua, nhiều vụ việc được phát hiện

và xử lý, công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng đã cho thấy điều

ấy. Không ít người có địa vị đã lợi dụng địa vị và chức quyền của mình để

đưa người thân, anh em, vợ con của mình vào các cơ quan, đơn vị nơi mình

phụ trách để nắm giữ những chức vụ quan trọng. Tư tưởng “nhất thân nhì

quen”, “một người làm quan cả họ được nhờ” đã và đang gây cản trở, để lại

những hậu quả khôn lường trong việc cải cách bộ máy nhà nước và trong

công tác cán bộ nói chung. Người dân đã từng vui mừng và hy vọng vào

những bí thư tỉnh ủy trẻ nhất nước, giám đốc sở trẻ nhất nước... nhưng rồi

không lâu sau lại thất vọng bởi việc bổ nhiệm thần tốc và nhiều lý do khác

liên quan đến dây mơ rễ má gia đình, gia tộc. Báo chí từng phản ánh, có

những địa phương, cơ quan, các chức vụ chủ chốt phần lớn do những người

có quan hệ họ hàng thân thích nắm giữ. Nhiều khi vì tình thân ruột thịt mà

108

người ta đã bỏ qua nhiều thiếu sót về yêu cầu, qui định, bỏ qua những yếu

kém về năng lực, phẩm chất, bất chấp nguyên tắc miễn sao đưa được người

thân của mình vào các vị trí quan trọng của tổ chức hay những chỗ ngồi béo

bở trong các cơ quan, đơn vị. Thay vì phải lựa chọn những người thực sự đủ

đức, đủ tài thì họ tìm mọi cách để đưa người thân thích nhằm tạo lập và củng

cố phe cánh.

Về điều này, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra biểu hiện của

nó: “Gia đình có nghĩa cũ và nghĩa mới, nghĩa hẹp và nghĩa rộng. “Gia” là

nhà. “Đình” là sân. Theo nghĩa cũ thì gia đình chỉ giới hạn hẹp hòi trong một

cái nhà, cái sân. Nghĩa là chỉ lo cho cha mẹ, vợ con trong nhà mình ấm no yên

ổn, ngoài ra ai nghèo khổ mặc ai. Như thế là ích kỷ, không tốt” [83, tr.311].

Người cũng từng phê phán việc kéo bè kéo cánh theo kiểu gia đình trị trong

việc bố trí cán bộ: “Có những đồng chí còn giữ thói “một người làm quan cả

họ được nhờ”, đem bà con, bạn hữu đặt vào chức này việc kia, làm được hay

không, mặc kệ. Hỏng việc đoàn thể chịu, cốt cho bà con, bạn hữu có địa vị là

được” [80, tr.90,91]. Khái quát từ thực tế những năm qua, Đảng ta cũng đã

nhận định: “Tình trạng bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong

đó có cả người nhà, người thân, họ hàng, “cánh hẩu” xảy ra ở một số nơi, gây

bức xúc trong dư luận xã hội” [20, tr.49].

Thực tế cho thấy, tình cảm gia đình rất thiêng liêng, sâu sắc, gắn bó con

người một cách tự nhiên. Việc xây dựng, củng cố mối quan hệ thân tình, ruột

thịt giữa các thành viên trong gia đình, dòng tộc là điều cần thiết và là nhu cầu

của con người. Tuy nhiên, khi nó được tuyệt đối hóa và biến thành thói vị kỷ

gia đình và căn bệnh gia đình trị thì sẽ gây ra nhiều hậu quả tai hại cho xã hội.

Trên đất nước ta, dù chế độ phong kiến cùng hệ tư tưởng thống trị của nó là

Nho giáo đã lùi vào quá khứ nhưng những biến tướng, biến dạng của kiểu gia

đình trị chưa hết. Trong quá trình xây dựng xã hội mới, để đảm bảo quyền

làm chủ thực sự của nhân dân, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền

109

xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân thì không thể không

khắc phục những tàn dư và ảnh hưởng tiêu cực của thói vị kỷ gia đình và bệnh

gia đình trị với những biến tướng của nó dưới mọi hình thức.

Ba là, tâm lý thiếu tôn trọng pháp luật trong một bộ phận nhân dân,

làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật.

Trong đường lối trị quốc của Nho giáo đã bộc lộ một sự mâu thuẫn, bất

cập khi bàn về vai trò của đạo đức. Nho giáo đã từng chủ trương coi trọng sử

dụng đạo đức và coi trọng sử dụng cả pháp luật, thậm chí có lúc còn khẳng

định pháp luật có vai trò tác dụng hơn cả đạo đức. Trong Kinh thư, tác phẩm

do Khổng Tử san định có ghi lại lời của một ông vua phán bảo một bề tôi như

sau: “Ta không thể không đem gương người xưa để bảo ngươi nên dùng đức

hơn là hình phạt” [142, tr.312]. Qua đây chứng tỏ Nho giáo ca ngợi, đề cao trị

quốc bằng đạo đức. Nhưng, chính ông vua nói trên còn diễn giải: “Ta đã

nhiều lần bằng đạo đức để dẫn dụ họ (tức nhân dân), nhưng họ vẫn chưa yên

lòng” [142, tr.312]. Qua lời ông vua nói ở đây, Nho giáo muốn chứng tỏ có

lúc đạo đức không đóng vai trò là một nhân tố trị quốc, quản lý quốc gia

được. Chính vì thế ông vua đang bàn ở đây phải nhắc nhở bề tôi: “Chớ bỏ qua

những phép tắc thường đáng kính” [142, tr.312]. Những “phép tắc thường”

này là pháp luật. Đến đây chứng tỏ Nho giáo đồng thời coi trọng cả đạo đức

và pháp luật trong quản lý quốc gia, trong chính sự, Nho giáo không thể

không sử dụng đạo đức và cũng không thể bỏ qua pháp luật. Vẫn trong Kinh

thư có chỗ nhấn mạnh về thực thi việc hình theo pháp luật: “Việc hình ngục

làm cho nước nhà cường thịnh. Hãy nên sử dụng hình phạt cho đúng mức”

[142, tr.345], “sáng suốt trong việc dùng hình pháp, khiến cho dân được bình

thường yên ổn” [142, tr.362]. Vậy là, Nho giáo đã chú trọng thực thi việc hình

theo pháp luật để cho nước được cường thịnh, dân được an lành; đạo đức

cũng có tác dụng quan trọng, nhưng có lúc nó tỏ ra không đem lại kết quả như

mong muốn của chủ thế trị quốc.

110

Nhưng, nhiều trường hợp khác, Nho giáo lại tỏ ra tự mâu thuẫn với

quan niệm, chủ trương coi trọng pháp luật đã bàn ở trên, vì quá nhấn mạnh

vai trò to lớn của đạo đức đồng thời với chưa thấy tầm quan trọng đặc biệt của

nhân tố kinh tế và lực lượng quân đội trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong Đại học, tại tiết 5 của chương 31 viết: “Đạo đức của bậc chí thánh vừa

rộng lớn vừa sâu xa vô bờ bến, bất kỳ lúc nào cũng có thể biểu hiện ra. Nó

vừa bao la rộng lớn như trời cao, vừa sâu như vực thẳm” [37, tr.91]. Ở nơi

khác, Khổng Tử cực kỳ nhấn mạnh, đề cao vai trò của đạo đức: “Cầm quyền

lãnh đạo quốc gia cần phải dựa vào đạo đức thì dân chúng đều quy thuận. Tự

mình giống như sao Bắc Đẩu vậy, ở cố định một nơi, còn các vì sao khác đều

chầu quay quanh nó” [37, tr.121,122]. Theo đây thì Khổng Tử có quan niệm

và chủ trương người lãnh đạo đất nước chỉ cần cho nhân dân hưởng thụ đạo

đức là họ sẽ tin theo nhân vật có vai trò quản lý quốc gia. Quan niệm chủ

trương như thế là rất sai lầm. Đó là những điểm hạn chế của đường lối trị

quốc của Nho giáo tỏ ra quá nhấn mạnh, đề cao vai trò tác dụng của nhân tố

đạo đức mà chưa thấy hết tầm quan trọng của pháp luật trong quản lý và điều

chỉnh các quan hệ xã hội.

Dưới hàng ngàn năm của chế độ phong kiến với hệ tư tưởng Nho giáo

giữ địa vị thống trị, với nếp sống quen tuân thủ theo các công thức đạo đức, lề

thói, tập tục truyền thống, các qui tắc lễ giáo mà không chấp hành nghiêm túc

những qui định của pháp luật đã trở thành một tập quán phổ biến trong xã hội

nước ta thời phong kiến. Rõ ràng, đạo đức có vai trò quan trọng và là yếu tố

cần thiết đối với mọi chế độ xã hội, ở mọi giai đoạn lịch sử, song nếu tuyệt

đối hoá đạo đức, quá đề cao yếu tố tình cảm khi giải quyết công việc và xử lý

các mối quan hệ xã hội sẽ dẫn đến vô nguyên tắc, buông lỏng kỷ cương, vi

phạm pháp luật. Bên cạnh đó còn là sự lợi dụng, nhân danh đạo đức để can

thiệp vào pháp luật, bẻ cong luật pháp một cách tuỳ tiện theo mục đích của

mỗi cá nhân. Điều đó đã hạ thấp vai trò của pháp luật, tạo ra trong quần chúng

111

nhân dân tâm lý thiếu tin tưởng vào sự nghiêm minh, công bằng của pháp

luật. Tình trạng vi phạm pháp luật trong những năm gần đây có nhiều biểu

hiện và diễn biến phức tạp:

Năm 2013, lực lượng Công an đã điều tra, khám phá 44.033 vụ

phạm tội về trật tự xã hội, với 88.259 đối tượng, đạt tỷ lệ 74,49%

cao hơn 1,09% so với năm 2012; triệt phá 2.640 băng, nhóm tội

phạm; 6 tháng đầu năm 2014, đã điều tra, khám phá 22.002 vụ

phạm tội về trật tự xã hội với 45.261 đối tượng, đạt tỷ lệ 75,58%,

cao hơn 0,1% so với cùng kỳ năm 2013; triệt phá 1.469 băng, nhóm

tội phạm, trong đó có nhiều băng, nhóm tội phạm nguy hiểm [11].

Một khảo sát gần đây cho thấy, năm 2015, các lực lượng đã điều tra,

khám phá gần 44.000 vụ phạm pháp hình sự, bắt giữ, xử lý trên 83.000 đối

tượng, triệt phá gần 2.500 băng, nhóm tội phạm, truy bắt, vận động đầu thú,

thanh loại hơn 6.700 đối tượng truy nã; phát hiện gần 16.000 vụ phạm tội về

kinh tế; triệt phá gần 17.000 vụ, hơn 26.000 đối tượng phạm tội về ma tuý [38].

Trong công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước, hệ thống pháp luật chưa

thực sự hoàn thiện và đồng bộ; lối sống theo tập quán, tuân thủ lệ làng, hương

ước hơn pháp luật, tâm lý “phép vua thua lệ làng” vẫn tồn tại trong ý thức và

lối sống của một bộ phận quần chúng nhân dân; việc tuyên truyền, phổ biến,

giáo dục pháp luật chưa được quan tâm đúng mức... đã làm cho không ít

người chưa nhận thức được một cách đầy đủ về vai trò, ý nghĩa của pháp luật

đã ảnh hưởng đến tính nghiêm minh, công bằng của pháp luật, đến việc tôn

trọng và thực thi pháp luật, làm giảm vai trò của pháp luật, dẫn đến sự thờ ơ

trong tâm lý của người dân đối với những qui định của pháp luật.

Việc thiếu tôn trọng pháp luật trong một bộ phận nhân dân hiện nay bắt

nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau, song một trong những nguyên nhân

không kém phần quan trọng là do người ta đặt quyền lợi của gia đình, họ hàng

thân tộc lên trên quyền lợi của nhân dân, của dân tộc. Trong tư tưởng trị quốc

112

Nho giáo, giải quyết mâu thuẫn, xung đột giữa tình nhà và phép nước, các nhà

nho thường coi tình nhà cao hơn phép nước, lợi ích gia đình được đặt lên trên lợi

ích nhân dân. Tình thân và đạo lý trong quan hệ gia đình theo quan niệm của đạo

Nho theo kiểu “con che lỗi cho cha, cha che lỗi cho con” đã khuyến khích và cổ

vũ người ta vì tình riêng, vì danh gia vọng tộc mà có thể che giấu khi người nhà

phạm pháp, dung túng cho người nhà mắc tội. Có nhà nghiên cứu nhận xét:

“Nho giáo chăng ra bao nhiêu sợi dây trói chặt con người vào cái nhà và cũng

nhồi vào đầu óc con người bao nhiêu tham vọng, bao nhiêu dã tâm vì cái nhà”

[13, tr.195], và

Thực tế ngày nay cũng cho thấy, nhiều khi pháp luật chưa được tôn

trọng nghiêm chỉnh, sự vi phạm pháp luật chưa bị xử lý nghiêm minh

và không ít trường hợp coi thường pháp luật, vi phạm pháp luật là có

dính dáng, liên quan đến dây mơ rễ má gia đình, gia tộc. Nhiều khi

tình cảm gia đình, quan hệ gia đình, thế lực gia đình là chỗ dựa cho kẻ

phạm pháp, đồng thời cũng là sức ép đối với những người thực thi

pháp luật [136, tr.159].

Bốn là, chưa đánh giá đúng mức vai trò của phụ nữ và tuổi trẻ trong

việc tham gia vào các công việc nhà nước.

Xã hội mà tác giả tư tưởng trị quốc của Nho giáo hình thành nên có sự

khắt khe đến nghiệt ngã trong quan niệm về trật tự xã hội. Nó phân chia đẳng

cấp, ngôi thứ rất rõ ràng, đúng như Khổng Tử nói: “Làm vua phải trọn đạo vua,

làm tôi phải trọn đạo tôi, làm cha phải trọn đạo cha, làm con phải trọn đạo con”

[37, tr.352]. Một khiếm khuyết, thiếu sót, và có thể nói đó là sai lầm rất lớn nữa

trong đường lối trị quốc của Nho giáo bộc lộ ra qua chủ trương tuyệt đối không

bàn tính đến những đóng góp lịch sử của tầng lớp thanh niên và phụ nữ. Nó ngăn

cấm, không cho phép phụ nữ tham gia, bàn luận về chính trị.

Tâm lý coi thường phụ nữ chưa đánh giá đúng vị trí, vai trò của họ đã

tồn tại và ảnh hưởng trong xã hội Việt Nam suốt thời kỳ phong kiến mà đến

113

nay những tàn dư của nó chưa hết. Thực tế cho thấy, ở nước ta hiện nay tỷ lệ

cán bộ nữ giữ vị trí lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan Đảng, Nhà nước rất

thấp: ở Trung ương tỷ lệ nữ ủy viên Ban chấp hành Trung ương khoá XI có

15 đồng chí (8,6%); 2 đồng chí là ủy viên Bộ Chính trị (14,2%); 1 đồng chí

nữ Bí thư Trung ương Đảng (10%); 1 đồng chí trưởng, 6 đồng chí phó các

ban đảng, 10 đồng chí phó chủ tịch mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Ở các

cấp uỷ địa phương, tỷ lệ nữ là uỷ viên Ban chấp hành đảng bộ nhiệm kỳ 2011-

2015: cấp tỉnh 11,3%; cấp trưởng các ban đảng tỉnh, thành ủy là nữ chiếm tỷ

lệ thấp: trưởng ban dân vận 18%, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra 22%, trưởng ban

tuyên giáo 6,55%, trưởng ban tổ chức 6,3%. Đánh giá tổng quát, tỷ lệ nữ tham

gia cấp uỷ thấp. Cấp trung ương giảm, các cấp địa phương tăng không đáng

kể… Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý Nhà nước ở các cấp tại Việt Nam hiện

nay so với nam cũng hết sức khiêm tốn: Phó chủ tịch nước 1 đồng chí. Nữ giữ

chức vụ bộ trưởng 2/22 (9%). Nữ thứ trưởng 13 đồng chí (9%); tỷ lệ nữ vụ

trưởng của cơ quan bộ và ngang bộ là 9,9%, nữ phó vụ trưởng là 20,7%.

Nhiều bộ, ban, ngành đông cán bộ nữ nhưng không có nữ lãnh đạo chủ chốt.

Ở cấp tỉnh có 1/63 tỉnh, thành có nữ chủ tịch Ủy ban Nhân dân (1,6%), phó

chủ tịch Ủy ban Nhân dân chiếm 10,4%. Lãnh đạo nữ trưởng ngành cấp tỉnh

chỉ đạt 10,5%... [54].

Xuất phát từ thực trạng đó, Đảng ta xác định mục tiêu đến năm 2030

“Phải có cán bộ nữ trong cơ cấu ban thường vụ cấp ủy và tổ chức đảng các

cấp. Tỉ lệ nữ cấp ủy viên các cấp đạt từ 20 - 25%; tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội,

Hội đồng nhân dân các cấp đạt trên 35%” [20, tr.60].

Giới phụ nữ là một nửa nhân loại, có thể thua kém nam giới về mặt

này, nhưng lại hơn hẳn phái mạnh về mặt khác. Vì thế, để không có sự bất

công bằng, không có sự bất cập, nên có cơ cấu hợp lý trong đội ngũ lãnh đạo

nhà nước hiện nay (tương đương như chủ thể trị quốc trong Nho giáo) có

thêm đại biểu của lớp tuổi thanh niên, và của phụ nữ. Chúng ta cần thực hiện

114

nghiêm túc quyền bình đẳng nam nữ, phát huy những phẩm chất giỏi việc

nước, đảm việc nhà, trung hậu, giặc đến nhà đàn bà cũng đánh, v.v. của phụ

nữ Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới ở nước ta. Yêu cầu từ thực tiễn

đang đặt ra là phải khắc phục ảnh hưởng tiêu cực từ quan niệm, chủ trương

bất cập về phụ nữ trong đường lối trị quốc của Nho giáo đến quá trình xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam. Quá trình

xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay không thể thiếu vai trò của phụ

nữ và cũng không thể không hướng tới vấn đề giải phóng phụ nữ, bởi như

Bác Hồ đã căn dặn, không giải phóng phụ nữ nghĩa là không giải phóng một

nửa loài người, là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa.

Thanh niên là lớp trẻ sung sức, đầy nhiệt huyết, ý chí và nghị lực trong

xã hội. Ai đó đã nói đúng, trong đấu tranh xã hội, kẻ nào nắm được thanh

niên, kẻ ấy sẽ nắm chắc phần thắng trong tay. Về vai trò có ý nghĩa quan

trọng quyết định thắng lợi trong đấu tranh, hoạt động xã hội của thanh niên,

V.I. Lênin cũng đã khẳng định:

theo một ý nghĩa nào đó, có thể nói rằng nhiệm vụ thật sự xây dựng

xã hội cộng sản chủ nghĩa, chính là của thanh niên. Bởi vì rõ ràng là

thế hệ những người lao động được đào tạo trong xã hội tư bản chủ

nghĩa (tức là lớp người tuổi đã cao, không còn là thanh niên), thì

giỏi lắm chỉ có thể giải quyết được nhiệm vụ phá hủy nền móng của

chế độ tư bản già cỗi dựa trên sự bóc lột. [64, tr.354].

Lớp người tuổi trẻ đầy sức lực, thông minh trí tuệ. Trong đấu tranh xã

hội, đấu tranh giai cấp, ai đó đã nói đúng, kẻ nào nắm được thanh niên, lớp trẻ,

kẻ ấy sẽ nắm chắc phần thắng trong tay. Thanh niên có khả năng thực hiện sứ

mệnh lịch sử trọng đại như vậy mà đường lối trị quốc của Nho giáo không tính

đến, đó là một khuyết điểm, thiếu sót không nhỏ, góp phần tạo nên quan niệm

coi thường lớp trẻ trong hoạt động chính trị và đời sống xã hội nói chung. Tư

tưởng đó không chỉ tồn tại dưới thời phong kiến mà ngày nay, những dư âm

115

của nó chưa phải đã hết. Vai trò và năng lực của tuổi trẻ ngày càng được khẳng

định và trên thực tế, chúng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách thể hiện sự

quan tâm, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài trẻ tuổi, song chưa

thực sự hiệu quả. Điều đó đã được Đảng ta chỉ ra: “Chủ trương thu hút nhân tài

chậm được cụ thể hóa bằng các cơ chế, chính sách phù hợp; kết quả thu hút trí

thức trẻ và người có trình độ cao chưa đạt yêu cầu” [20, tr.49].

Để khắc phục ảnh hưởng tiêu cực ấy, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và

đang còn chú trọng giáo dục, bồi dưỡng cho thế hệ thanh niên “thành những

người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời dạy

của Hồ Chí Minh đã viết trong bản Di chúc mang giá trị và ý nghĩa lịch sử.

Thanh niên, do quy luật của tự nhiên, nên có sức mạnh thể lực cơ bắp, chân

cứng đá mềm, được đào tạo, bồi dưỡng thêm về tình cảm, đạo đức, tư tưởng

(“hồng”) và về phương pháp làm việc, nghiệp vụ (“chuyên”) thì họ có khả năng

hiện thực làm nên nhiều kỳ tích, biến cố xã hội. Trước yêu cầu của bối cảnh

mới, Đảng ta đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, có trên 15% cán bộ cấp

chiến lược dưới 45 tuổi; từ 20 - 25% cán bộ lãnh đạo quản lý cấp tổng cục, cục,

vụ, phòng và tương đương ở Trung ương dưới 40 tuổi; từ 15 - 20% cán bộ lãnh

đạo, quản lý cấp tỉnh dưới 40 tuổi; từ 20 - 25% cán bộ lãnh đạo chủ chốt và ủy

viên ban thường vụ cấp ủy cấp huyện dưới 40 tuổi [20, tr.59,60].

Xã hội và Nhà nước của chúng ta hiện nay do toàn dân góp sức đấu

tranh, giải phóng và xây dựng nên, vì thế, mọi thành viên trong xã hội đều có

quyền bình đẳng, góp công góp sức làm cho xã hội và Nhà nước ngày càng

hiện đại, văn minh hơn. Chúng ta phải khắc phục những hạn chế nói trên

trong tư tưởng trị quốc Nho giáo để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam hiện nay được kết quả khả quan, hiện thực, chứ không

phải là ảo tưởng hoặc chỉ có trong mơ ước như tư tưởng trị quốc của Nho giáo

mô tả. Nhận thức đúng vị trí, vai trò quan trọng của thanh niên và phụ nữ

trong sự nghiệp cách mạng nước ta, nhất là trước yêu cầu của công cuộc đổi

116

mới, xây dựng đất nước hiện nay và từ thực tế “Tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ,

cán bộ người dân tộc thiểu số chưa đạt mục tiêu đề ra” [20, tr.47], nên trong

Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa XII về tập

trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất,

năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, Đảng ta đã chỉ rõ: “Cấp ủy các cấp

và người đứng đầu phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, bố trí, tạo

điều kiện, cơ hội phát triển cho cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc

thiểu số” [20, tr.65].

3.3. NGUYÊN NHÂN ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRỊ QUỐC NHO

GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ

NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ dẫn cho chúng ta

rằng, không phải lúc nào một nguyên nhân cũng sẽ sinh ra một kết quả tương

ứng, mà thông thường, một nguyên nhân trong những điều kiện nhất định có

thể sinh ra những kết quả khác nhau. Mặt khác, một kết quả cũng thường

không phải do một nguyên nhân đơn lẻ sinh ra mà do tổng hợp của nhiều

nguyên nhân tạo nên. Theo chúng tôi, ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho

giáo đến việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

hiện nay mang tính hai mặt như đã phân tích ở trên là do nhiều nguyên nhân

khác nhau và giữa chúng có sự đan xen phức tạp, song chủ yếu là:

Thứ nhất, cơ sở kinh tế - xã hội trên đất nước ta vẫn chứa đựng những

yếu tố để các tàn dư Nho giáo nói chung, tư tưởng trị quốc Nho giáo nói riêng

có thể tồn tại và gây ảnh hưởng.

Như đã phân tích trong chương 1, cơ sở kinh tế xã hội cho sự xuất hiện

và tồn tại của Nho giáo với những nội dung tư tưởng trị quốc của nó là nền

nông nghiệp lạc hậu, nhỏ lẻ, manh mún. Những quan niệm về mục tiêu, con

đường và chủ thể trị quốc trong cách nhìn của các nhà nho phản ánh và bị qui

định bởi điều kiện kinh tế - xã hội đó.

117

Trên đất nước ta, nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu từng tồn tại hàng

ngàn năm dưới chế độ phong kiến là nơi để hệ tư tưởng phong kiến với nòng

cốt là Nho giáo tồn tại, phát triển, đồng thời chính hệ tư tưởng ấy lại củng cố

và kéo dài thêm sự tồn tại của nền kinh tế thấp kém, lạc hậu đó. Sau các cuộc

chiến tranh giành, giữ độc lập dân tộc, nền kinh tế vốn lạc hậu ấy lại bị tàn

phá nặng nề. Mặt khác, trong một thời gian dài trước đổi mới, với việc duy trì

cơ chế quản lý hành chính, mệnh lệnh, tập trung, quan liêu đã hạn chế sự phát

triển đất nước, kinh tế xã hội rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Mặc dù từ

khi thực hiện đường lối đổi mới đất nước và tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp

hóa - hiện đại hóa đất nước, bộ mặt của nền kinh tế xã hội có nhiều thay đổi

theo chiều tiến bộ, song những dấu ấn của nền sản xuất nhỏ vẫn còn. Vì thế,

nó chưa thực sự tạo ra được những tiền đề vật chất cần thiết, vững chắc cho

việc khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của những tàn dư tư tưởng trị quốc Nho

giáo mà còn là mảnh đất thuận lợi để những tàn dư ấy bám rễ dai dẳng.

Thực tế cho thấy, chúng ta chỉ có thể khắc phục được những ảnh hưởng

tiêu cực của tư tưởng trị quốc Nho giáo khi chúng ta xóa bỏ được cơ sở kinh

tế - xã hội cho sự tồn tại của nó, và chúng ta cũng chỉ có thể phát huy được

những gì là tích cực của nó khi chúng ta tạo được những tiền đề vật chất cần

thiết cho sự phát huy ấy. Nghĩa là, chừng nào chưa làm thay đổi được căn

nguyên sâu xa cho sự tồn tại và ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo là

nền sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún, lạc hậu thì chừng đó những tàn

dư của nó chưa mất đi mà vẫn gây ảnh hưởng tiêu cực, là vật cản trên con

đường xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Thứ hai, tư tưởng trị quốc Nho giáo thuộc về ý thức xã hội nên nó có

tính độc lập tương đối trong sự tồn tại, vận động, biến đổi của mình. Mặc dù

theo qui luật, ý thức xã hội suy cho cùng phụ thuộc vào tồn tại xã hội, do tồn

tại xã hội quyết định, song nó có tính độc lập tương đối và có qui luật vận

động riêng của nó. Nghĩa là, không phải cứ tồn tại xã hội, hoàn cảnh lịch sử

118

thay đổi là mọi thứ thuộc về ý thức xã hội đều mất đi hoặc biến đổi nhanh

chóng. Do có sự tồn tại lâu dài trên đất nước ta và giữ địa vị của hệ tư tưởng

thống trị suốt mấy trăm năm nên Nho giáo nói chung, tư tưởng trị quốc Nho

giáo nói riêng đã có ảnh hưởng khá sâu đậm đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực

của đời sống xã hội, từ luật pháp đến tổ chức bộ máy nhà nước phong kiến và

những phong tục tập quán trong dân gian qua nhiều thế hệ mà không dễ gì

thay đổi.

Lịch sử cho thấy, “Ngay từ thời Tây Hán, nho giáo đã du nhập vào xã

hội Âu Lạc để làm công cụ nô dịch và đồng hóa nhân dân ta về tư tưởng và

tinh thần. Nho giáo là sự tổng hợp những tư tưởng, triết lý, luân lý đạo đức và

thể chế cai trị ở Trung Quốc có từ những thế kỷ VI - V trước công nguyên do

Khổng Tử và các học trò của ông xây dựng” [111, tr.79]. Kẻ xâm lược đất

nước ta đã có ý thức đưa nho giáo vào nước ta để phục vụ cho ý đồ, dã tâm

của chúng thì tất nhiên chúng hết sức huy động bọn nho gia, nho sĩ Trung

Quốc cùng bọn nho gia, nho sĩ Việt Nam phản quốc, quay lưng lại với đồng

bào mình làm tay sai cho kẻ thù của dân tộc lớn tiếng tuyên truyền, quảng bá

nho giáo theo hướng có lợi cho quân cướp nước. Đấy là một nguyên cớ nữa

làm cho nho giáo nói chung và tư tưởng trị quốc trong đó nói riêng ảnh

hưởng, tác động đến tư tưởng, tình cảm con người Việt Nam từ xa xưa mà tàn

dư của nó đến nay chưa hết.

Mặt khác, từ đời Lý, Trần, Nho giáo nói chung, tư tưởng trị quốc

trong đó nói riêng đã ngày càng được khẳng định vai trò quan trọng và đến

triều Lê sơ đã chiếm vị trí độc tôn trong đời sống chính trị xã hội và học

thuật. Đến triều Lê sơ (1428-1527), nho giáo chiếm vị trí cao nhất về tư

tưởng, học thuật tại Việt Nam. Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống

dưới các triều đại Lê - Nguyễn, có ảnh hưởng, tác động rất mạnh ở Việt

Nam từ triều đại Lê sơ đến thời cận đại. Nho giáo với tư tưởng trị quốc của

nó, được vương triều khẳng định, tôn vinh, đặt lên vị trí tối thượng như thế,

119

là một nguyên nhân làm cho nó có ảnh hưởng trên một phạm vi rất rộng,

trong một thời gian lâu dài không dễ thay đổi chỉ trong một sớm một chiều.

Đấy cũng đích thực là một nguyên nhân làm cho Nho giáo và tư tưởng trị

quốc của nó có ảnh hưởng mạnh đến đời sống tinh thần, học thuật cũng như

đời sống xã hội ở Việt Nam thời phong kiến và tàn dư của nó tồn tại, ảnh

hưởng đến hiện nay.

Thứ ba, ảnh hưởng tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường trong bối

cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng tạo môi trường cho những tàn dư tiêu

cực của tư tưởng trị quốc Nho giáo tồn tại với những biến tướng, biến dạng

mới. Ảnh hưởng tiêu cực của những tư tưởng lỗi thời dưới các dạng thức,

biến tướng mới của nó ngay cả khi tồn tại xã hội đã thay đổi là điều mà các

nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã từng cảnh báo: “Cái lỗi thời cố gắng

khôi phục bản thân nó và duy trì địa vị của nó trong khuôn khổ những hình

thức tái sinh mới” [73, tr.560].

Thực tế cho thấy, quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập

trung, mang nặng tính tự cấp, tự túc sang nền kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta những năm qua đã từng bước làm cho nền

kinh tế xã hội cũng như bộ mặt đất nước có sự khởi sắc, thay da đổi thịt. Mặc

dù vậy, nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay đang ở những giai đoạn đầu

của quá trình xây dựng, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa chưa hoàn thiện, chưa đầy đủ. Tuy định hướng XHCN luôn được Đảng

và Nhà nước ta quán triệt trong mỗi bước phát triển cũng như trong từng chủ

trương, chính sách kinh tế, song những tiêu cực từ mặt trái của nền kinh tế ấy

vẫn đang nảy sinh và tác động trực tiếp đến mọi tầng lớp nhân dân. Mặt khác,

trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày càng sâu rộng, sự hội nhập quốc tế trên

nhiều lĩnh vực cũng dẫn đến những xung đột cũ - mới, truyền thống - hiện đại,

bản địa - ngoại lai... Sự thâm nhập của lối sống xa lạ, thậm chí nhiều khi đối

lập, mâu thuẫn với văn hóa truyền thống, với thuần phong mỹ tục đã khiến

120

một bộ phận trở nên tha hoá, tự diễn biến, tự chuyển hóa, suy đồi. Điều đó

cho thấy, những tiêu cực nảy sinh từ mặt trái của kinh tế thị trường, của toàn

cầu hoá đã tạo môi trường thuận lợi cho tàn dư tiêu cực của tư tưởng trị quốc

Nho giáo trú ẩn, tái sinh dưới những dạng thức mới.

Thứ tư, việc kết hợp giáo dục đạo đức với giáo dục ý thức sống và làm

việc theo pháp luật chưa được quan tâm đúng mức, dân chủ chưa được phát

huy đầy đủ, công tác cán bộ còn nhiều bất cập. Khi giáo dục đạo đức mới

cũng như giáo dục ý thức sống và làm theo pháp luật chưa được coi trọng và

hiệu quả giáo dục chưa cao, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện và được thực

hiện nghiêm minh theo tinh thần “thượng tôn pháp luật” thì tâm lý quen sống

theo tập tục, lề thói cổ truyền đã từng ăn sâu bám rễ lâu đời trong lối sống của

xã hội cũ trước đây sẽ chưa bị mất đi; khi dân chủ chưa được phát huy thì tư

tưởng địa vị ngôi thứ, bất bình đẳng, vi phạm dân chủ sẽ chưa thể được khắc

phục. Công tác cán bộ còn nhiều bất cập sẽ không tạo được một đội ngũ cán

bộ công chức đáp ứng yêu cầu của nhà nước pháp quyền trong điều kiện và

bối cảnh mới.

Thực tế những năm qua cho thấy, trong công tác cán bộ, từ khâu

tuyển chọn, sử dụng đến khâu đào tạo, quản lý, đánh giá cán bộ còn không

ít hạn chế. Việc tuyển dụng đội ngũ cán bộ công chức vào làm việc trong

các cơ quan nhà nước còn xảy ra những sai phạm, tiêu cực ở một số nơi

nên chất lượng cán bộ chưa cao, chưa đồng đều, chưa thực sự đáp ứng yêu

cầu của đất nước trước tình hình và nhiệm vụ mới. Chưa có cơ chế, chính

sách hiệu quả để thu hút nhân tài, trí thức trẻ, phụ nữ và người có trình độ

cao vào làm việc trong các cơ quan nhà nước. Công tác đào tạo, bồi dưỡng,

qui hoạch, luân chuyển chưa đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn. Những hạn chế

trên là một trong những nguyên nhân khiến cho không ít tàn dư tiêu cực

trong tư tưởng trị quốc Nho giáo về mục tiêu, con đường, chủ thể trị quốc

121

còn có thể tồn tại và ảnh hưởng đến quá trình xây dựng nhà nước pháp

quyền hiện nay của chúng ta.

Thứ năm, Nho giáo nói chung, tư tưởng trị quốc trong Nho giáo nói

riêng bên cạnh những hạn chế không thể tránh khỏi do hoàn cảnh lịch sử thì

nó còn chứa đựng những nhân tố có giá trị và mang tính hợp lý nhất định.

Những yếu tố hợp lý, có giá trị ấy đã làm nên sức sống của nó qua hàng ngàn

năm lịch sử, có ảnh hưởng tích cực trong quá khứ ở những giai đoạn nhất

định và đến nay vẫn cho thấy ý nghĩa tiến bộ của nó.

Nho giáo và tư tưởng trị quốc trong đó là học thuyết có nhiều nét, mệnh

đề, nguyên lý chuyển tải nội dung, ý nghĩa tương đồng với nhiều luận điểm,

khái quát, nhận định trong chủ nghĩa xã hội khoa học, trước tác của Hồ Chí

Minh và của nhiều nhà tư tưởng trong lịch sử nhân loại. Đấy là những dấu

hiệu làm cho Nho giáo và tư tưởng trị quốc của Nho giáo có sức sống suốt

mấy ngàn năm lịch sử. Tạm gạt đi những điều bảo thủ, tiêu cực của nó thì

không ít quan niệm của các nhà nho về mục tiêu chính trị với những chủ

trương về mô hình xã hội lý tưởng, về đường lối chính trị, quan niệm về vai

trò của dân, yêu cầu về những phẩm chất của chủ thể trị quốc... vẫn có ý

nghĩa hiện thời của nó. Một xã hội thái bình, người dân có cuộc sống an vui

vẫn là điều mọi người mơ ước. Những cán bộ trong các cơ quan công quyền

có đạo đức, tận tụy với công việc, làm gương cho dân chúng vẫn là yêu cầu

của xã hội hiện tại. Trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, việc kế thừa những nhân tố còn có giá trị của

quá khứ vẫn là điều cần thiết chứ không phải là quá trình phủ định sạch trơn

với tinh thần hư vô chủ nghĩa. Tuy nhiên, đó cũng không phải là sự phục cổ,

lặp lại nguyên xi những yêu cầu, chuẩn mực của xã hội mấy ngàn năm về

trước mà phải trên tinh thần cách mạng, gắn với thực tiễn đất nước trong bối

cảnh mới của thời đại.

122

Tiểu kết chương 3

Nho giáo nói chung, tư tưởng trị quốc Nho giáo nói riêng được truyền

vào nước ta từ những năm đầu công nguyên. Trong quá trình tồn tại và phát

triển, nó đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều mặt của đời sống xã hội và con

người Việt Nam. Ngày nay, Nho giáo tuy không còn giữ địa vị của hệ tư

tưởng thống trị nhưng những dấu ấn và ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho

giáo chưa phải đã hết mà nó vẫn bám rễ và gây ảnh hưởng đến đời sống xã

hội, con người Việt Nam nói chung và ảnh hưởng đến việc xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng với những mức độ

khác nhau. Mặc dù nó có những ảnh hưởng tích cực như việc giáo dục con

người sống có đạo đức, tinh thần trách nhiệm với gia đình, cộng đồng trong

một xã hội ổn định, có trật tự, kỷ cương; xây dựng chính quyền của dân, do

dân, vì dân; đào tạo đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất, năng lực gắn với

nhu cầu của đất nước, nhưng bên cạnh đó nó cũng có những ảnh hưởng tiêu

cực như tư tưởng địa vị, ngôi thứ, đầu óc gia trưởng, thiếu dân chủ, bệnh gia

đình trị, cục bộ địa phương, tâm lý thiếu tôn trọng pháp luật trong một bộ

phận nhân dân làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật; chưa đánh giá đúng

mức vai trò của phụ nữ và tuổi trẻ trong việc tham gia vào các công việc của

nhà nước.

Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc Nho giáo đến việc xây dựng nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay mang tính hai mặt như trên

do nhiều nguyên nhân khác nhau đó là: cơ sở kinh tế - xã hội trên đất nước ta

vẫn chứa đựng những yếu tố để các tàn dư Nho giáo nói chung, tư tưởng trị

quốc Nho giáo nói riêng có thể tồn tại; tư tưởng trị quốc Nho giáo thuộc về ý

thức xã hội nên nó có tính độc lập tương đối trong sự tồn tại, vận động, biến

đổi của nó; ảnh hưởng tiêu cực từ mặt trái kinh tế thị trường trong bối cảnh

toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng tạo môi trường cho những tàn dư tiêu cực

123

của tư tưởng trị quốc Nho giáo tồn tại với những biến tướng, biến dạng mới;

tư tưởng trị quốc Nho giáo còn chứa đựng những nhân tố có giá trị và mang

tính hợp lý nhất định.

Tư tưởng trị quốc Nho giáo còn tồn tại và ảnh hưởng đến quá trình xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay vẫn là một

thực tế mà chúng ta phải tính đến. Sự tồn tại và ảnh hưởng đó do nhiều

nguyên nhân khác nhau, bao gồm cả những nguyên nhân khách quan và chủ

quan, giữa chúng lại đan xen phức tạp cùng những nhân tố mới nảy sinh,

chừng nào những nguyên nhân ấy còn thì tư tưởng trị quốc Nho giáo sẽ còn

ảnh hưởng ở những mức độ nhất định. Do đó vấn đề là phải tìm ra những giải

pháp cần thiết để có thể phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế những

ảnh hưởng tiêu cực của chúng đến quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

124

CHƯƠNG 4

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG

TÍCH CỰC, HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TƯ TƯỞNG

TRỊ QUỐC NHO GIÁO ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC

PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN

4.1.1. Nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng

sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền và những nguyên tắc xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta

Trước hết, phải nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước

pháp quyền ở Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, về mặt thuật ngữ, chữ

dùng thì chưa có các khái niệm “nhà nước pháp quyền” và “nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa”. Nhưng, tìm hiểu di sản lý luận của Người, chúng ta

thấy trong đó có nhiều luận điểm, nguyên lý về nhà nước pháp quyền nói

chung và về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng.

Về dấu hiệu đặc trưng, bản chất của nhà nước pháp quyền, Hồ Chí Minh

đã bàn đến từ rất sớm. Trong thư gửi Tổng thống Mỹ, viết và gửi từ Pari, đề

ngày 18 tháng 6 năm 1919, có gửi kèm theo bản Yêu sách của nhân dân An

Nam, Hồ Chí Minh thay mặt nhóm người yêu Tổ quốc An Nam, yêu cầu Chính

phủ các nước trong lực lượng Đồng minh vừa chiến thắng trong Đại chiến thế

giới lần thứ nhất (1914 - 1918) và Chính phủ Pháp lúc đó đang dưới danh nghĩa

là người “bảo hộ”, “khai hóa văn minh” cho đất nước, dân tộc và con người

Việt Nam, nhưng thực chất là kẻ xâm lược Việt Nam, Người đã yêu cầu: “Cải

cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền

hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người châu Âu… Thay chế độ ra

các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật” [78, tr.441]. Ngoài bản yêu sách nói

trên, Hồ Chí Minh còn viết tác phẩm thơ lục bát dưới tựa đề Việt Nam yêu cầu

ca để phổ cập hóa tư tưởng về pháp luật và Hiến pháp đến đội ngũ cán bộ cách

125

mạng cùng quần chúng nhân dân: “Hai xin phép luật sửa sang/ Người Tây

người Việt hai phương cùng đồng/… Bảy xin Hiến pháp ban hành/ Trăm đều

phải có thần linh pháp quyền” [78, tr.472]. Trước khi Đảng ta ra đời hơn một

thập kỷ, trước lúc Nhà nước Việt Nam được tuyên bố thành lập 26 năm, mà Hồ

Chí Minh đã có ý tưởng, chủ trương về một chế độ xã hội, một nhà nước điều

hành, quản lý xã hội bằng các đạo luật. Điều này chứng tỏ Hồ Chí Minh đã có

những cảm nhận, dự báo chính trị vượt trước thời đại. Từ lúc nước ta chưa có

tên gọi một cách chính thức, kiêu hãnh trên thế giới, đến mùng 2 tháng 9 năm

1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập tuyên bố với toàn thế giới Nước

Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, và đến ngày 9 tháng 11 năm 1946, Quốc

hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua bản Hiến pháp - bộ luật cơ bản

quy định những vấn đề quan trọng của đất nước. Sự kiện ra đời nước Việt Nam

dân chủ cộng hòa và bản Hiến pháp 1946 đầu tiên của nó đã chứng tỏ dự báo

chính trị nói trên của Hồ Chí Minh không phải chỉ là cảm nhận, điều mơ ước,

mà đã trở thành hiện thực sinh động.

Về tính chất nhân dân của Nhà nước Việt Nam cũng được Hồ Chí Minh

bàn luận khá nhiều và kỹ lưỡng. Theo Người, nhà nước Việt Nam là nhà nước

của nhân dân: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt

Nam”. Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, cho nên “mỗi một người con

Rồng (mang dòng máu của Lạc Long Quân) cháu Tiên (mang dòng máu của

Âu Cơ), bất kỳ già trẻ, gái trai, giàu nghèo, nòi giống, tôn giáo đều phải gánh

vác một phần” [trích theo 121, tr.124]. Hồ Chí Minh giải thích “của nhân

dân” rõ và chính xác như vậy. Tức là theo đấy thì, nhân dân không chỉ có

quyền tận hưởng quyền lợi từ nhà nước vì nhà nước vốn là của mình, mà còn

có trách nhiệm với nhà nước ấy nữa. Theo Người, Nhà nước Việt Nam là do

nhân dân xây dựng nên:

Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn

những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà. Trong

126

cuộc Tổng tuyển cử, hễ là người muốn lo việc nước thì đều có

quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử…Do

Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra

Chính phủ [121, tr.124].

Nhà nước do nhân dân với nghĩa là nhân dân bầu ra các đại biểu trong

cơ quan nhà nước và bầu ra các cơ quan, lập pháp (Quốc hội) và hành pháp

(Chính phủ) và có thể bãi miễn họ nếu không còn xứng đáng.

Một biểu hiện nữa về tính chất nhân dân của nhà nước Việt Nam là,

nhà nước này vì nhân dân. Hồ Chí Minh bàn luận, giải thích về tính chất này

một cách ngắn gọn, sáng rõ và dễ hiểu. Người nói, mọi cán bộ nhà nước phải

chú tâm “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân ta

phải hết sức tránh. Chúng ta (cán bộ viên chức nhà nước) phải yêu dân, kính

dân thì dân mới yêu ta, kính ta” [79, tr.65]. Cách mạng Tháng Tám 1945

thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Lúc ấy vì vừa trải qua

gần một thế kỷ dưới ách xâm lược, nô dịch, áp bức, bóc lột của thực dân Pháp

và nhiều bọn phát xít, đế quốc khác, nên nhân dân rất nghèo khổ, nhiều người

không có nhà ở, phải ăn đói, mặc rách, phần đông số dân có văn hóa, học thức

rất thấp, quá nhiều người mù chữ không đọc được sách báo, không biết viết.

Hồ Chí Minh chỉ giáo cho đội ngũ cán bộ viên chức trong bộ máy nhà nước

phải vì dân, “Làm cho dân có ăn/ Làm cho dân có mặc/ Làm cho dân có chỗ

ở/ Làm cho dân có học hành” [79, tr.175]. Người thường xuyên nhắc nhở, các

cơ quan nhà nước, các viên chức nhà nước phải xác định là người đầy tớ của

dân, phục vụ nhân dân, chứ không phải là những ông “quan cách mạng”, lên

mặt “làm quan cách mạng” với dân, “các cơ quan Chính phủ từ toàn quốc đến

các làng đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân,

chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của

Pháp, Nhật” [79, tr.64].

127

Theo Hồ Chí Minh, nhà nước Việt Nam phải là nhà nước dân chủ. Khái

niệm dân chủ được dùng với nghĩa là chính quyền của nhân dân. Ngày 3

tháng 9 năm 1945, tức là chỉ một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập tại

Quảng trường Ba Đình lịch sử tuyên bố khai sinh nước Việt Nam dân chủ

cộng hòa với nhân dân cả nước và toàn thế giới, Hồ Chí Minh nói rõ và nêu

chủ trương: “Trước chúng ta bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến

chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến

pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có

một Hiến pháp dân chủ” [79, tr.7]. Theo Hồ Chí Minh, Hiến pháp là đạo luật

cơ bản, lớn nhất, có ý nghĩa nhất, nó đảm bảo quyền dân chủ cho nhân dân ta.

Từ năm 1946 đến nay, Nhà nước Việt Nam, thông qua Quốc hội, đã ban hành

nhiều bản Hiến pháp, đó là đạo luật cùng với các cơ quan chức năng khác,

góp phần quan trọng trong việc bảo đảm quyền dân chủ cho nhân dân ta.

Nhà nước Việt Nam có tính chất nhân đạo. Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở

cán bộ các cơ quan Đảng và Nhà nước phải đối xử với nhau, giải quyết công

việc và sống với nhau có nghĩa, có tình: “Nếu thuộc bao nhiêu sách của chủ

nghĩa Mác - Lênin mà sống với nhau không có tình, có nghĩa thì coi như

không hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin” và “Nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp (của

cơ quan nhà nước) cũng như mọi mặt vấn đề khác là vấn đề ở đời và làm

người. Ở đời và làm người phải thương nước, thương dân, thương nhân loại bị

đau khổ, bị áp bức” [trích theo 121, tr.140,141]. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ

nhà nước phải có tinh thần nhân ái, sống với nhau, xử lý công việc phải theo

chủ nghĩa nhân đạo. Người dạy cán bộ nhà nước có tư tưởng, tình cảm, hành

động như vậy, cũng có nghĩa là Người chủ trương Nhà nước Việt Nam có tính

chất nhân đạo. Đây là biểu hiện đặc sắc về tính chất của nhà nước Việt Nam.

Tiếp nối tư tưởng Hồ Chí Minh, quan niệm của Đảng Cộng sản Việt

Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng không ngừng

được bổ sung, hoàn thiện qua hơn 30 năm đổi mới, với những nội dung cụ

128

thể: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt

động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp

luật [19, tr.175]. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là đại

biểu cao nhất của nhân dân [19, tr.177]; Chính phủ là cơ quan hành chính nhà

nước cao nhất [19, tr.178]; Tòa án của Nhà nước xét xử theo thẩm quyền [19,

tr.179]; Viện Kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm soát hoạt

động tư pháp [19, tr.179]; Các luật sư và bổ trợ tư pháp được nâng cao chất

lượng và hiệu quả hoạt động [19, tr.179]; Đội ngũ cán bộ, công chức được

xây dựng theo hướng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thu hút và

trọng dụng nhân tài [19, tr.181]; Nhà nước có nhiệm vụ đấu tranh phòng

chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, thực hành tiết

kiệm [19, tr.181]; Đảng Cộng sản tiếp tục đổi mới và lãnh đạo Nhà nước bằng

các chủ trương, chính sách, bằng sự gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp

luật của các tổ chức Đảng và đảng viên [19, tr.214].

Việc nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản

Việt Nam về nhà nước pháp quyền là điều cần thiết, bởi đây là căn cứ quan

trọng, có vai trò định hướng cho việc phát huy những ảnh hưởng tích cực và

hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng trị quốc Nho giáo trong quá trình

xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

4.1.2. Gắn kế thừa, lọc bỏ với đổi mới, phát triển những giá trị của

tư tưởng trị quốc Nho giáo trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Bối cảnh lịch sử của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam có sự ảnh hưởng từ tư tưởng trị quốc Nho giáo theo cả

hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Đấy là thực tại khách quan không ai có

thể phủ nhận. Vấn đề đặt ra là phải lọc bỏ những yếu tố tiêu cực trong tư

tưởng trị quốc của Nho giáo tác động đến đời sống xã hội và tiếp thu, kế thừa,

phát triển các giá trị tích cực của tư tưởng trị quốc Nho giáo nhằm phục vụ

129

mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. Những cái là giá

trị của tư tưởng trị quốc Nho giáo dù sao cũng thuộc về quá khứ, được hình

thành trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử trước đây. Thời đại đã đổi

thay nên những giá trị của quá khứ cũng cần phải được thẩm định lại để lọc

bỏ những gì không còn phù hợp, đồng thời bổ sung và phát triển thêm từ

những yêu cầu mới của cuộc sống.

Như đã bàn ở các chương, tiết trên, tư tưởng trị quốc của Nho giáo bao

gồm nhiều giá trị tích cực không chỉ mang tính lịch sử, mà cho đến hôm nay,

tức là hơn hai ngàn năm sau kể từ khi nó ra đời, có những nội dung vẫn còn

mang tính thời sự, tương đồng với các quan điểm, tư tưởng khoa học tiến bộ.

Các quan niệm, chủ trương người cầm quyền, tham gia chính sự phải tu

thân, tức là “sửa mình trở thành người tốt” để rồi tiến tới tề gia, tức là “chỉnh

đốn tốt việc nhà”, và tề gia được rồi để có điều kiện trị quốc, tức là “khiến cho

đất nước yên ổn” [37, tr.14], đó là những yêu cầu cần thiết, bởi vì đấy đều là

những công việc hữu ích nhằm đến mục tiêu xây dựng nên con người, gia

đình và đất nước như điều mà mọi thành viên trong xã hội hằng mong muốn.

Dĩ nhiên, tu thân của cán bộ công chức nhà nước hiện nay không phải là sự

tuân thủ theo những qui phạm đạo đức của Nho giáo định ra mấy ngàn năm

về trước mà phải tu dưỡng theo những chuẩn mực đạo đức mới, đồng thời là

sự tuân thủ kỷ cương, chấp hành nghiêm pháp luật nhà nước.

Trong đường lối chính sự, quản lý quốc gia, Nho giáo chủ trương trước

hết chủ thể trị quốc phải “chính danh”, tức là yêu cầu người lãnh đạo đất nước

phải nói và làm đúng với danh hiệu, chức phận của mình. Mệnh đề trên của

Khổng Tử được ông giảng giải cho học trò từ hơn hai ngàn năm trước, cho

đến hôm nay nó vẫn còn ý nghĩa, như một câu cách ngôn nhắc nhở, cảnh báo

mang tính giáo dục nhiều cán bộ, đảng viên, công chức của nhà nước hiện nay

phải làm tròn chức trách, bổn phận được giao, xứng đáng với vị trí, vai trò mà

mình được đảm nhận.

130

Trong tư tưởng trị quốc Nho giáo có chủ trương dưỡng dân, phú dân,

giáo dân và chú trọng làm cho dân tin người lãnh đạo. Khổng Tử biểu dương

ca ngợi Tử Sản: “Nuôi dân thì biết vỗ về, đưa lại nhiều ân huệ cho dân” [37,

tr.192]. Ông còn chủ trương làm cho “người già được nuôi dưỡng đầy đủ”,

“trẻ nhỏ được quan tâm chăm sóc” [37, tr.202]. Thấy dân đông và nghèo,

Khổng Tử nói: “Phải làm cho họ giàu lên”. Khi dân đã giàu lên rồi, Khổng Tử

nói: “Phải giáo hóa dân” [37, tr.373]. Thủy tổ của Nho giáo còn chú trọng làm

cho dân tín người lãnh đạo, vì, theo lời ông: “nếu nhân dân không còn tín

phục (nhân vật lãnh đạo), thì nước không thể đứng vững nổi” [37, tr.347-

348]. Đấy là những quan niệm, chủ trương mang tính nhân đạo, hợp lý, có giá

trị trường cửu trong đường lối trị quốc của Nho giáo.

Tại học thuyết trị quốc của Nho giáo có khá nhiều chủ trương sử dụng

pháp luật trong hoạt động chính sự, quản lý, điều hành xã hội. Chẳng hạn,

trong Kinh thư, Khổng Tử ghi lại lời của một nhà vua phán truyền một bề tôi:

“Người theo pháp luật mà xét xử, hình phạt nên theo phép thường của nhà

Ân”[142, tr.310];

Phải sáng suốt mà nghe lời lẽ, trị dân không việc gì không lo giữ

đạo trung chính. Trong xét xử khi nghe đôi bên nguyên, bị, không

được thiên vị bên nào. Của đút trong việc hình ngục, không phải là

quý, chỉ càng thêm tội, sẽ chịu báo ứng. Phải luôn luôn kính sợ việc

hình phạt… Trong thiên hạ không thể có chính lệnh riêng cho kẻ

thứ dân [142, tr.365].

Theo đây thì trong đường lối trị quốc của Nho giáo, việc cai quản, lãnh

đạo xã hội cần đến pháp luật và hình phạt, việc xét xử, tức công việc tư pháp

thực thi pháp luật, phải nghiêm minh, áp dụng cho toàn xã hội, không phải

riêng cho hạng dân thường trong xã hội.

Những quan niệm, chủ trương, tư tưởng trị quốc nói trên của Nho giáo

là hợp lý, đến nay còn mang tính thời sự, chúng ta nên tiếp thu, phát huy, áp

131

dụng có sáng tạo trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam là nhà nước có nhiệm vụ xây dựng con người mới, gia đình

văn hóa, sử dụng pháp luật, trọng dân, làm cho nhân dân giàu có cả về kinh tế

vật chất, cả về văn hóa tinh thần, làm cho dân tin tưởng vào người lãnh đạo

rồi dành tâm trí, sức lực để xây dựng nhà nước của mình.

Nhưng, như đã bàn luận và chỉ ra, trong tư tưởng trị quốc của Nho giáo,

ngoài các giá trị tích cực, còn có không ít dấu hiệu, biểu hiện tiêu cực là lực

cản của sự tiến bộ. Trong quá trình đổi mới để phát triển cũng như xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng ta phải lọc bỏ, khắc

phục những ảnh hưởng tiêu cực đó.

Trong tư tưởng trị quốc Nho giáo, người lao động chỉ được coi là đối

tượng của sự lãnh đạo, họ phải chịu sự lãnh đạo, với bổn phận là tuân thủ và

nghe theo. Mặt khác, vai trò của tuổi trẻ và của phụ nữ rất mờ nhạt, họ không

có mặt trong đội ngũ chủ thể trị quốc. Tư tưởng trị quốc của Nho giáo cũng

không thấy được vai trò của khoa học tự nhiên và kỹ thuật làm động lực cho

sự phát triển xã hội. Đó là những hạn chế, biểu hiện tiêu cực trong học thuyết

trị quốc của Nho giáo.

Ngày nay, trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, Đảng ta đã rất coi trọng vai trò của tuổi trẻ, phụ nữ, của khoa

học kỹ thuật và công nghệ. Trong đội ngũ lãnh đạo các cơ quan Đảng và Nhà

nước có không ít người trẻ tuổi và phụ nữ giữ các chức vụ quan trọng. Đảng

ta rất chú tâm phát triển và áp dụng cả khoa học xã hội, cả khoa học tự nhiên,

khoa học kỹ thuật và công nghệ vào trong đời sống xã hội và lao động sản

xuất làm cho năng suất lao động tăng cao, thúc đẩy đất nước và xã hội phát

triển, tiến nhanh. Tóm lại, những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng trị quốc

phải được lọc bỏ, khắc phục, và các giá trị tích cực, hợp lý trong học thuyết

ấy cần được tiếp thu, kế thừa, phát huy trong quá trình xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

132

4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

4.2.1. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

gắn với cải tạo các phong tục, tập quán lạc hậu do ảnh hưởng từ tư tưởng

trị quốc Nho giáo

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, thúc đẩy

lẫn nhau cùng phát triển. Để xây dựng, thực hiện các nguyên tắc của nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, tất yếu phải phát triển kinh

tế thị trường bởi đó chính là cơ sở vật chất cần thiết. Mặt khác, đây cũng là

tiền đề vật chất quan trọng để có thể khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực và

phát huy những ảnh hưởng tích cực từ tư tưởng trị quốc Nho giáo đối với việc

xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Tư tưởng trị quốc Nho giáo được hình thành trên cơ sở kinh tế là nền

nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún, lạc hậu với những công cụ lao động thô sơ và

nó tồn tại được cũng là dựa vào cơ sở kinh tế ấy. Do đó, muốn xóa bỏ những

tàn tích, khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của những tư tưởng, quan điểm lạc

hậu của những tư tưởng ấy thì vấn đề trước hết là phải xóa bỏ căn nguyên ấy.

C.Mác và Ph.Ăngghen từng để lại cho chúng ta những chỉ dẫn quan trọng:

Không thể đập tan mọi hình thái và sản phẩm của ý thức bằng sự

phê phán tinh thần, bằng việc quy chúng thành “tự ý thức” hay biến

chúng thành những “u hồn”, “bóng ma”, “tính kì quặc”… mà chỉ

bằng việc lật đổ một cách thực tiễn những quan hệ xã hội hiện thực

đã sản sinh ra tất cả những điều nhảm nhí duy tâm đó; rằng không

phải là sự phê phán mà cách mạng mới là động lực của lịch sử, của

tôn giáo, của triết học và của mọi lý luận khác [74, tr.54].

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế có vai

trò, vị trí quan trọng, được Đảng ta nhấn mạnh trong nhiều văn kiện quan

trọng. Tại Báo cáo chính trị trình Đại hội IX, có viết: “Đảng và Nhà nước ta

133

chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế

hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của

Nhà nước và theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [16, tr.86].

Từ khi áp dụng thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa, tức là nền kinh tế nhằm đến mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội và

dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nước ta đã có bước phát triển vượt bậc.

Cơ chế kinh tế này đã làm cho người sản xuất chú trọng, phát huy cao nhất sự

đột phá, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám thay đổi. Do vậy mà sản xuất phát

triển, năng suất lao động ngày một lên cao, của cải vật chất của xã hội ngày

một thêm nhiều, chất lượng cao. Xem thế, phát triển kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng là cực kỳ quan trọng và

cần thiết. Chủ trương, việc làm này đã làm cho dân giàu nước mạnh, kinh tế

phát triển. Kinh tế bao giờ, ở đâu cũng là nền tảng, điều kiện cần thiết cho sự

phát triển các vấn đề, lĩnh vực chính trị, văn hóa, khoa học, v.v.. Xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tất yếu phải trên những cơ

sở chính trị, kinh tế và văn hóa xã hội vững chắc. Chú trọng phát triển nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng

Cộng sản, chính là tạo ra cơ sở kinh tế vững chắc để xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa như trên

đã phân tích, đó là việc làm tất yếu để tạo ra cơ sở kinh tế cho việc xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế tiên tiến, hiện đại. Nó đòi hỏi phải được

áp dụng khoa học kỹ thuật để tạo ra nhiều, nhanh sản phẩm có chất lượng cao.

Nho giáo không bàn, không coi trọng khoa học kỹ thuật. Vậy, thực hiện nền

kinh tế thị trường, như nói ở trên, là nền kinh tế đòi hỏi phải áp dụng khoa

học kỹ thuật, sẽ góp phần khắc phục một ảnh hưởng tiêu cực, khiếm khuyết

134

của nho giáo là coi thường, không thấy được tác dụng của khoa học kỹ thuật.

Nền kinh tế rất cần có khoa học nói ở đây đòi hỏi con người thực hiện nó phải

có tác phong làm việc khoa học, có kỷ luật, không được tùy tiện, lề mề, chậm

chạp, phải coi trọng việc học tập nâng cao tri thức về nhiều mặt. Kinh tế thị

trường tạo ra được nhiều sản phẩm, góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh.

Người lãnh đạo, tổ chức thực hiện nền kinh tế thị trường không phải là ai khác

đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước ta. Đội ngũ này tất phải có chủ trương,

quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới để cùng phát

triển chứ không thể đóng cửa, không ra khỏi nhà như người quân tử - một chủ

thể trị quốc của nho giáo v.v... Như thế, thực hiện kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa lúc này đã và sẽ khắc phục được nhiều ảnh hưởng tiêu

cực của nho giáo (không quan tâm, chú ý đến khoa học kỹ thuật, quan niệm

người lãnh đạo không phải xông xáo thâm nhập thực tế, v.v...), đồng thời phát

huy được ảnh hưởng tích cực từ học thuyết này (quan tâm phú dân, giáo dân,

dưỡng dân, v.v.). Đấy là hệ quả tất yếu, chứ không phải là mục tiêu của nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Trong tư tưởng trị quốc Nho giáo tuyệt đối không bàn luận, không thấy

được vai trò quan trọng của khoa học kỹ thuật đối với đời sống xã hội nói

chung, đối với lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất nói riêng. Đây là

nhược điểm, hạn chế trong tư tưởng trị quốc của Nho giáo, nó mang tính lịch

sử, nhưng có ảnh hưởng đến ngày nay tại Việt Nam. Dân lao động nước ta

nhiều người không biết hoặc không mấy quan tâm đến khoa học, kỹ thuật,

công nghệ hiện đại được áp dụng vào sản xuất, từ đó có thói quen lao động

sản xuất tùy tiện, thích làm thì làm, muốn nghỉ thì nghỉ, ý thức tổ chức kỷ luật

chưa cao. Thói quen và tâm lý này cần được khắc phục thì mới phù hợp với

kiểu cách lao động sản xuất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa và của kinh tế tri thức.

Cùng với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì

việc cải tạo các phong tục, tập quán lạc hậu do ảnh hưởng từ tư tưởng trị quốc

135

Nho giáo cũng là yêu cầu cần thiết để có thể hạn chế, khắc phục những ảnh

hưởng tiêu cực và phát huy ảnh hưởng tích cực từ tư tưởng trị quốc Nho giáo.

Những tàn dư tiêu cực tư tưởng trị quốc Nho giáo không chỉ có cơ sở kinh tế xã

hội là những yếu tố của nền sản xuất nhỏ, những khiếm khuyết trong cơ chế

quản lý kinh tế xã hội mà cả những phong tục, tập quán cũ, lạc hậu của nhân

dân, như “phép vua thua lệ làng” dẫn đến tâm lý coi thường pháp luật, tư tưởng

“sống lâu lên lão làng” dẫn đến sự xem thường lớp trẻ, tư tưởng trọng nam

khinh nữ, tư tưởng địa vị ngôi thứ, tâm lý hiếu danh, trọng quan khinh dân...

Đó là những tập quán ảnh hưởng tiêu cực đến việc xây dựng và thực hiện các

nguyên tắc của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần được khắc phục.

4.2.2. Phát huy những yếu tố tích cực từ học thuyết trị quốc của

Nho giáo có sự tương đồng với tư tưởng pháp quyền tiên tiến của nhân

loại trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt

Nam hiện nay

Qua nghiên cứu, đối chiếu, so sánh có thể thấy, tư tưởng trị quốc Nho

giáo không phải tất cả đều là “cặn bã” như có người từng nhận định. Trên

thực tế, học thuyết ấy cũng có những điểm tương đồng nhất định với một số

quan niệm, tư tưởng pháp quyền trong lịch sử nhân loại. Đó cũng là những

yếu tố làm nên giá trị của tư tưởng trị quốc Nho giáo. Trong quá trình xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta, việc phát huy

những yếu tố đó là điều cần thiết.

Trong tư tưởng trị quốc, tác giả Nho giáo bàn khá nhiều về việc phải

coi trọng và sử dụng lễ. Trong Luận ngữ, tại chương 12, tiết 15, có ghi lời của

Khổng Tử như sau: “Người quân tử (một chủ thể trị quốc) học tập sâu rộng,

biết lấy lễ để ràng buộc mình, sẽ không bao giờ trái với đạo lý” [37, tr.355].

Khổng Tử bàn tiếp về lễ trong đường lối trị quốc: “Người bề trên coi trọng lễ

thì lãnh đạo dân chúng rất dễ” [37, tr.426]. Vẫn là lời Khổng Tử: “Quản lý nhà

nước phải cần đến lễ” [37, tr.339]; “Lễ có thể khiến cho ta lập thân trong xã

136

hội” [37, tr.268]; v.v... Trong các chương, tiết trên đã phân tích, Nho giáo dùng

khái niệm lễ với ý nghĩa là cái “có thể làm cho mọi người hiểu rõ quy phạm

hành vi xã hội, làm cho cốt cách con người thêm vững vàng, giúp cho người ta

đứng vững trong xã hội” [37, tr.268] như nhiều nhà nghiên cứu nhận định.

Khổng Tử nói tiếp về lễ: “Cung kính mà không biết lễ thì khó nhọc. Cẩn thận

mà không biết lễ thì thành ra sợ hãi. Dũng cảm mà không biết lễ thì xảy ra loạn

nghịch. Ngay thẳng mà không biết lễ thì rất dễ mắc bệnh nóng nảy” [37,

tr.260]. Nhiều nhà nghiên cứu Trung Quốc cho rằng, lễ ở đây là tiêu chuẩn cao

nhất của đạo đức và là chuẩn tắc, phép tắc đúng. Tức là ngoài ý nghĩa thuộc

phạm trù đạo đức, lễ còn được dùng với nghĩa là phép tắc, khuôn mẫu quy định

trong xã hội cho con người làm theo. Vậy, thực chất của lễ rất gần với pháp

luật, nhiều khi nó mang ý nghĩa như là pháp luật.

Trong đường lối, phương thức trị quốc, Nho giáo cũng có quan niệm,

chủ trương phải sử dụng pháp luật. Chẳng hạn, tại chương 11, tiết 4 quyển

Đại học có ghi: “Làm người cai trị quốc gia không thể không cẩn thận. Nếu

để sơ suất một phân ly, không noi theo khuôn phép, tất sẽ bị nhân dân loại bỏ

ngay” [37, tr.32]. Khuôn phép ở đây là khuôn phép, quy định, phép tắc, thực

chất là pháp luật của quốc gia. Qua đây chứng tỏ trong học thuyết trị quốc rất

coi trọng pháp luật, làm theo pháp luật để không bị nhân dân loại bỏ.

Trong Kinh Thư, một trong những bộ kinh điển quan trọng của Nho

giáo, đó là quyển sách về lịch sử do Khổng Tử san định lại. Tại đây bàn

tương đối nhiều về pháp luật trong đường lối trị quốc. Nhà vua nói với một

bề tôi: “Việc tư pháp ngươi hãy chiếu theo pháp luật, quan hữu tư cứ theo

hình luật của nhà Ân mà xét xử, đã có phân định mức độ… Ngươi theo

pháp luật mà xét xử, hình phạt nên theo phép thường của nhà Ân. Bắt tội

người, giết người phải đúng lẽ, chớ theo ý riêng của ngươi” [142, tr.310].

Nhà vua nói trên lệnh tiếp cho bề tôi có tên gọi là Phong ấy: “Phong! Ta

không thể không đem gương người xưa để bảo ngươi nên dùng đức hơn là

137

hình phạt” [142, tr.312]. Hai chữ “hình phạt” nói ở đây là hình phạt theo

pháp luật. Nhưng vị vua này nói thêm: “Ta đã nhiều lần bằng đạo đức, để

dẫn dụ họ nhưng họ vẫn chưa yên lòng” [142, tr.312]. Qua những câu trích

dẫn kể trên chứng tỏ, nhà vua -người đứng đầu cai trị đất nước rất coi trọng

pháp luật, chủ trương phải dùng cả pháp luật và hình phạt chứ không chỉ

đơn thuần dùng đức trị, vì có lúc dùng đức trị không được kết quả mong

muốn, và thực thi pháp luật một cách công minh, đúng lẽ, chứ không theo ý

chủ quan riêng của cá nhân người thực thi pháp luật. Trong Kinh thư bao

gồm nhiều tư tưởng tỏ ra chú trọng pháp luật như vậy. Trong Nho giáo có

lúc, có nơi nhấn mạnh vai trò, tác dụng của đạo đức, lúc khác, tại nơi khác

lại tỏ ra coi trọng pháp luật trong thực hiện hình phạt, tức thực thi pháp

luật. Trong bộ Kinh thư có đoạn viết về pháp luật chuyển tải tư tưởng, quan

niệm về pháp luật mang tính hợp lý và vượt trước thời đại: “Trong khi xét

xử khi nghe đôi bên nguyên, bị, không được thiên vị bên nào. Của đút

trong việc hình ngục, không phải là quý, chỉ càng thêm tội, sẽ chịu báo

ứng. Phải luôn luôn kính sợ việc hình phạt… Trong thiên hạ không thể có

chính lệnh riêng cho kẻ thứ dân” [142, tr.365].

Những trích dẫn về pháp luật, hình phạt nói trên trong Kinh thư cho thấy

từ thời cổ đại, cụ thể là thời nhà Chu (từ thế kỷ XI trước công nguyên đến năm

221 trước công nguyên) [86, tr.221] và tại học thuyết trị quốc nói riêng, trong

Nho giáo của Khổng Tử nói chung đã tỏ ra rất coi trọng pháp luật để quản lý

quốc gia, làm cơ sở xét xử công bằng cho người dân, nghiêm cấm dùng tiền

bạc, của cải vật chất đút lót khi xét xử mong được giảm hoặc xóa tội.

Từ những điều trích dẫn, bàn luận sơ bộ ở trên cho thấy, trong đường

lối trị quốc của Nho giáo rất chú trọng sử dụng pháp luật, hơn nữa, là pháp

luật công minh cho “thứ dân”, tức là cho mọi người dân trong xã hội.

Quan niệm, chủ trương thực thi pháp luật trong tư tưởng trị quốc của

Nho giáo như bàn ở trên có sự tương đồng với những giá trị trong tư tưởng

138

pháp quyền tiên tiến của nhân loại, với những đại biểu điển hình ở phương

Tây, như:

John Stuard Mill (1806-1873), nhà tư tưởng Anh cho rằng, tự do cá

nhân phụ thuộc vào hai điều kiện là trình độ dân trí và sự nghiêm minh của

pháp luật [143, tr.39].

Montesquien (1689-1755), nhà triết học khai sáng, nhà luật học, nhà

văn Pháp, quan niệm quyền lực tối thượng thuộc về nhân dân; trong mỗi quốc

gia đều có ba thứ quyền là lập pháp, tư pháp và hành pháp; quyền lập pháp

giao cho nghị viện, quyền hành pháp giao cho chính phủ, quyền tư pháp giao

cho tòa án [143, tr.39-40].

J.J.Rousseau (1712-1788), nhà triết học khai sáng, nhà chính trị, nhà

văn Pháp, cho rằng khế ước xã hội có thể hiểu là pháp luật và bộ máy nhà

nước do dân tạo ra [143, tr.42-43].

I.Kant (1724-1804), nhà triết học cổ điển Đức, cho rằng hoạt động của

nhà nước phải đặt dưới pháp luật, đó là một đòi hỏi khách quan của lịch sử

[143, tr.45].

G.W.F.Hegel (1770-1831), nhà triết học cổ điển Đức, cho rằng nhà

nước là biểu hiện cao nhất của pháp luật và của tự do [143, tr.46].

Có thể nói, đã có nhiều nhà tư tưởng trên thế giới ca ngợi, khẳng định

vai trò, vị trí cực kỳ quan trọng của pháp luật trong đời sống xã hội, pháp luật

là văn bản, đạo luật không thể thiếu cho con người trong xã hội có nhà nước.

Những giá trị về quan niệm, chủ trương sử dụng pháp luật trong tư

tưởng trị quốc của Nho giáo có sự tương đồng với nhiều tinh hoa tư tưởng

pháp quyền tiên tiến của nhân loại, vì thế, cần được phát huy, vận dụng sáng

tạo trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam, lúc toàn Đảng, toàn quân, toàn dân

ta đang từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà

nước đặc biệt chú trọng sử dụng pháp luật một cách công bằng với mọi người

139

dân trong nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, giới tính, tuổi tác, nghề

nghiệp, dân tộc, đảng phái, có hay không có tín ngưỡng tôn giáo...

4.2.3. Khắc phục ảnh hưởng của tư tưởng tôn quân, trọng quan,

gia trưởng, chuyên quyền trong tư tưởng trị quốc của Nho giáo trên cơ sở

thực hành dân chủ, xây dựng kỷ cương xã hội

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng như nhà nước dân chủ

nhân dân ở Việt Nam đều là nhà nước do nhân dân xây dựng nên. Quốc hội là

cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước cao

nhất, do nhân dân bầu ra. Nhân dân dùng quyền công dân của mình sáng suốt

lựa chọn bầu những người có đạo đức, có tài làm đại biểu, thành viên của

Quốc hội. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Tất cả

các cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương cũng do nhân dân bầu ra và là

các cơ quan của nhân dân.

Các cơ quan nhà nước từ địa phương đến trung ương đều do nhân dân

bầu ra, do vậy, là của nhân dân, và cũng do vậy, những cơ quan ấy tất yếu

hoạt động vì nhân dân, phục vụ nhân dân, đảm bảo cho nhân dân được hưởng

quyền công dân, quyền con người một cách thật sự và đầy đủ nhất. Một trong

những quyền công dân, quyền con người ấy của nhân dân là quyền dân chủ.

Quyền được dân chủ có ý nghĩa quan trọng đặc biệt của nhân dân. Nhân dân

phải được hưởng dụng quyền dân chủ thật sự, từ đó mới thực hiện được

nhiều, đầy đủ các quyền con người khác của mình. Bởi vì, nếu không được

quyền dân chủ, làm chủ thì không thể nói gì đến được hưởng các quyền con

người khác.

Do vậy, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải chăm lo

thực hành dân chủ để cho nhân dân được quyền dân chủ. Dân chủ vừa là mục

tiêu vừa là động lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

hiện nay. Nhà nước này chăm lo cho nhân dân được hưởng dụng, thực thi

quyền dân chủ, nhân dân sẽ có điều kiện, phát huy trí tuệ và hoạt động sáng

140

tạo vào quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

là Nhà nước của nhân dân, vì nhân dân.

Vấn đề thực hành dân chủ có quan hệ, gắn bó hữu cơ với xây dựng kỷ

cương xã hội. Muốn thực hành dân chủ thì phải chú ý xây dựng kỷ cương xã

hội, thực hiện dân chủ cũng phải tuân thủ theo kỷ cương của xã hội, nếu

không, thì cái gọi là dân chủ sẽ trở thành hoạt động vô chính phủ, phản dân

chủ, hơn nữa, làm hỗn loạn xã hội. Thực hành dân chủ để nhân dân có quyền

dân chủ. Quyền dân chủ bao giờ cũng được thực hiện trong khuôn khổ luật

pháp, kỷ cương của xã hội.

Như vậy, thực hành dân chủ cần phải đồng thời xây dựng kỷ cương xã

hội; thực hành dân chủ và xây dựng kỷ cương xã hội cùng có mục đích cho

nhân dân được hưởng quyền dân chủ.

Dân chủ chỉ có thể được thực hiện, kỷ cương xã hội chỉ được xây dựng

có kết quả khi các lực cản nó được loại bỏ. Các lực cản ấy có thể là con số

nhiều. Sau đây chỉ đề cập những ảnh hưởng tiêu cực như tư tưởng tôn quân,

trọng quan, gia trưởng, chuyên quyền từ học thuyết trị quốc của Nho giáo.

Trong các chương tiết trên đây đã phân tích rồi chỉ rõ: chủ thể trị quốc

theo quan niệm chủ trương của Nho giáo chỉ bao gồm những bậc vua, bề tôi

hiền tài, kẻ sĩ, người quân tử. Kết quả, mục tiêu của trị quốc là “khiến cho đất

nước yên ổn” [37, tr.14]. Từ đây bao thế hệ người Việt Nam không thể không

có tâm lý, sự ngưỡng vọng bậc vua quan cùng các đấng trượng phu. Suốt hơn

hai ngàn năm lịch sử dân Việt Nam từ người ít học, hoặc không được đi học,

đến người có may mắn, điều kiện học hành nhiều cũng được nghe, được đọc

quan niệm và sự khẳng định mục tiêu trị quốc nói trên. Vua, quan là chủ thể trị

quốc, không phải là vô tình, cũng không phải là ngẫu nhiên, mà là tất yếu trở

thành thần tượng của bao lớp người Việt Nam. Tâm lý này của bao lớp người

Việt Nam vô hình trung họ tạo ra sự ngăn cách giữa tầng lớp lãnh đạo với đông

đảo quần chúng nhân dân ít học, phải lao động vất vả, chân lấm tay bùn. Bây

141

giờ trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

cả tầng lớp cán bộ, công chức là những người lãnh đạo, làm việc trong các cơ

quan nhà nước, cả quần chúng lao động chân tay đều cần phải có quan niệm,

nhận thức lại cho đúng mức rằng, trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,

mọi người dân đều bình đẳng trước pháp luật. Người có chức vụ, địa vị cao

trong xã hội ta lúc này cũng phải gương mẫu, chấp hành đúng pháp luật như

mọi người dân, chứ không được bất chấp, coi thường pháp luật. Mọi người dân

Việt Nam trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta nên, hơn

nữa, cần phải coi trọng những cán bộ cao cấp đúng mức, chứ không thể biến

cấp lãnh đạo của mình thành những ông vua, ông quan cách mạng.

Để trị quốc được, Nho giáo quan niệm, chủ trương phải tề gia trước.

Chỉnh đốn được tốt việc nhà, điều ấy ai cũng mong muốn và ghi công cho nhân

vật ông chủ đã làm được cái việc tề gia. Người Việt Nam trong xã hội cũ thần

tượng hóa chủ nhà của mình, khi gia chủ đó có ít hoặc nhiều công lao cho vợ

con, gia đình. Đầu óc, tư tưởng gia trưởng, chuyên quyền ấy của phần đông dân

Việt Nam vốn ít được học hành đến nơi đến chốn còn lan truyền ra ngoài xã

hội. Anh nông dân Việt Nam sinh trưởng trong gia đình, xã hội từ bao đời sản

xuất nhỏ nông nghiệp lạc hậu. Rồi cách mạng thành công, anh ta cùng với cả

dân tộc được đổi đời. Anh ta được đi học có được ít nhiều kiến thức văn hóa và

lý luận chính trị, rồi được vào công tác tại cơ quan Đảng hoặc nhà nước. Lúc

ấy, anh ta cũng như nhiều cán bộ, công chức khác còn chưa rũ hết tâm lý gia

trưởng, chuyên quyền. Anh ta cũng như nhiều đồng chí đồng nghiệp trong cơ

quan thường gọi xưng hô với nhau là “chú”, “cháu” hoặc “anh”, “em” như

người trong một gia đình, dòng họ. Vô tình họ tự tạo ra những quan hệ lẽ ra là

bình đẳng thành quan hệ thứ bậc. Nhiều khi những cán bộ, công chức trong

thời đại mới hiện nay thuyết phục nhau không phải bằng lý lẽ, lập luận chỉ ra

cái đúng, điểm sai, mà bằng quan hệ thứ bậc, bằng tuổi tác.

142

Những tâm lý, tư tưởng “tôn quân”, “trọng quan”, “gia trưởng”,

“chuyên quyền” đó gây cản trở cho việc thực hiện nguyên tắc sống và làm

theo pháp luật. Chúng ta đang trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa, tất yếu phải hình thành được một hệ thống pháp luật, vì thế,

cũng tất yếu phải loại bỏ tâm lý “tôn quân”, “trọng quan”, “gia trưởng”

“chuyên quyền” vốn chịu ảnh hưởng từ tư tưởng trị quốc của Nho giáo đã

không coi trọng đúng mức vai trò của pháp luật.

4.2.4. Khắc phục tâm lý coi thường pháp luật do ảnh hưởng từ tư

tưởng trị quốc của Nho giáo, kết hợp giáo dục đạo đức với ý thức tuân

thủ pháp luật trong xã hội

Một trong những đặc trưng bản chất của nhà nước pháp quyền là tính

thượng tôn pháp luật. Do đó, khắc phục tâm lý coi thường pháp luật do ảnh

hưởng từ tư tưởng trị quốc của Nho giáo, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật

trong nhân dân là yêu cầu thiết yếu trong việc phát huy ảnh hưởng tích cực,

hạn chế ảnh hưởng tiêu cực từ tư tưởng trị quốc Nho giáo trong việc xây dựng

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Thực tế cho thấy, đạo đức và pháp luật đều là những phương thức điều

chỉnh hành vi của mỗi con người và các mối quan hệ xã hội. Chúng có vai trò

quan trọng ở những phạm vi và điều kiện khác nhau, không thể thay thế nhau,

cũng không nên cường điệu cái này mà phủ nhận cái kia.

Đạo đức xét đến ở đây với hai ý nghĩa. Thứ nhất, đó là những quy định

bất thành văn bản, mà là “những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội

thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với

xã hội” [102, tr.370]. Đạo đức ở đây không phải là những đạo luật buộc con

người phải thực hiện, mà chỉ là những điều được dư luận xã hội thừa nhận.

Dư luận xã hội xưa nay không phải là cái người ta dễ dàng cho qua được. Trái

lại, nó có sức mạnh, sự ràng buộc, điều chỉnh hành vi của con người không

kém gì luật thành văn. Ở đời có mấy ai không quan tâm đến dư luận xã hội

143

đâu. Dư luận xã hội ca ngợi, biểu dương, đồng tình với cá nhân, tập thể nào

đấy, điều đó làm cho đối tượng được ca ngợi, biểu dương cảm thấy phấn

khích, kiêu hãnh chính đáng. Ai đó hoặc tập thể, típ người nào đó nếu bị dư

luận xã hội chỉ trích, lên án thì cũng rất khổ tâm, có người cảm thấy không

chịu nổi búa rìu dư luận xã hội.

Đạo đức đang xét ở đây còn có ý nghĩa thứ hai nữa, đó là “phẩm chất

tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn nhất định mà có”

[102, tr.370].

Giáo dục đạo đức cho con người trong quá trình xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhằm góp phần hình thành nên

những con người có phẩm chất tốt đẹp vừa để tổ chức xây dựng, vừa để quản

lý, điều hành nhà nước đó. Nhà nước tiến bộ, ưu việt nhất trong lịch sử nhân

loại được xây dựng ở Việt Nam nhất định phải là công sức, trí tuệ và ý chí

quyết tâm của những con người có phẩm chất tốt đẹp. Giáo dục đạo đức để

góp phần hình thành những con người có phẩm chất như thế là một trong

nhiều giải pháp thực tiễn chủ yếu.

Để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng ta

còn phải thực thi giải pháp giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật cho mọi thành viên

trong xã hội. Nhà nước pháp quyền là nhà nước có hệ thống pháp luật, quản lý,

điều hành xã hội bằng pháp luật, pháp luật được các cơ quan nhà nước dùng để

xử lý, giải quyết mọi vấn đề trong xã hội. Công dân trong xã hội có nhà nước

pháp quyền cần phải am hiểu pháp luật để nói và làm đúng theo pháp luật. Do

vậy giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật là một trong những giải pháp xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

Đã từ lâu cho đến lúc này, trong đời sống khoa học và đời sống xã hội

Việt Nam có sự tiếp cận, lĩnh hội thiếu chính xác tư tưởng về pháp luật trong

học thuyết trị quốc của Nho giáo, vì thế, dẫn đến tình trạng ở ta có tâm lý coi

thường, hoặc là chưa coi trọng đúng mức về pháp luật. Bởi vậy, thiết nghĩ,

144

tâm lý ấy cần được thanh trừ đi để không đóng được vai trò là lực cản của quá

trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam. Trong

quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền rất chú trọng hình thành một hệ

thống pháp luật và thực hiện pháp luật trong quản lý, điều hành đất nước.

Đúng là trong tư tưởng trị quốc, tác giả Nho giáo có bàn, nhấn mạnh

nhiều về vai trò của đạo đức đối với quản lý chính sự quốc gia, chẳng hạn,

trong cương lĩnh “trị quốc bình thiên hạ” do Nho giáo đề xướng gồm có “tam

cương” và “bát mục”. Tam cương là ba cương lĩnh: 1) Minh minh đức, 2) Tân

dân, 3) Chỉ ư chí thiện [37, tr.13]. Minh minh tức là “phát huy đức sáng, tính

tốt, tính thiện của nhân dân, yêu cầu giai cấp thống trị phát huy quan niệm đạo

đức, luân lý truyền thống nho gia để duy trì trật tự xã hội, đề xướng thực hành

đường lối đức trị” [37, tr.13]. Chỉ ư chí thiện là “đạt đến đạo đức hoàn thiện

nhất” [37, tr.13]. Như vậy, ở đây, khi bàn về vấn đề trị quốc, Nho giáo đã nhấn

mạnh vai trò đạo đức và chủ trương đức trị, tức là dùng đạo đức để trị quốc.

Trong tư tưởng trị quốc, Nho giáo còn nhấn mạnh vai trò của đạo đức

trong hoạt động chính trị, quản lý quốc gia. Nho giáo, học thuyết của Khổng

Tử có nội dung rất phong phú, đa dạng, trong đó gồm nhiều học thuyết nổi

tiếng, quan trọng như: tư tưởng trọng dân, dưỡng dân, phú dân, giáo dân; tư

tưởng về đạo đức, học thuyết về nhận thức luận; bàn luận về lịch sử; bàn luận

về văn học nghệ thuật; bàn về quân đội và chiến tranh; bàn về chính trị; học

thuyết trung thứ; học thuyết chính danh, v.v.. Đạo đức và chính trị chỉ là một

nội dung cấu thành Nho giáo.

Nho giáo nói chung và học thuyết về trị quốc trong đó nói riêng cũng

bàn khá nhiều về vai trò của pháp luật trong hoạt động chính trị, quản lý đất

nước. Trong Kinh thư, Khổng Tử ghi lại lời chỉ giáo của một nhà vua như

sau: “Phải xem xét, phải dựa vào luật pháp mà xem xét thận trọng” [142,

tr.364]. Thí dụ khác, vẫn trong tác phẩm lịch sử nói trên có ghi lại quan niệm,

chủ trương coi trọng pháp luật trong chủ trương trị quốc của Nho giáo: “Xử

145

kiện phải có lòng thương xót kẻ có tội, cung kính trong việc xét xử. Phải nắm

vững pháp luật, cùng mọi người nghiền ngẫm, mới mong có được sự ngay

thẳng. Gia hình xử phạt cần phải xét kỹ” [142, tr.365] v.v... Tức là trong tư

tưởng trị quốc của Nho giáo, có nhiều chỗ bàn về sự cần thiết dùng đức trị,

nhưng cũng có không ít lần nhấn mạnh tầm quan trọng và sự cần thiết của

pháp luật. Tuy nhiên, các nhà nho nhấn mạnh và đề cao vai trò của đạo đức

hơn, xem đó là công cụ hiệu quả hơn so với sử dụng pháp luật và hình phạt

trong việc trị quốc.

4.2.5. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong sạch,

vững mạnh, kết hợp với phát huy dân chủ và tôn trọng pháp luật

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

là nhiệm vụ cần thiết và cấp bách. Một trong những giải pháp thực tiễn của

quá trình trên là phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của nhà nước ấy

sao cho tinh, gọn, đủ mạnh, gồm những con người có phẩm chất đạo đức

trong sáng, lối sống lành mạnh, lập trường kiên trung, có năng lực và tinh

thông nghiệp vụ, hoạt động có chất lượng, hiệu quả cao. Nếu không xúc tiến

giải pháp này, tức là không xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức nhà

nước có phẩm chất như trên, thì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam có nói hay nói tốt đến mấy cũng chỉ là nhà nước tồn tại trên văn bản, lý

thuyết, chứ về thực chất, không tồn tại trong hiện thực.

Trong tư tưởng trị quốc của Nho giáo, vấn đề đào tạo con người, nhất

là những người cầm quyền trị nước, trị dân rất được coi trọng. Nó đặt ra

những tiêu chuẩn rất cao, đòi hỏi người tham gia chính sự phải tu dưỡng,

phấn đấu. Nguyên tắc “chính danh” - người ở địa vị nào thì phải làm đúng

chức trách, bổn phận của địa vị đó; “vua phải ra vua, tôi phải ra tôi” mới

khiến cho xã hội không rơi vào đại loạn. Gạt bỏ đi những mặt lỗi thời của nó

thì tinh thần của những tư tưởng ấy vẫn là điều mà chúng ta có thể kế thừa,

phát huy trong xây dựng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước hiện nay. Những

cán bộ, công chức nhà nước có được khí khái, phẩm chất trượng phu mà Nho

146

giáo nêu ra, như “Phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng

khuất” vẫn là điều cần thiết. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý có nhân nghĩa,

hiếu trung, có vai trò và trách nhiệm nêu gương cho dân chúng vẫn là đòi hỏi

của xã hội hiện nay. Tuy nhiên, những phẩm chất đó phải được hiểu theo tinh

thần cách mạng, với những nội dung và ý nghĩa mới. Điều đó cho thấy, kế

thừa, phát huy tinh thần của tư tưởng trị quốc Nho giáo về đào tạo, xây dựng

đội ngũ tham gia chính sự trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ công chức nhà

nước trong sạch, vững mạnh để hướng tới một “nhà nước liêm chính” là điều

có ý nghĩa.

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong quá trình hoàn

thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, cần chú trọng

những vấn đề cơ bản sau:

Về tiêu chuẩn chọn lựa cán bộ, công chức các cơ quan nhà nước phải

bảo đảm: có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức lành mạnh

trong sáng; có trình độ năng lực chuyên môn, phù hợp, đáp ứng được yêu cầu

của giai đoạn mới. Về bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức của cán bộ,

công chức thì trước sau đều phải bảo đảm như vậy. Qua thực tế, chúng ta cần

rút ra được bài học phải đặc biệt coi trọng phẩm chất đạo đức và bản lĩnh

chính trị khi chọn, tuyển cán bộ, công chức cho các cơ quan nhà nước, tránh

tiếp nhận và tuyển dụng vào các cơ quan nhà nước những kẻ đầu óc ấp ủ mưu

kế tham ô tiền bạc của nhà nước và nhân dân, bằng biện pháp nghiệp vụ để

phát hiện được sớm những nhân vật có mưu đồ phản động chống Đảng, chống

nhà nước, chống chế độ, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh và đường lối chính sách của Đảng. Chúng ta xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp

lần thứ tư đang trên đà tăng tốc mạnh mẽ, đòi hỏi chủ thể của nó phải hết sức

coi trọng công tác học tập, đào tạo nâng cao trình độ, nhân cách, khoa học, kỹ

thuật và công nghệ hiện đại. Do đó, tuyển chọn, xây dựng đội ngũ cán bộ,

công chức nhà nước hiện nay bên cạnh việc chú trọng phẩm chất đạo đức, bản

147

lĩnh chính trị còn phải hết sức chú trọng trình độ học vấn, kiến thức khoa học

của đối tượng tuyển chọn mới có thể đáp ứng đòi hỏi của đất nước và thời đại.

Về phương thức tuyển chọn cán bộ, công chức, cần đa dạng hóa cách

thức tuyển chọn, căn cứ vào điều kiện cụ thể, song cần đảm bảo công khai,

minh bạch. Đó là yêu cầu thiết yếu để có thể chọn đúng người, phù hợp với

năng lực, sở trường và yêu cầu công việc, tránh hiện tượng “qui trình thì đúng

mà vẫn chọn sai người”.

Về đánh giá cán bộ công chức, theo chủ trương của Đảng là căn cứ vào

kết quả công việc mà cán bộ, công chức đã hoàn thành. Phẩm chất đạo đức

của cán bộ, công chức cũng nên được bình xét từ việc làm, nhiệm vụ được

giao của họ. Sẽ không thể có cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức tốt, có

năng lực thực sự mà kết quả lao động của người ấy lại thấp. Phẩm chất đạo

đức và năng lực của cán bộ, công chức, phải được đo bằng kết quả, hiệu quả

lao động. Về vấn đề này Đảng ta đã chỉ rõ tại văn kiện Đại hội VI cho đến Đại

hội XII, nhưng có lúc, có nơi ở cơ quan nhà nước này hoặc cơ quan nhà nước

kia chưa quán triệt đúng quan điểm của Đảng trong bình xét phẩm chất đạo

đức và trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức.

Trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, thiết nghĩ, cũng

cần khắc phục quan niệm, coi thường phụ nữ trong tư tưởng trị quốc của Nho

giáo. Tại học thuyết này, trong chủ thể trị quốc, tuyệt đối không có phụ nữ.

Đấy là một quan niệm, chủ trương và việc làm sai lầm, không đúng về phụ

nữ. Lịch sử đã chứng minh, phụ nữ cũng có khả năng tham gia hoạt động

chính trị, cũng có khả năng, tinh thần, ý chí và nghị lực không kém gì nam

giới. Cần khắc phục tư tưởng trọng nam khinh nữ không chỉ trong gia đình

mà trong cả các cơ quan, bộ máy nhà nước.

Để có được một đội ngũ cán bộ công chức nhà nước thực sự trong sạch,

vững mạnh, có thể đảm đương và hoàn thành trọng trách trước những thách

thức nghiệt ngã của cuộc sống phức tạp trong bối cảnh kinh tế thị trường đầy

cám dỗ phải gắn liền với việc không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật,

148

đảm bảo tính khách quan, công bằng, nghiêm minh của pháp luật, đồng thời

phải thực hành dân chủ, phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân trên

mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Tiểu kết chương 4

Ngày nay, Nho giáo tuy không còn giữ địa vị của hệ tư tưởng thống trị

nhưng những dấu ấn và ảnh hưởng của nó chưa phải đã hết, nó vẫn bám rễ và

ảnh hưởng mang tính hai mặt đến xã hội và con người Việt Nam ở những

mức độ nhất định. Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, việc khai thác những yếu tố hợp lý phát huy ảnh hưởng tích

cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng trị quốc Nho giáo là việc làm

có ý nghĩa to lớn, nhưng phải có phương hướng đúng đắn, những giải pháp

phù hợp. Về phương hướng cần phải nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh, quan

điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền và những

nguyên tắc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta; gắn kế

thừa, lọc bỏ với đổi mới, phát triển những giá trị của tư tưởng trị quốc Nho

giáo trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ ở nghĩa Việt

Nam hiện nay. Về giải pháp một mặt cần phải phát triển kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với cải tạo các phong tục, tập quán lạc hậu

do ảnh hưởng từ tư tưởng trị quốc Nho giáo, tạo ra cơ sở kinh tế vững chắc để

xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Mặt khác, khắc

phục ảnh hưởng của tư tưởng tôn quân, trọng quan, gia trưởng, chuyên quyền

trong tư tưởng trị quốc của Nho giáo trên cơ sở thực hành dân chủ, xây dựng

kỷ cương xã hội; khắc phục tâm lý coi thường pháp luật do ảnh hưởng từ tư

tưởng trị quốc của Nho giáo, kết hợp giáo dục đạo đức với ý thức tuân thủ

pháp luật trong xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong

sạch, vững mạnh, kết hợp với phát huy dân chủ và tôn trọng pháp luật. Những

giải pháp nêu trên cần phải được triển khai một cách đồng bộ, có hiệu quả là

việc làm thường xuyên và liên tục gắn với sự nghiệp xây dựng và phát triển

đất nước.

149

KẾT LUẬN

Tư tưởng trị quốc là một trong những nội dung cơ bản của học thuyết

Nho giáo, ra đời trong điều kiện nhà Chu đang bị suy yếu về địa vị kinh tế

và vai trò chính trị. Với mục tiêu cao nhất là tìm kiếm mô hình xã hội lý

tưởng thay thế cục diện đương thời, xã hội lý tưởng trong mong ước của các

nhà Nho là một xã hội ổn định, trật tự và con người sống có đạo đức. Tư

tưởng đó đã được các triều đại phong kiến Trung Quốc sử dụng để xây dựng

và duy trì chế độ phong kiến trung ương tập quyền của mình qua hàng nghìn

năm lịch sử.

Tư tưởng trị quốc cùng học thuyết Nho giáo được truyền vào nước ta từ

rất sớm. Khi mới du nhập Việt Nam, mặc dù lúc đầu sự ảnh hưởng của nó chỉ

dừng lại ở tầng lớp trên, nhưng trong quá trình phát triển của lịch sử, nó đã

dần chiếm được ưu thế và có ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều mặt của đời sống

xã hội và con người Việt Nam. Đặc biệt đến thời Lê, Nho giáo đã trở thành hệ

tư tưởng chính thống, chi phối đời sống tinh thần, tư tưởng ở nước ta. Nó đã

trở thành công cụ đắc lực trong việc tổ chức nhà nước và quản lý xã hội của

nhiều triều đại phong kiến Việt Nam. Ngày nay, cơ sở kinh tế xã hội cho sự

tồn tại của Nho giáo trên đất nước ta không còn nữa. Tư tưởng trị quốc và

toàn bộ học thuyết Nho giáo tuy không còn tồn tại với tư cách là hệ tư tưởng

chính thống, nhưng nó vẫn bám rễ và gây ảnh hưởng đến đời sống xã hội, con

người Việt Nam nói chung và ảnh hưởng đến việc xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói riêng với những mức độ khác nhau.

Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực như giáo dục con người sống có đạo đức,

tinh thần trách nhiệm với gia đình, cộng đồng trong một xã hội ổn định, có

trật tự kỷ cương; chủ trương bảo đảm cho người dân có đời sống vật chất

tương đối đầy đủ, coi trọng việc dưỡng dân, giáo hóa dân và làm cho dân tín,

coi trọng lòng dân, ý dân; đề cao tinh thần tự giáo dục, tự rèn luyện, tự tu

dưỡng của chủ thể trị quốc để trở thành tấm gương mẫu mực cho nhân dân

noi theo... thì tư tưởng trị quốc Nho giáo cũng có những ảnh hưởng tiêu cực

150

đối với xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện

nay, như: tư tưởng địa vị ngôi thứ, đầu óc gia trưởng, nó cổ vũ cho sự truy

cầu công danh, địa vị, tâm lý “trọng quan”, coi thường, xem nhẹ công tác

chuyên môn và lo tiến thân bằng con đường quan chức; bệnh gia đình trị, cục

bộ địa phương ảnh hưởng tiêu cực đến không ít cán bộ lãnh đạo trong các cơ

quan nhà nước hiện nay; tâm lý thiếu tôn trọng pháp luật trong một bộ phận

nhân dân, làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật, với nếp sống quen tuân

thủ theo các công thức đạo đức, lề thói, tập tục truyền thống....

Thực trạng trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong sự

nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do

nhân dân, vì nhân dân đòi hỏi phải phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế,

ngăn ngừa những ảnh hưởng tiêu cực của chúng. Nắm vững tư tưởng Hồ Chí

Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền và

những nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước

ta; gắn kế thừa, lọc bỏ với đổi mới, phát triển những giá trị của tư tưởng trị

quốc Nho giáo trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam hiện nay; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa gắn với cải tạo các phong tục, tập quán lạc hậu do ảnh hưởng từ tư

tưởng trị quốc Nho giáo; phát huy những yếu tố tích cực từ học thuyết trị

quốc của nho giáo có sự tương đồng với tư tưởng pháp quyền tiên tiến của

nhân loại đến việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam hiện nay; khắc phục tâm lý coi thường pháp luật do ảnh hưởng từ tư

tưởng trị quốc của Nho giáo, kết hợp giáo dục đạo đức với ý thức tuân thủ

pháp luật trong xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong

sạch, vững mạnh, kết hợp với phát huy dân chủ và tôn trọng pháp luật... là

phương hướng và những giải pháp chủ yếu để có thể phát huy ảnh hưởng tích

cực và hạn chế, ngăn ngừa những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng trị quốc

Nho giáo đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt

Nam hiện nay. Phương hướng và những giải pháp đó cần phải được triển khai

một cách đồng bộ, thường xuyên và liên tục mới có thể đạt hiệu quả cao nhất.

151

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Bùi Quốc Hưng (2015), “Tư tưởng trọng dân của Khổng giáo”, Tạp chí

Khoa học chính trị, (6), tr.27-28, 61.

2. Bùi Quốc Hưng (2015), “Vấn đề quản lý quốc gia trong quan niệm của

Khổng giáo”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (233), tr.36-37.

3. Bùi Quốc Hưng (2016), Về bản chất, nội dung khái quát, chủ trương chính

danh và vấn đề quản lý quốc gia trong Khổng giáo, trong Dặm ngàn Đất

Việt, (11), Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr.122-128.

4. Bùi Quốc Hưng (2018), “Cơ sở hình thành nho giáo”, Tạp chí Khoa học, (20).

5. Bùi Quốc Hưng (2018), “Tư tưởng quản trị quốc gia của nho giáo”, Tạp chí

Khoa học xã hội Việt Nam, (8), tr.74-80.

6. Bùi Quốc Hưng (2018), “Tư tưởng đức trị Nho giáo”, Tạp chí Khoa học và

kinh tế, (184), tr.54-59.

7. Bùi Quốc Hưng (2018), “Quan niệm của Nho giáo về người cầm quyền và

ý nghĩa trong đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý ở Việt Nam hiện nay”, Tạp

chí Giáo dục và xã hội, (số đặc biệt), tr.207-210.

8. Bùi Quốc Hưng (tham gia) (2008), Triết lý bảo vệ tổ quốc Việt Nam truyền

thống, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

152

1. Đào Duy Anh (2006), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX,

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

2. Hoàng Chí Bảo (2003), “Tác động của kinh tế thị trường đối với xã hội

và những vấn đề đặt ra đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”, Tạp chí

Lịch sử Đảng, (5), tr.39-43.

3. Nguyễn Thanh Bình (2007), Học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo

và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX),

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Nguyễn Duy Cần (1992), Trang Tử tinh hoa, Nxb Thành phố Hồ Chí

Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

5. Phan Bội Châu (1998), Khổng học đăng, Nxb Văn hóa thôn tin, Hà Nội.

6. Giản Chi - Nguyễn Hiến Lê (2004), Đại cương triết học Trung Quốc,

Tập 2, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

7. Đặng Dũng Chí (2016), “Nhà nước Việt Nam vì quyền con người và

quyền dân tộc tự quyết”, Tạp chí Lý luận chính trị, (3), tr.22-29.

8. Lâm Hòa Chiếm, Lý Xuân Các và Xuân Huy (1998), Từ điển Hán Việt

thông dụng, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

9. Phạm Văn Chung (2005), Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội và

lý luận về con đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

10. Đoàn Trung Còn (dịch giả) (1950), Luận ngữ, Nxb Trí đức tòng thơ.

11. Cổng thông tin điện tử Bộ Công An (2014), Làm thế nào để hạn chế các

vụ trọng án ở tuổi vị thành niên?, Báo An ninh thủ đô, tại trang

http://anninhthudo.vn, [truy cập ngày 20/11/2017].

12. Phan Đại Doãn (chủ biên) (1998), Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Quang Đạm (1999), Nho giáo xưa và nay, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

153

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc

giữa nhiệm kỳ khóa VII, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Hội nghị lần thứ thứ XI, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Văn kiện Hội nhị lần thứ bảy Ban chấp

hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

21. Phạm Đình Đạt (2009), Học thuyết tính thiện của Mạnh Tử với việc giáo

dục đạo đức ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Nguyễn Minh Đoan, Nguyễn Văn Năm chủ biên (2017), Giáo trình lý

luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

23. Nguyễn Văn Động (2012), Giáo trình lý luận về nhà nước và pháp luật,

Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

24. Trần Văn Giàu (2008), Tổng tập, tập 3, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

25. Hoàng Phong Hà (2016), Các nước và một số lãnh thổ trên thế giới, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Nguyễn Long Hải (2017), Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà

nước ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

27. Hoàng Văn Hảo (1990), “Sự phân định chức năng lãnh đạo của Đảng và

chức năng quản lý của Nhà nước”, Tạp chí Cộng sản, (9), tr.30-33.

28. Dương Thị Thúy Hằng (2016), “Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đến

hoạt động quản lý nhà nước”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (8), tr.28-31.

154

29. Nguyễn Hùng Hậu (2003), “Đặc điểm của Nho Việt”, Tạp chí Triết học,

(8), tr.41-43.

30. Nguyễn Hùng Hậu (2004), Triết lý trong văn hóa phương Đông, Nxb

Đại học Sư phạm, Hà Nội.

31. Nguyễn Hùng Hậu (2002), “Từ “cái thiện” truyền thống đến “cái thiện”

trong cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (8),

tr.29-32.

32. Nguyễn Hùng Hậu chủ biên (2008), Từ chủ nghĩa yêu nước truyền

thống đến chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

33. Nguyễn Minh Hoàn (2008), Tư tưởng nhân nghĩa Việt Nam, tại trang

http//www.cla.templ.edu/vietnamese_center/handbook/vietnam_nhan-

nghia_viet.html, [truy cập ngày 20/8/2017].

34. Nguyễn Minh Hoàn (2012), “Tư tưởng Nho giáo về cơ sở ổn định xã

hội”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, (6), tr.54-61.

35. Nguyễn Minh Hoàn (2010), “Về hình thái kinh tế - xã hội phong kiến

trong lịch sử Việt Nam”, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, (2), tr.41-46.

36. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Văn hóa, đạo đức và

niềm tin xã hội trước yêu cầu phát triển của đất nước hiện nay, Nxb Lý

luận chính trị, Hà Nội.

37. Dương Hồng (chú dịch) (2003), Tứ thư, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

38. Mạnh Hùng (2016), Năm năm thực hiện Chỉ thị 48: Tình hình tội phạm

vẫn diễn biến phức tạp, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, tại trang

http://www.dangcongsan.vn, [truy cập ngày 06/01/2016]

39. Trần Đình Hượu (1994), Đến hiện đại từ truyền thống, Chương trình

khoa học công nghệ cấp nhà nước KX - 07, Hà Nội.

40. Trần Đình Hượu (2007), Các bài giảng về tư tưởng phương Đông, Nxb

Đại học Quốc gia, Hà Nội.

155

41. Trần Đình Hượu (1998), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

42. Vũ Ngọc Khánh (chủ biên) (1993), Từ điển văn hóa Việt Nam, Nxb Văn

hóa - Thông tin, Hà Nội.

43. Vũ Khiêu (1997), Đức trị và pháp trị trong Nho giáo, Nxb Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

44. Vũ Khiêu (chủ biên) (1995), Nho giáo và gia đình, Nxb Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

45. Vũ Khiêu (chủ biên) (1997), Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

46. Vũ Khiêu (chủ biên) (1991), Nho giáo xưa và nay, Nxb Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

47. Vũ Khiêu (chủ biên) (1993), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - truyền

thống dân tộc và nhân loại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

48. Vũ Khiêu (chủ biên) (1999), “Về giá trị đương đại của Nho giáo Việt

Nam”, Tạp chí Triết học, (8), tr.37-40.

49. Vũ Khiêu và Thành Duy (2000), Đạo đức và pháp luật trong triết lý phát

triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

50. Nguyễn Linh Khiếu (2013), “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới”, Tạp chí Cộng sản,

10/1/2013 21:4.

51. Trần Trọng Kim (1992), Nho giáo, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

52. Trần Trọng Kim (2012), Nho giáo, Nxb Thời đại, Hà Nội.

53. Henry Kissinger (2015), “Khổng giáo”, Bàn về Trung Quốc, Nxb Công

an nhân dân, Hà Nội, tr.31-34.

54. Nguyễn ngọc Lâm (2013), Phát huy năng lực, trí tuệ của đội ngũ cán bộ

nữ, Tạp chí Xây dựng Đảng (10), tại trang http://xaydungdang.org.vn,

[truy cập ngày 07/10/2015].

156

55. Nguyễn Lân (2000), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ

Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

56. Hoàng Văn Lâu (dịch và chú giải) (2000), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 3,

Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

57. Nguyễn Hiến Lê (1996), Khổng Tử, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

58. Nguyễn Hiến Lê (1994), Kinh dịch đạo của người quân tử, Nxb Văn học,

Hà Nội.

59. Nguyễn Hiến Lê (1998), Lão Tử - Đạo đức kinh, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

60. Nguyễn Hiến Lê (2015), Mạnh Tử, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

61. Nguyễn Hiến Lê (1994), Trang Tử và Nam Hoa kinh, Nxb Văn hóa -

Thông tin, Hà Nội.

62. Khúc Xuân Lễ (2001), Khổng Tử truyện, tập 1, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

63. Khúc Xuân Lễ (2001), Khổng Tử truyện, tập 2, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

64. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

65. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

66. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 54, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

67. Nguyễn Ngọc Long (chủ biên) (1991), Triết học Mác - Lênin, tập I, Nxb

Tư tưởng - Văn hóa, Hà Nội.

68. Nguyễn Ngọc Long (chủ biên) (1991), Triết học Mác - Lênin, tập II, Nxb

Tư tưởng - Văn hóa, Hà Nội.

69. Nguyễn Ngọc Long (chủ biên) (1991), Triết học Mác - Lênin, tập III,

Nxb Tư tưởng - Văn hóa, Hà Nội.

70. Nguyễn Thế Long (1995), Nho học ở Việt Nam - giáo dục và thi cử, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

71. Hầu Ngoại Lư, Triệu Kỷ Bân và Đỗ Quốc Tường (1959), Hiển học

Khổng Mặc, Nxb Sự thật, Hà Nội.

72. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự

thật, Hà Nội.

157

73. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia Sự

thật, Hà Nội.

74. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia Sự

thật, Hà Nội.

75. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự

thật, Hà Nội.

76. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia Sự

thật, Hà Nội.

77. C.Mác, Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia Sự

thật, Hà Nội.

78. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

79. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

80. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

81. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

82. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

83. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

84. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

85. Hồ Chí Minh (2013), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

86. Hà Thúc Minh (1999), Lịch sử triết học Trung Quốc, tập II, Nxb Thành

phố Hồ Chí Minh.

87. Đỗ Đức Minh (2013), Học thuyết pháp trị Trung Hoa cổ đại - Giá trị

tham khảo trong quản lý xã hội ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị -

Hành chính, Hà Nội.

88. Montesquieu (2006), Bàn về tinh thần pháp luật, Nxb Lý luận chính trị,

Hà Nội.

89. Nguyễn Thị Nga, Hồ Trọng Hoài (2003), Quan niệm của Nho giáo về

giáo dục con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

90. Ngô Nguyên Ngần (2017), Xuân trong vườn ngự, Nxb Văn học, Hà Nội.

158

91. Lê Hữu Nghĩa, Nguyễn Văn Mạnh (đồng chủ biên) (2001), 55 năm xây

dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân - một số vấn đề lý luận và thực

tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

92. Nguyễn Thế Nghĩa (2007), Học thuyết về Nhà nước và vấn đề xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, trong Những chuyên

đề triết học, Nxb Khoa học xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh.

93. Nguyễn Thế Nghĩa, Doãn Chính (đồng chủ biên) (2002), Lịch sử triết

học, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh.

94. Nguyễn Viết Ngoạn (2010), Nguyễn Công Trứ bài ca ngất ngưởng, Nxb

Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.

95. Nguyễn Quang Ngọc chủ biên và các cộng sự (2011), Tiến trình lịch sử

Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

96. Nguyễn Văn Ngọc và Trần Lê Nhân (1992), Cổ học tinh hoa, Nxb Trẻ,

Thành phố Hồ Chí Minh.

97. Nguyễn Tôn Nhan (2004), Nho giáo Trung Quốc, Nxb Văn hóa Thông

tin, Hà Nội.

98. Nguyễn Tôn Nhan (1999), Trang Tử Nam Hoa kinh, Nxb Thanh niên,

Hà Nội.

99. Nguyễn Văn Niên (1996), Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam -

một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

100. Lương Ninh chủ biên và các cộng sự (2014), Lịch sử thế giới cổ đại,

Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

101. Nguyễn Quốc Phẩm (2014), Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về

dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa, trong Nhận thức về chủ nghĩa xã

hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính

trị, Hà Nội.

102. Hoàng Phê và các cộng sự (2007), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng và

Trung tâm Từ điển học, Đà Nẵng.

103. Hàn Phi (2005), Hàn Phi Tử, Nxb Văn học, Hà Nội.

159

104. Quan Phong, Lâm Duật Thời (1963), Bàn về Khổng Tử, Nxb Sự thật,

Hà Nội.

105. Trần Văn Phòng, Hoàng Anh (2015), Tư tưởng Hồ Chí Minh - một số

vấn đề cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

106. Nguyễn Trọng Phúc (2010), Nhà nước cách mạng Việt Nam (1945-

2010), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

107. Nguyễn Trong Phúc (2017), “Xây dựng nhà nước pháp quyền từ Cách

mạng tháng Tám năm 1945 đến công cuộc đổi mới hiện nay”, Tạp chí Lý

luận chính trị, (8), tr.23-27.

108. Đỗ Nguyên Phương, Nguyễn Viết Thông (đồng chủ biên) (2006), Giáo

trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

109. Nguyễn Duy Quý và các cộng sự (2004), Giáo trình triết học Mác -

Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

110. Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn (đồng chủ biên) (2008), Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân - Lý luận

và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

111. Trương Hữu Quýnh chủ biên, Phan Đại Doãn và Nguyễn Cảnh Minh

(2015), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập I, Nxb Giáo dục Việt Nam,

Hà Nội.

112. M. Rodentan, P. Iudin chủ biên và các cộng sự (1976), Từ điển triết học,

Nxb Sự thật, Hà Nội.

113. Nguyễn Hữu Sơn (tuyển chọn và giới thiệu) (2003), Nguyễn Trãi về tác

gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

114. Nguyễn Đức Sự (1996), Nho giáo ở Việt Nam, trong Về tôn giáo tín

ngưỡng Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

115. Nguyễn Đức Sự (1978), Phong tục và nếp sống của xã thôn Việt Nam

dưới sự tác động của Nho giáo, trong cuốn Nông thôn Việt Nam trong

lịch sử, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

160

116. Đỗ Thị Thạch (2014), Về đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội 2011, trong Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.195-205.

117. Trần Thị Băng Thanh, Vũ Thanh (2003), Nguyễn Bỉnh Khiêm - về tác gia

và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

118. Trần Thành (2005), “Nhận thức và vận dụng quan điểm mácxít về nhà

nước”, Tạp chí Lý luận chính trị, (5), tr.25-29.

119. Lê Sĩ Thắng (1997), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 2, Nxb Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

120. Lê Sĩ Thắng (chủ biên) (1994), Nho giáo tại Việt Nam, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

121. Mạch Quang Thắng (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản và

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân

dân, trong Một số chuyên đề về môn học tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.86-146.

122. Tư Mã Thiên (1997), Sử ký, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.

123. Tư Mã Thiên (1997), Sử ký, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội.

124. Vi Chính Thông (1996), Nho gia với Trung Quốc ngày nay, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

125. Thơ thời Lý Trần (2014), Nxb Văn học, Hà Nội.

126. Hoàng Thần Thuần (2016), Lão Tử tinh hoa trí tuệ qua danh ngôn, Nxb

Hồng Đức, Hà Nội.

127. Nguyễn Đăng Thục (2001), Lịch sử triết học phương Đông, tập 1, Nxb

Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

128. Mai Thục, Đỗ Đức Hiểu (2011), Điển tích văn học, Nxb Văn hóa Thông

tin, Hà Nội.

129. Nguyễn Tài Thư (chủ biên) (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nôi.

161

130. Nguyễn Tài Thư (2009), “Một số đặc trưng cơ bản của Nho giáo Việt

Nam”, Tạp chí Triết học, (9), tr.10-12.

131. Nguyễn Tài Thư (2002), “Nho giáo và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện

đại hóa ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (5), tr.29-35.

132. Nguyễn Tài Thư (1997), Nho học và Nho học ở Việt Nam, Nxb Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

133. Nguyễn Tài Thư (1999), “Về nguồn gốc của chế độ phong kiến Việt Nam

và đạo đức phong kiến Việt Nam”, Tạp chí Triết học, (6), tr.40-42.

134. Lê Huy Thực (2017), Bình luận quyển Hệ ý thức phong kiến và sự thất

bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử của giáo sư Trần Văn Giàu, trong

Đồng chí Trần Văn Giàu, nhà cách mạng, nhà giáo, nhà khoa học, dấu

ấn một nhân cách, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố

Hồ Chí Minh,.

135. Lê Huy Thực (2017), “Những lầm lẫn trong nghiên cứu Khổng giáo”,

Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (9), tr.44-50.

136. Phan Mạnh Toàn (2017), Ảnh hưởng của Nhân - Lễ trong Nho giáo đối với

đời sống đạo đức ở Việt Nam hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

137. Nguyễn Trãi (1976), Toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

138. Hoàng Thu Trang (2017), “Ảnh hưởng của quan niệm đạo đức Nho giáo

đến đời sống đạo đức ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã hội

Việt Nam, (7), tr.9-17.

139. Đỗ Tư (2014), Sức sống của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong cách

mạng Việt Nam, trong Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên

chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.74-84.

140. Khổng Tử (2004), Kinh thi, tập I, Nxb Văn học, Hà Nội.

141. Khổng Tử (2004), Kinh thi, tập II, Nxb Văn học, Hà Nội.

142. Khổng Tử (2004), Kinh thư, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

143. Đào Trí Úc (2015), Giáo trình Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội, Hà Nội.

162

144. Đặng Nghiêm Vạn (1996), Một số vấn đề lý luận và thực trạng tôn giáo

Việt Nam, trong Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội, tr.11-173.

145. Áccađi Vácxbéc (1974), Suy nghĩ về những câu Mác trả lời con gái, Nxb

Thanh niên, Hà Nội.

146. Anh Văn, Vũ Phương và Phạm Thiệu (2015), Chạy chức, chạy quyền:

cần phải bắt tận tay những kẻ đi đêm, Báo Đời sống và Pháp luật online,

tại trang http://doisongphapluat.com, [truy cập ngày 08/02/2018].

147. Nguyễn Khắc Viện (1998), Bàn về đạo Nho, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ

Chí Minh.

148. Viện nghiên cứu Hán Nôm, Ngữ văn Hán Nôm, tập 1, Tứ thư (2002),

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

149. Lã Trấn Vũ (1964), Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc, Nxb Sự

thật, Hà Nội.

150. Nguyễn Hữu Vui (chủ biên) (2007), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

151. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa -

Thông tin, Hà Nội.

152. Nguyễn Bình Yên (1999), Ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng phong kiến

trong cán bộ lãnh đạo, quản lý và phương hướng khắc phục, Luận án

tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.