1

2

LỜI MỞ ĐẦU

xuống còn 7,3% năm 2019. Đồng thời, xu hướng di cư nông thôn – thành thị ở giai đoạn trước đây đã bị thay thế bởi xu hướng thành thị - thành thị (với 36,5% năm 2019) (TCTK 2019b, TCTK & Unicef, 2021). Thêm vào đó, người di cư có xu hướng di cư nội vùng là chủ yếu thay vì như trước đây là di cư sang các vùng khác (TCTK & Unicef, 2021). Theo số liệu trong báo cáo Điều tra việc làm 2023 (TCTK, 2023b), năm 2023 Việt Nam có khoảng 52,4 triệu người tham gia lực lượng lao động. Trong đó có 774,5 nghìn người là lao động di cư từ 15 tuổi trở lên và gần một nửa (chiếm 46,2%) trong số đó là di cư đến vùng Đông Nam Bộ (riêng Thành phố Hồ Chí Minh đã đóng góp tới 32,8%, tương đương 254,2 nghìn người).

1. Sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu Di cư là một hiện tượng xã hội, xảy ra ở hầu hết các nước trên thế giới đặc biệt là ở các nước đang phát triển gồm cả di cư trong nước (di cư nội địa) và di cư quốc tế (di cư ra nước ngoài). Theo số liệu từ Theo Ủy ban kinh tế và các vấn đề xã hội của Liên hợp quốc, thế giới có khoảng 304 triệu người di cư quốc tế vào năm 2022 (UN - DESA, 2024), tương đương với 3,6% dân số toàn cầu và tạo ra 831 tỷ USD tỷ USD trong dòng kiều hối quốc tế (trong đó có 674 tỷ USD được gửi về cho các quốc gia có mức thu nhập thấp và thu nhập trung bình theo ước tính trong báo cáo của IOM, 2024). IOM (2024) cũng dự báo số người di cư quốc tế sẽ đạt khoảng 405 triệu người vào năm 2050, chiếm 7% dân số toàn cầu. Trong khi số liệu người di cư nội địa toàn cầu không được cập nhật thường xuyên. Một ước tính được sử dụng rộng rãi từ năm 2005 chỉ ra rằng 763 triệu người đã di cư giữa các đơn vị hành chính trong quốc gia của họ, gần gấp ba lần số lượng người di cư quốc tế (số liệu 2013). Báo cáo IOM (2022) đưa ra ước tính được cập nhật đôi chút là 740 triệu người di cư trong nước vào năm 2009, nhưng không có ước tính nào gần đây hơn. Con số thực tế về di cư trong nước có thể cao hơn nhiều, vì những ước tính này chỉ bao gồm di cư trong các đơn vị hành chính lớn và không tính đến các luồng di cư quan trọng như từ vùng nông thôn ra thành thị trong cùng một đơn vị (FAO, 2018, tr.4). Khoảng cách này đã gia tăng đáng kể do quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ ở tất cả các quốc gia, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.

Di cư mang lại cho chính người di cư, gia đình người di cư và xã hội những tác động tích cực. Ở cấp độ toàn bộ nền kinh tế, một mặt, di cư là một nhân tố quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia giúp thúc đẩy trăng trưởng kinh tế, giảm nghèo chủ yếu theo chiều tiền tệ (gia tăng thu nhập hoặc chi tiêu) (Ngân hàng thế giới, 2011; UNDP, 2024a). Mặt khác, di cư làm gia tăng tốc đô thị hoá và là một động lực tăng trưởng quan trọng cho các đô thị (UNDP, 2010; TCTK, 2011; TCTK, 2019b; UNDP, 2024a). Ở cấp độ hộ gia đình, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng di cư mang lại cho các hộ gia đình những lợi ích trực tiếp và gián tiếp: trực tiếp bằng cách tăng thu nhập và tiêu dùng gia đình của họ tại nơi đi nhờ tiền gửi và từ đó có thể giảm nghèo ở các khu vực này (Dilop Ratha và cộng sự 2011, Siddiqui 2012, Đặng Nguyên Anh, 2022 ); và gián tiếp bằng cách cải thiện vốn xã hội (y tế và giáo dục) và điều kiện sống ở những khu vực mà người di cư đã rời đi (Adams, 2007; Acosta và cộng sự, 2007; Bouoiyour & Miftah, 2015). Tại Việt Nam, đại đa số người di cư được hưởng lợi về mặt kinh tế từ di cư bằng việc tăng thu nhập cho bản thân cũng như gia đình, người thân của họ thông qua tiền gửi (Guest, 1998; Nguyễn và các cộng sự 2008; Nguyen Viet Cuong 2009; Nguyễn và cộng sự 2009; TCTK 2016a).

Di cư đóng vai trò rất lớn vào sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia và trên thế giới. Đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (World Economic Forum, 2017) cho thấy người di cư đã đóng góp cho nền kinh tế thế giới từ 6,4 nghìn tỷ USD đến 6,9 nghìn tỷ USD (chiếm 9,4%) tổng sản phẩm của thế giới. Số liệu này cho thấy, vai trò quan trọng của người di cư trong phát triển và tăng trưởng kinh tế toàn cầu.

Mặc dù di cư được đánh giá có ảnh hưởng tích cực, nhưng di cư cũng mang lại không ít những tác động tiêu cực cho nền kinh tế ở mỗi quốc gia, cho chính người di cư và gia đình họ. Đô thị hóa và di cư đến các thành phố đã làm gia tăng bất bình đẳng giữa dân số đô thị và nông thôn, giữa người di cư và người dân địa phương (Alan and Tomoko, 2004), cũng như gia tăng áp lực đến cơ sở hạ tầng (hệ thống giáo dục, y tế và các điều kiện sống khác) tại các đô thị nơi có đông người di cư đến. Di cư còn bị chỉ trích bởi sự gia tăng lao động nhập cư khiến cho cơ hội việc làm và tiền công của người địa phương kỹ năng thấp ngày càng xấu đi do sự gia tăng cạnh tranh việc làm, và kết quả là làm tăng tỷ lệ thất nghiệp tại nơi đến (UNDP, 2009). Ngoài ra, nền kinh tế nơi có người di cư đến còn phải đối mặt với gánh nặng tài chính gia tăng với chi phí sinh hoạt đắt đỏ và dịch vụ công bị quá tải (y tế, giáo dục và các dịch vụ xã hội khác) do sự

Tại Việt Nam đã có những cuộc di cư lớn xảy ra trong lịch sử do nhiều nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên, từ sau “Đổi Mới” cho đến nay, di cư chủ yếu là di cư trong nước được đánh giá là “động lực tích cực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần phân bố lại dân cư, tạo ra nguồn lao động, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo và bảo đảm phát triển bền vững” (TCTK, 2022; UNDP, 2024a). Di cư có xu hướng tăng cả về số tuyệt đối lẫn tương đối và chủ yếu theo chiều từ nông thôn ra thành thị đặc biệt tại hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh” (TCTK 2019b). Tuy nhiên, xu hướng di cư trong giai đoạn 2009-2019 đang có xu hướng suy giảm với chỉ 6,4 triệu người di cư trong năm 2019 so với 6,7 triệu người di cư trong giai đoạn 10 năm trước đó (TCTK 2019b). Với tỷ lệ di cư tương ứng giảm từ 8,5% năm 2009

3

4

gia tăng dân số di cư (UNDP, 2009) cũng như ảnh hưởng đến anh ninh, an toàn tại các thành phố có người di cư (Lê Bạch Dương và Nguyễn Thanh Liêm, 2011).

Shariff, 2011), chất lượng giáo dục của trẻ bị giảm sút (Kong & Meng, 2010) cũng như tiếp cận hạn chế các dịch vụ giáo dục và sự phân biệt đối xử trong tiếp cận giáo dục bởi các rào cản di cư (Liang và Chen 2007). Tương tự như giáo dục, di cư cho phép người thân (con cái/cha mẹ) tại quê nhà có đủ khả năng chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng tốt hơn nhờ tiền gửi từ di cư việc làm của con cái trưởng thành (Xiang và cộng sự, 2015). Tuy vậy, sự thiếu vắng do người thân di cư khiến cho sức khỏe của con cái/bố mẹ ở quê nhà có phần kém đi, con cái người di cư có khả năng thấp hơn ở tất cả các nhóm độ tuổi (Kong & Meng, 2010). Với chiều điều kiện sống, Andersson & cộng sự (2015) cho thấy, hộ di cư điều kiện sống tốt hơn so với hộ không di cư. Tuy vậy, di cư cũng làm tăng giá nhà khiến người di cư càng khó khăn hơn trong tiếp cận nhà ở tại nơi đến. Vì vậy, người di cư phải ở trong những ngôi nhà thuê/mượn với điều kiện sống thiếu thốn, và không đảm bảo (Lin & cộng sự, 2018).

Từ những luận giải trên cho thấy, nghiên cứu tác động của di cư và nghèo ở Việt Nam và trên thế giới là không mới. Trong khi có rất nhiều nghiên cứu đánh giá tác động của di cư đến nghèo theo cách tiếp cận đơn chiều thông qua các chỉ tiêu thu nhập và chi tiêu (nghèo theo chiều tiền tệ), chưa có nghiên cứu nào đánh giá một cách đầy đủ tác động của di cư tới nghèo dựa trên cách tiếp cận đa chiều trong khi nghèo đa chiều lại là một thước đo nghèo phản ánh đầy đủ hơn tình trạng nghèo của cá nhân/hộ gia đình. Thực tế chứng minh, đo lường nghèo trên khía cạnh đơn chiều không phản ánh được hết khía cạnh của nghèo. Một số nhu cầu cơ bản không thể đo lường được bằng tiền (an ninh, nhu cầu tham gia xã hội) hoặc không thể mua được bằng tiền (giáo dục, y tế, môi trường, …). Hơn nữa, có bằng chứng thực nghiệm về tác động tiêu cực giữa di cư liên quan đến các vấn đề sức khoẻ và chất lượng cuộc sống tồi tệ hơn ở cả nơi đến và nơi đi (Mark và cộng sự, 2003; TCTK, 2005; TCTK 2016c). Nói cách khác người di cư trở thành một phần của một cộng đồng dễ bị tổn thương, những người gặp khó khăn từ đó góp phần mở rộng các khu đô thị nghèo (UNDP, 2010; Oxfam and ActionAid, 2011). Đối với người di cư, việc xa rời “mạng lưới hỗ trợ” cũng tạo ra những chi phí xã hội và kinh tế đáng kể cho chính họ. Những chi phí này làm giảm khả năng hòa nhập của người di cư vào các hoạt động xã hội và khó khăn trong tiếp cận cũng như chi trả cao hơn cho các dịch vụ xã hội tại nơi đến chẳng hạn như y tế và giáo dục và các chi phí sinh hoạt khác (điện, nước,…) “bình đẳng như dân địa phương” (Đặng Nguyên Anh, 1998 và 2011). Ở nơi đi, di cư tạo ra khoảng trống mà các nhà nghiên cứu gọi là “khuyết thế hệ” do người di cư để lại khi mà tại những nơi có tỷ lệ người di cư cao chủ yếu chỉ còn người già và trẻ em ở lại tại quê nhà. Điều này tạo ra áp lực cho những người ở lại (bố mẹ và con cái của người di cư) cũng như cộng đồng dân cư tại nơi đi do sự thiếu hụt lao động có chuyên môn kĩ thuật (Nguyễn và cộng sự 2008; Dương và Liêm 2011; Dilop Ratha và cộng sự 2011). Một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng không phải là đại diện cho một sinh kế thay thế hấp dẫn, “di cư là một phương sách cuối cùng và do đó có thể làm trầm trọng thêm tình trạng nghèo, tính dễ bị tổn thương của các hộ gia đình” và “di cư là một phản ứng hạn chế sinh kế nghiêm trọng hơn” (Waddington Hugh và Rachel Sabates - Wheeler, 2003, trang 4).

Mối liên kết giữa di cư với nghèo đa chiều lần đầu tiên được đề cập trong một nghiên cứu của UNDP (2010) khi nghiên cứu tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Báo cáo này đã cho thấy bức tranh tổng thể về NĐC ở điểm đến của người di cư (vùng đô thị) mà đại diện là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh theo tám chiều thiếu hụt là “thu nhập, giáo dục, y tế, tiếp cận hệ thống an sinh xã hội, chất lượng và diện tích nhà ở, dịch vụ nhà ở, tham gia các hoạt động xã hội và an toàn xã hội”. Vấn đề đo lường nghèo đa chiều cũng như đánh giá tác động của di cư đến nghèo đa chiều tại nơi đi ở Việt Nam vẫn chưa được nghiên cứu.

Trong khi có rất nhiều nghiên cứu về tác động của di cư đến nghèo trên cách tiếp cận đơn chiều, rất ít nghiên cứu đánh giá tác động của di cư đến nghèo theo cách tiếp cận đa chiều đặc biệt ở khía cạnh xã hội. Các nghiên cứu về tác động của di cư tới nghèo đa chiều mới chỉ tiếp cận ở một số các khía cạnh cơ bản như giáo dục (TCTK 2006; Liang và Chen 2007; Kong & Meng, 2010; McKenzie & Rapoport, 2010; Muller & Shariff, 2011; Morgan & Long, 2018, Mina & Aliaa (2018); Md. Shakil Ahmed & cộng sự, 2024,…), y tế (TCTK, 2006; Kong & Meng, 2010; Andersson & cộng sự (2015), nhà ở (Lin & cộng sự, 2018; TCTK, 2016c), điều kiện sống (TCTK 2016c). Các nghiên cứu trên chỉ ra rằng, di cư vừa có tác động tích cực vừa có tác động tiêu cực tới các khía cạnh nghèo đa chiều (NĐC). Theo đó, tiền gửi về giúp hộ trang trải các khoản chi phí liên quan đến giáo dục, y tế cũng như cải thiện điều kiện sinh hoạt (nhà ở, vệ sinh) (Adam & Cuecuecha, 2013). Trẻ em ở những hộ có người di cư thì số giờ trẻ ở trường cũng như khả năng tiếp cận được trình độ giáo dục cao hơn gia tăng (Muller & Shariff, 2011; Resosudarmo & Suryadarma, 2014). Tuy vậy, di cư cũng làm gia tăng tình trạng bỏ học ở trẻ em khi thiếu vắng sự chăm sóc của cha mẹ (Muller & Các nghiên cứu đã đề cập ở trên chỉ tập trung phản ánh thực trạng di cư, thực trạng nghèo tại Việt Nam và tác động của di cư đến nghèo theo chiều thu nhập, chi tiêu hoặc một số chỉ số thuộc từng chiều nghèo đa chiều mà chưa có sự kết nối các chiều này với nhau thông qua chỉ tiêu tổng hợp nghèo đa chiều. Điều này cho thấy, cần thiết phải có một nghiên cứu kết nối các chiều của nghèo đa chiều lại với nhau từ đó đánh giá tác động của di cư đến nghèo đa chiều tổng hợp cũng như từng khía cạnh nghèo đa chiều. Thêm vào đó, các nghiên cứu tập trung nhiều vào vấn đề nghèo của người di cư

5

6

Giả thuyết 2: Di cư làm giảm điểm số thiếu hụt đa chiều. Cụ thể, di cư làm giảm số điểm thiếu hụt của hộ gia đình có người di cư.

tại nơi đến mà bỏ quên đối tượng bị bỏ lại ở quê nhà (nơi xuất cư). Việc nghiên cứu đầy đủ tác động của di cư tới nghèo đa chiều, đặc biệt là tại nơi đi là rất cần thiết để bổ sung sự thiếu hụt đó. Vì vậy, nghiên cứu “Tác động của di cư đến nghèo đa chiều tại Việt Nam” là thiết thực, có ý nghĩa và đây chính là mục tiêu nghiên cứu của luận án. Giả thuyết 3: Di cư làm giảm sự thiếu hụt từng chỉ số nghèo đa chiều. Cụ thể, di cư làm giảm xác suất/khả năng thiếu hụt từng chỉ số nghèo đa chiều của hộ gia đình có người di cư.

2. Mục tiêu nghiên cứu · Mục tiêu chung Mục tiêu nghiên cứu chung của luận án đánh giá tác động của di cư đến nghèo đa chiều tại nơi đi (nơi xuất cư) của hộ gia đình có người di cư từ đó hàm ý các chính sách giảm nghèo đa chiều dưới góc nhìn của di cư. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là tác động của di cư việc làm đến nghèo đa chiều của các hộ gia đình tại nơi đi của người di cư ở Việt Nam. Từ đó hàm ý một số chính sách giúp các hộ này giảm nghèo trên khía cạnh đa chiều.

· Mục tiêu cụ thể Từ mục tiêu chung được đề cập ở trên, các mục tiêu cụ thể của luận án bao gồm: (1) Luận án làm rõ cơ sở lý thuyết và phương pháp phân tích tác động của di cư đến nghèo đa chiều. (2) Đề xuất mô hình và phương pháp đánh giá tác động của di cư đến nghèo đa chiều phù hợp với dữ liệu và bối cảnh của Việt Nam.

(3) Đánh giá tác động của di cư đến nghèo đa chiều tại Việt Nam. (4) Đề xuất một số hàm ý chính sách để thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều dưới góc nhìn về di cư tại nơi đi từ sự kết hợp giữa xu hướng và bối cảnh mới của di cư và nghèo đa chiều tại Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về thời gian: nghiên cứu thực hiện đánh giá tác động của di cư đến nghèo đa chiều ở cấp hộ tại Việt Nam trong giai đoạn 2014 - 2018 trên cơ sở sử dụng dữ liệu thô từ bộ dữ liệu Khảo sát mức sống dân cư (VHLSS - Vietnam Household Living Standards of Survey) 2014, 2016 và 2018 (gọi tắt là Khảo sát mức sống - KSMS) do Tổng cục Thống kê thực hiện. Đồng thời, nghiên cứu cũng sử dụng số liệu tổng hợp được công bố từ các cơ quan của Chính phủ, các báo cáo nghiên cứu của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước nhằm luận giải cũng như làm bằng chứng ủng hộ cho các giả thuyết nghiên cứu của luận án. Vì vậy, đối với dữ liệu tổng hợp, luận án sử dụng trong phạm vi thời gian từ 1999 đến 2023. - Phạm vi không gian: Nghiên cứu được thực hiện trên phạm vi quốc gia, cụ thể là tại Việt Nam.

3. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu · Câu hỏi nghiên cứu Để bổ sung cho khoảng trống nghiên cứu, luận án tập trung trả lời câu hỏi nghiên cứu tổng quát “Di cư có cải thiện được nghèo đa chiều của hộ gia đình tại nơi đi hay không?”.

Cụ thể, luận án tìm câu trả lời cho các câu hỏi chính sau: (1) Có sự khác biệt nào về tình trạng nghèo đa chiều giữa hộ di cư và không di - Phạm vi nội dung: + Về nghèo đa chiều: luận án chỉ xem xét dưới khía cạnh phi tiền tệ tức là dựa vào các chiều cạnh xã hội do Bộ lao động thương binh xã hội đề xuất (2015) (bao gồm 5 chiều như giáo dục, y tế, nhà ở, điều kiện sống, tiếp cận thông tin) và cách thức đo lường nghèo đa chiều do Alkire và Foster (2011) xây dựng. cư tại nơi đi của người di cư?

(2) Di cư có tác động như thế nào đến nghèo đa chiều (xác suất/khả năng nghèo, điểm số thiếu hụt đa chiều và xác suất/khả năng thiếu hụt theo từng chỉ số trong từng chiều nghèo đa chiều) của hộ gia đình tại nơi đi? (3) Những chính sách nào có thể áp dụng để cải thiện nghèo đa chiều của hộ gia đình có người di cư vì mục đích việc làm?

+ Về di cư: Có rất nhiều nguyên nhân khiến người dân di cư như tìm kiếm việc làm, học tập, chuyển đến/chuyển đi, kết hôn và các nguyên nhân khác. Trong đó, di cư vì mục đích việc làm (hay di cư vì yếu tố kinh tế) là lý do chủ yếu của người di cư trong các cuộc khảo sát, nghiên cứu (TCTK, 2006; UNDP, 2010; TCTK, 2016c; TCTK, 2019b; TCTK, 2020b; UNDP, 2024a). Để phù hợp với mục tiêu nghiên cứu, luận án tập trung đánh giá tác động của di cư vì lý do việc làm tập trung vào di cư nội địa (di cư trong nước) và thực hiện cho nơi đi của hộ gia đình có người di cư đến nghèo đa chiều.

· Giả thuyết nghiên cứu Các giả thuyết chính được luận án thực hiện bao gồm: Giả thuyết 1: Di cư làm giảm tình trạng nghèo đa chiều tổng hợp. Cụ thể, di cư 5. Phương pháp nghiên cứu Để phù hợp với mục tiêu nghiên cứu, luận án kết hợp sử dụng các phương pháp sau: làm giảm xác suất/khả năng nghèo đa chiều của hộ gia đình có người di cư

7

8

· Phương pháp thu thập dữ liệu

Luận án sử dụng các bộ dữ liệu điều tra chính thức từ Tổng cục thống kê và các dữ liệu từ các báo cáo đã được công bố. Số liệu sử dụng trong luận án có thể được tính toán từ dữ liệu điều tra hoặc sử dụng trực tiếp từ các bộ dữ liệu này.

Các nguồn dữ liệu chính sử dụng phân tích trong luận án gồm: Bộ dữ liệu Khảo sát mức sống dân cư (VHLSS qua các năm 2014, 2016 và 2018), số liệu thu thập từ Niên giám thống kê trong giai đoạn tham chiếu của luận án, dữ liệu trực tuyến từ số liệu thống kê được đăng tải trên trang web của Tổng cục thống kê tại địa chỉ www.gso.gov.vn/solieuthongke, các báo cáo về nghèo đa chiều từ Bộ lao động thương binh xã hội qua các năm trong giai đoạn tham chiếu của luận án.

tính toàn diện và khái quát. Thứ ba, luận án tiếp cận bộ chỉ báo đo lường nghèo đa chiều do Bộ lao động thương binh xã hội xây dựng, sử dụng phương pháp của Alkire & Foster (2011) tính toán các khía cạnh phản ánh nghèo đa chiều ở cấp độ hộ gia đình và cấp vùng dành cho hộ di cư. Thêm vào đó, luận án cũng phân tích tác động của di cư việc làm đến nghèo đa chiều sử dụng đơn vị nghiên cứu ở cả cấp độ hộ gia đình và cấp vùng. Các nghiên cứu trước đây tập trung nghiên cứu ở cấp độ hộ gia đình. Thứ tư, mô hình phân tích định lượng sử dụng phương pháp hồi quy kết nối điểm số tương đồng đánh giá tác động của di cư đến nghèo đa chiều dựa trên các bộ dữ liệu được ghép nối và được thực hiện cho mô hình toàn bộ hộ và mô hình cho các hộ gia đình ở khu vực nông thôn (dựa trên kết quả ghép nối dữ liệu với bộ xã thuộc bộ dữ liệu Khảo sát mức sống dân cư). Các nghiên cứu trước chủ yếu tập trung vào mô hình toàn bộ mà ít có sự chú ý tới khu vực nông thôn. Những phát hiện, đề xuất mới rút ra được từ kết quả nghiên cứu, khảo sát của luận án

· Phương pháp tổng hợp, phân tích: phương pháp này được sử dụng để xác định câu hỏi và khoảng trống nghiên cứu thông qua việc tổng quan về di cư và nghèo cũng như tác động của di cư đến nghèo nói chung và nghèo đa chiều nói riêng. Thêm vào đó, phương pháp này còn được sử dụng cho việc phân tích thực trạng nghèo đa chiều tại Việt Nam thông qua việc tính toán các chỉ tiêu nghèo đa chiều từ bộ dữ liệu VHLSS 2014 - 2018. Kết quả từ phương pháp này sẽ củng cố các bằng chứng luận giải cho các kết quả nghiên cứu. · Phương pháp đánh giá tác động

Khác với các nghiên cứu trước, kết quả nghiên cứu từ luận án cho thấy: (i) Di cư việc làm có tác động tích cực trong việc giảm nghèo đa chiều tại nơi đi nhưng không phải là toàn bộ. (ii) Tác động tích cực của di cư thể hiện rõ ràng ở khu vực nông thôn; (iii) Tốc độ giảm nghèo đa chiều luôn thấp hơn so với nghèo theo cách tiếp cận đơn chiều do những phức tạp trong đo lường nghèo đa chiều.

Để đánh giá tác động của di cư đến nghèo đa chiều ở cấp hộ, luận án sử dụng phương pháp hồi quy kết nối điểm số tương đồng (PSM - Propensity Score Matching) từ đó thực hiện đánh giá tác động của di cư lên các biến kết quả quan tâm với dữ liệu gộp (pooled data). PSM cho phép ghép cặp giữa hộ di cư và hộ không di cư trên cơ sở điểm số tương đồng. Cùng với quy trình quy trình kiểm định chặt chẽ, kết quả nghiên cứu có độ tin cậy cao và là đầu vào có giá trị trong việc lập kế hoạch cũng như đề xuất một số giải pháp trong chính sách giảm nghèo chiều tại nơi đi dưới góc nhìn di cư trong nước. · Phần mềm hỗ trợ xử lý số liệu và ước lượng mô hình: phần mềm Stata bản 14.0

Từ kết quả phân tích, dựa trên dữ liệu thứ cấp thu thập từ số liệu công bố của TCTK, luận án tiến hành so sánh và đưa ra dự báo cho xu hướng di cư và nghèo đa chiều trong thời gian tới. Đồng thời kết nối với kết quả phân tích từ VHLSS trong giai đoạn 2014-2018, luận án đã khuyến nghị một số chính sách giúp cải thiện tình trạng nghèo đa chiều tại nơi đi cũng như trong công tác thống kê đánh giá nghèo đa chiều nhằm phù hợp hơn trong bối cảnh mới. Theo đó, các giải pháp tập trung liên quan đến (i) Nhóm giải pháp nhằm phát huy vai trò của di cư trong giảm nghèo đa chiều tại nơi đi và (ii) Nhóm giải pháp giải pháp liên quan đến công tác thống kê thu thập dữ liệu nhằm đảm bảo tính đại diện trong các nghiên cứu về di cư và nghèo đa chiều.

7. Bố cục của luận án Không tính phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận án được kết cấu thành năm chương như sau:

6. Đóng góp của luận án Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận Thứ nhất, luận án là nghiên cứu đánh giá tác động của di cư việc làm đến nghèo đa chiều một cách tiếp cận về nghèo mang tính tổng hợp. Các nghiên cứu về tác động của di cư đến nghèo trước đây chỉ đánh giá tác động của di cư trên khía cạnh đơn chiều (nghèo thu nhập/chi tiêu) hoặc trên từng chiều cạnh nghèo đa chiều mà không nghiên cứu đến nghèo đa chiều mang tính chất tổng hợp. Thứ hai, luận án sử dụng dữ liệu Khảo sát mức sống dân cư do Tổng cục thống kê thực hiện kết hợp giữa bộ dữ liệu hộ gia đình và bộ dữ liệu xã cũng như dữ liệu cấp tỉnh (sử dụng chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh – PCI). Số liệu của những nghiên cứu trước đây chỉ giới hạn chủ yếu ở bộ dữ liệu Khảo sát mức sống dân cư phân tích dựa trên bộ dữ liệu hộ gia đình nên không đảm bảo được Chương 1: Cơ sở lý thuyết về về di cư và nghèo đa chiều. Chương 2: Tổng quan tình hình nghiên cứu. Chương 3: Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu. Chương 4: Thực trạng tác động của di cư đến nghèo đa chiều tại nơi đi ở Việt Nam. Chương 5: Một số hàm ý chính sách nhằm phát huy vai trò của di cư trong giảm nghèo đa chiều tại Việt Nam

9

10

CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ VỀ DI CƯ VÀ NGHÈO ĐA CHIỀU cũng như thực hiện đánh giá tác động của di cư bằng mô hình thực nghiệm. Kết quả từ chương 4 sẽ là đầu vào để luận án đề xuất một số hàm ý cính sách ở Chương 5.

CHƯƠNG 2 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan nghiên cứu về di cư Trong khi có nhiều tài liệu có sẵn về các yếu tố quyết định, mô hình, hậu quả và các khía cạnh khác của di cư, không có định nghĩa được chấp nhận phổ biến về di cư cũng như di cư nội địa. Lý do thứ nhất đó là vì di cư rất khó xác định bởi nó liên quan đến cả chiều thời gian và không gian nên cần xác định một cách thận trọng. Thứ hai, các nghiên cứu di cư thường sử dụng các định nghĩa khác nhau tùy thuộc vào đặc trưng kinh tế và nguồn dữ liệu tiếp cận. Vì vậy, luận án đã tiến hành tổng hợp và hoàn thiện định nghĩa về di cư tập trung vào xuất cư (di cư đi). Theo đó, di cư được tổng hợp dựa trên ba khía cạnh: không gian, thời gian và mục đích di chuyển của người di cư. Bên cạnh đó, luận án thực hiện phân loại di cư dựa trên các tiêu thức khác nhau.

2.1. Tổng quan nghiên cứu về các yếu tố tác động đến di cư Có nhiều yếu tố khác nhau thúc đẩy người dân đi khỏi nơi cư trú và thu hút họ đến nơi ở mới được các nghiên cứu trong và ngoài nước chỉ ra trong các nghiên cứu. Các yếu tố này được chia làm hai nhóm bao gồm nhóm yếu tố đẩy (pull factors) và nhóm yếu tố kéo (push fators). Trong đó, các nghiên cứu đều thống nhất rằng, yếu tố kéo thu hút người di cư nhiều hơn là yếu tố đẩy. Ngoài những lý do liên quan đến yếu tố kéo và yếu tố đẩy của di cư, một số lý thuyết nghiên cứu còn đề cập đến các lý do thuộc về đặc điểm cá nhân và gia đình người di cư. Tuy nhiên, Lee (1966), Waddington Hugh & Rachel Sabates-Wheeler (2003), Lenhardt, A. (2023) cũng chỉ ra yếu tố trung gian chính là các rào cản khiến người dân muốn di cư nhưng không thể di cư bao gồm cả chi phí di chuyển. Theo đó, di cư không thực sự dành cho người nghèo đặc biệt là người nghèo kinh niên và nghèo trầm trọng. Hay nói cách khác, nghèo cũng là một yếu tố ngăn cản di cư, khi mọi người mong muốn di chuyển nhưng lại không có khả năng thực hiện. Cuối cùng, một yếu tố đẩy người dân di cư được nhắc tới trong các nghiên cứu gần đây liên quan đến thảm họa thiên nhiên và biến đổi khí hậu (Lưu Bích Ngọc và cộng sự, 2017; UNDP, 2024b). Các nghiên cứu này cho rằng, mong muốn rời khỏi khu vực nông nghiệp và rời bỏ quê hương cùng với những thách thức của điều kiện sống và sản xuất dưới tác động của thảm họa thiên nhiên, biến đổi khí hậu làm cho người dân muốn di cư đi nơi khác có điều kiện khí hậu tốt hơn, ít chịu tác động của biến đổi khí hậu hơn.

1.2. Cơ sở lý thuyết về nghèo đa chiều Luận án đã tổng quan các tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước về các nội dung sau: Thứ nhất, luận án đã hoàn thiện khái niệm về nghèo nói chung và nghèo đa chiều nói riêng. Thứ hai, luận án tiến hành phân loại nghèo đa chiều dựa trên các tiêu thức phân loại khác nhau. Thứ ba, luận án đã tổng hợp các cách thức đo lường nghèo (bao gồm cả nghèo đơn chiều và đa chiều). Đo lường nghèo hiện nay dựa trên hai cách tiếp cận gồm đơn chiều và đa chiều. Trong đó, nghèo theo cách tiếp cận đơn chiều được phản ánh trực tiếp thông qua thước đo thu nhập hay chi tiêu của hộ và là thước đo trực tiếp về nghèo. Thước đo về sự thiếu hụt thu nhập/chi tiêu cũng có thể trở thành một chiều trong nghèo đa chiều ở một vài quốc gia và một vài nghiên cứu. Trong khi đó, nghèo đa chiều được đo lường gián tiếp thông qua các chỉ báo trung gian và hiện đang được nhiều quốc gia áp dụng. Theo đó, nghèo đo lường dựa trên cách tiếp cận đa chiều được sử dụng phổ biển được đề xuất bởi Alkire (2007), Alkire và Foster (2011). Theo thời gian và theo đặc điểm của mỗi quốc gia, thang đo đo lường NĐC được bổ sung, thay đổi cho phù hợp nhưng vẫn giữ nội dung cốt lõi dựa trên đề xuất của Alkire và Foster (2011). Thêm vào đó, luận án cũng đã tổng hợp các chiều và chỉ báo đo lường nghèo đa chiều áp dụng cho một số quốc gia và tại Việt Nam. Theo đó, Việt Nam đo lường nghèo đa chiều sử dụng 5 chiều cho giai đoạn 2016-2021 (gồm giáo dục, y tế, nhà ở, điều kiện sống, tiếp cận thông tin) theo quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 và 6 chiều cho giai đoạn 2022- 2025 (gồm giáo dục, y tế, nhà ở, nước sinh hoạt và vệ sinh, thông tin và việc làm) theo nghị định số 07/NĐ-CP ngày 27/1/2021. Dựa trên những phân tích về ưu và nhược điểm của từng cách thức đo lường nghèo đa chiều từ đó đưa ra cách thức mà luận án lựa chọn. Những nội dung của Chương 1 sẽ là căn cứ khoa học để tính toán chỉ số nghèo đa chiều và thử nghiệm tính toán các chỉ tiêu phản ánh nghèo đa chiều cho hộ di cư tại Việt Nam tại nơi đi. Những thử nghiệm tính toán này được triển khai nghiên cứu tại Chương 4 2.2. Tổng quan nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến nghèo đa chiều Trong khái niệm đo lường nghèo được luận án đề cập ở Chương 1, các nghiên cứu đều chỉ ra tính chất đa chiều của nghèo. Nghèo có thể là sự thiếu hụt về khía cạnh vật chất (thiếu hụt về tiền tệ thông qua đo lường bằng thu nhập/chi tiêu) hoặc thiếu hụt về các khía cạnh phi vật chất (thiếu hụt về phi tiền tệ như sức khỏe, giáo dục, điều kiện sống,….) hoặc thiếu hụt cả hai. Một vài nghiên cứu về nghèo đa chiều đã đưa thu nhập là một chiều trong các chiều đo lường nghèo đa chiều. Vì vậy, khi nhắc đến các nhân tố ảnh hưởng đến nghèo đa chiều chính là đề cập đến các nhân tố ảnh hưởng sự thiếu hụt các khía cạnh của nghèo. Nội dung của phần này, luận án thực hiện tổng quan các nhân tố ảnh hưởng đến nghèo, tập trung vào nghèo đa chiều được các nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập. Theo đó, Lý thuyết kinh tế về nghèo cho rằng các yếu tố của

11

12

nghèo bao gồm các nhóm yếu tố bên trong (dưới góc độ vi mô) và các nhóm yếu tố bên ngoài (dưới góc độ vĩ mô).

làm gia tăng tình trạng phân hóa giàu nghèo cũng như gia tăng sự bất bình đẳng trong tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trong xã hội hoặc làm trầm trọng hơn một số vấn đề xã hội khác (như tệ nạn xã hội, triệt tiêu động lực làm việc, gây áp lực quá tải lên cơ sở hạ tầng tại nơi đến; gây ra sự thiếu vắng nơi quê nhà).

2.4. Khoảng trống nghiên cứu Mặc dù, từ các tài liệu được tổng hợp trong phần tổng quan nghiên cứu trên thế giới cũng như Việt Nam cho thấy, đã có rất nhiều nghiên cứu về di cư và nghèo đa chiều. Tuy nhiên, dưới góc độ nghiên cứu của luận án vẫn còn nhiều vấn đề chưa được đề cập tạo nên khoảng trống trong nghiên cứu. Cụ thể:

Thứ nhất, từ dẫn chứng các tài liệu cho thấy, các nghiên cứu trong và ngoài nước trước phần lớn tập trung làm rõ tác động của di cư đến nghèo dựa trên cách tiếp cận đơn chiều thông qua tiêu chí về thu nhập hoặc chi tiêu. Các nghiên cứu phần lớn thống nhất đi đến kết luận rằng, di cư giúp gia tăng thu nhập và chi tiêu thông qua tiền gửi về từ người di cư, từ đó giúp hộ giảm nghèo đơn chiều. Tuy nhiên, trên khía cạnh đa chiều của nghèo, tác động này vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ.

Thứ hai, các nghiên cứu tác động của di cư trong nước nghèo phần lớn tập trung tại nơi đến nhưng không nhiều các nghiên cứu thực hiện cho nơi đi. Tác động của di cư đến nghèo cũng còn nhiều mâu thuẫn một số các nghiên cứu chỉ ra vai trò tích cực của di cư trong giảm nghèo, trong khi một số khác lại cho kết luận ngược lại.

Thứ ba, cho tới hiện nay, một số công trình nghiên cứu tác động của di cư đến nghèo trên khía cạnh đa chiều chủ yếu tập trung vào một số chiều đơn lẻ của nghèo đa chiều (như giáo dục, sức khỏe, nhà ở) mà chưa nghiên cứu đối với các chiều còn lại cũng như tác động đến nghèo đa chiều trên cơ sở tổng hợp các chiều.

Thứ tư, các mô hình hay các phương pháp ước lượng tác động của di cư đến nghèo ngoài việc mới chỉ dừng lại ở nghèo đơn chiều như đã trình bày ở trên, thì các nghiên cứu cũng chỉ tiếp cận ở cấp độ hộ mà bỏ quên cấp vùng. Luận án là nghiên cứu đầu tiên tính toán nghèo đa chiều ở cấp vùng cho hộ di cư.

Từ những vấn đề nêu trên, luận án nhận thấy còn tồn tại khoảng trống trong nghiên cứu tác động của di cư đến nghèo dựa trên cách tiếp cận đa chiều cần được bổ sung vào nghiên cứu. Việc bổ sung khoảng trống nghiên cứu này sẽ cung cấp bằng chứng đầy đủ hơn về tác động của di cư đến nghèo. Từ đó, đưa ra các khuyến nghị chính sách phù hợp giúp cải thiện tình trạng thiếu hụt đa chiều qua lăng kính di cư tại Việt Nam.

Nhóm yếu tố bên trong hay còn gọi là nhóm yếu tố vi mô liên quan đến sự thiếu hụt thuộc về đặc trưng cá nhân cũng như gia đình của họ. Nhóm yếu tố bên ngoài hay còn gọi là nhóm yếu tố vĩ mô của nghèo có thể được gây ra bởi các biến dạng kinh tế, chính trị và xã hội hoặc sự phân biệt đối xử hay do biến đổi môi trường và di cư. 2.3. Tổng quan nghiên cứu về tác động của di cư đến các chiều cạnh của nghèo đa chiều Một trong những yếu tố được đánh giá quan trọng đối với nghèo là di cư. Tác động của di cư đến nghèo mang tính chất hai mặt. Một mặt, di cư có tác động tích cực đến nghèo (cả đơn chiều và đa chiều). Tác động tích cực của di cư có thể kể đến như gia tăng phúc lợi (tác động này trực tiếp làm tăng thu nhập hoặc chi tiêu) từ đó giảm tình trạng nghèo, gia tăng khả năng tiếp cận một số dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục, y tế, điều kiện sống,…). Mặt khác, di cư cũng gây ra không ít những tác động tiêu cực cho chính bản thân người di cư, gia đình của người di cư và cộng đồng nơi người di cư đi và đến. Ngoài ra tồn tại những bằng chứng cho rằng, kết quả tác động kém rõ ràng hơn của di cư đến nghèo cũng được tìm thấy. Cơ chế tác động của di cư đến nghèo có thể là trực tiếp và cũng có thể là gián tiếp thông qua các kênh tác động của di cư đến nghèo nói chung và nghèo đa chiều nói riêng. Nội dung phần này sẽ tổng quan các nghiên cứu được thực hiện trong và ngoài nước về tác động của di cư đến nghèo (tập trung vào nghèo đa chiều) được chia thành các chiều hướng tác động của di cư (tập trung vào nơi đi của người di cư). Di cư vừa có tích cực giúp cải thiện tình trạng nghèo vừa có tác động làm trầm trọng thêm tình trạng nghèo của người di cư, gia đình người di cư và cộng đồng nơi người di cư đi. Tác động của di cư đến các chiều cạnh của nghèo mang tính chất hai mặt. Tác động tích cực của di cư có thể kể đến như gia tăng phúc lợi (tăng thu nhập hoặc chi tiêu) từ đó giảm tình trạng nghèo, gia tăng khả năng tiếp cận một số dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục, y tế, điều kiện sống,…). Mặt khác, di cư cũng gây ra không ít những tác động tiêu cực cho chính bản thân người di cư, gia đình của người di cư và cộng đồng nơi người di cư đi và đến (chủ yếu trên khía cạnh đa chiều). Tuy nhiên, tác động của từng loại hình di cư cũng mang lại hiệu quả giảm nghèo khác nhau. Bên cạnh tác động tích cực của di cư đến nghèo dựa trên cách tiếp cận đơn chiều, các nghiên cứu còn xem xét tác động tích cực của di cư đến các khía cạnh nghèo đa chiều thông qua tiền gửi. Các nghiên cứu này phần lớn tập trung vào chiều giáo dục, y tế. Theo đó, tiền gửi về giúp hộ trang trải các khoản chi phí liên quan đến giáo dục, y tế cũng như cải thiện điều kiện sinh hoạt (nhà ở, vệ sinh) cho hộ. Mặc dù di cư có nhiều tác động tích cực đến nghèo đặc biệt là nghèo đơn chiều, nhưng nhiều nghiên cứu cũng đã khẳng định rằng, tác động của di cư thông qua tiền gửi không phải luôn là tích cực trong phân tích nghèo. Tiền gửi của người di cư gửi về quê nhà có thể 2.5. Khung phân tích Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận án xây dựng khung phân tích dựa trên nội dung tổng quan đã được đề cập ở chương 1 và chương 2. Theo đó, khung phân tích của luận án được minh họa như trong Hình 2.1 dưới đây.

13

14

Đặc điểm của chủ hộ

Đặc điểm và điều kiện kinh tế của hộ

Vùng và khu vực sinh sống của hộ

thống kê, các báo cáo, các phân tích đánh giá của các cá nhân trong và ngoài nước. Đối với dữ liệu thô, luận án sử dụng bộ dữ liệu Khảo sát mức sống dân cư (gọi tắt là VHLSS) trong các năm 2014, 2016 và 2018. Dựa trên sự sẵn có của dữ liệu cũng như tổng quan nghiên cứu về di cư và nghèo đa chiều ở chương 1, luận xác định hộ di cư và hộ nghèo đa chiều sử dụng trong phân tích.

DI CƯ

Đặc điểm của xã

Đặc điểm của tỉnh

NGHÈO ĐA CHIỀU (i) Tình trạng nghèo đa chiều tổng hợp (ii) Điểm số thiếu hụt đa chiều (iii) Tình trạng thiếu hụt từng chỉ số NĐC · Mô tả mẫu nghiên cứu Theo dữ liệu VHLSS, với 9399 hộ được khảo sát ở mỗi năm, năm 2014 có khoảng 1002 hộ di cư (chiếm 10,66% tổng số hộ được điều tra). Con số này thấp hơn nhưng không đáng kể ở năm 2016 với 989 hộ (chiếm 10,52% tổng số hộ được điều tra) và tăng lên trong năm 2018 với 1111 hộ (chiếm 11,82% quy mô hộ trong mẫu) Thông tin về di cư cũng như thông tin khác liên quan đến hộ ở từng bộ dữ liệu VHLSS khảo sát được sử dụng để tính toán các giá trị liên quan đến nghèo đa chiều của hộ cũng như đặc điểm của hộ.

Đánh giá tổng hợp kết quả tác động của di cư đến nghèo đa chiều tại Việt Nam

Tuy vậy, để phù hợp với nội dung và phương pháp nghiên cứu là đánh giá tác động ở Chương 5, luận án tiến hành loại bỏ những quan sát ở những địa bàn mà ở đó không có bất kì một hộ di cư nào. Việc loại bỏ các quan sát này nhằm mục đích loại bỏ bớt các nhóm không đồng nhất do các nhóm đó thuộc các địa bàn chỉ có nhóm đối chứng (hộ không di cư), không có nhóm bị tác động (hộ di cư). Tiến hành ghép nối các bộ dữ liệu VHLSS bằng dữ liệu gộp (pool data) giữa hai bộ dữ liệu 2014 với 2016 và 2016 với 2018. Việc ghép nối này làm tăng kích thước mẫu nghiên cứu so với nếu để từng bộ dữ liệu đơn lẻ mà không làm giảm đi hiệu quả của kết quả phân tích.

Một số hàm ý về chính sách nhằm phát huy vai trò của di cư trong việc giảm nghèo đa chiều tại nơi đi

Hình 2.1: Khung phân tích (Nguồn: Đề xuất của tác giả)

CHƯƠNG 3 DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Từ 9399 hộ của mỗi bộ dữ liệu tiến hành loại bỏ các quan sát ở những địa bàn chỉ có nhóm đối chứng (hộ không di cư), sau đó ghép các bộ dữ liệu với nhau. Tổng số quan sát từ dữ liệu gộp 2014 – 2016 là 4836 trong đó 1991 quan sát thuộc nhóm hộ di cư (chiếm gần 41% tổng số quan sát của dữ liệu gộp). Con số này cho dữ liệu gộp 2016 – 2018 là 5046 quan sát trong đó có 2100 quan sát thuộc nhóm hộ di cư (chiếm 41,62%). Bộ dữ liệu này gọi là bộ dữ liệu đầy đủ sẽ được sử dụng trong mô hình đánh giá tác động của di cư đến nghèo đa chiều của các hộ gia đình tại nơi đi. Ngoài ra, luận án còn tiến hành thực hiện ghép bộ dữ liệu hộ gia đình với bộ dữ liệu xã nhằm đánh giá tác động của di cư đến các hộ gia đình tại nơi đi ở khu vực nông thôn. Khu vực nông thôn là nơi xuất cư chủ yếu của người di cư cũng là khu vực tập trung nhiều người/hộ nghèo nhất. Số quan sát chỉ còn lại 3630 cho dữ liệu gộp 2014-2016 và 3837 cho dữ liệu gộp 2016-2018. Sau khi thực hiện ghép nối các bộ dữ liệu, luận án thực hiện phân tích, tính toán, đánh giá tác động từ bộ dữ liệu này (chi tiết ở Chương 4)

3.1. Dữ liệu nghiên cứu Để có đánh giá toàn diện hơn về bức tranh di cư cũng như tác động của di cư đến nghèo đa chiều của hộ gia dình có người di cư tại quê nhà, luận án sử dụng cả dữ liệu thứ cấp và dữ liệu thô. Từ đó, cung cấp căn cứ vững chắc cho những kết luận của luận án. Đối với dữ liệu thứ cấp, luận án tiếp cận từ dữ liệu được công bố bởi Tổng cục Để đánh giá tác động của di cư, cần so sánh kết quả của hộ di cư với chính hộ đó khi không di cư. Tuy nhiên, dữ liệu tại một thời điểm không cho phép thực hiện được điều này. Để khắc phục được điều này, các nhà nghiên cứu thường “tái tạo” lại

15

16

nhóm hộ di cư khi không di cư bằng cách thay thế bởi nhóm hộ không di cư có đặc điểm tương đồng với nhóm hộ di cư (còn gọi là nhóm đối chứng hay nhóm không chịu tác động can thiệp). Sau đó, so sánh kết quả giữa hai nhóm hộ này. Nhóm di cư còn được gọi là nhóm chịu tác động can thiệp. Đây chính là cách thức thực hiện của phương pháp hồi quy kết nối điểm số tương đồng (gọi tắt là phương pháp PSM).

'

'

X

X

e

exp(

e

Pr(

|1

)

=

=

P

=

' ) b

T

=

=

X

( XF

'

'

b X

b ) X

1

e

b

1

exp(

e

b )

+

+

Để tìm ra những hộ không di cư có đặc điểm tương đồng với hộ di cư trước hết cần ước lượng xác suất di cư của hộ hay còn gọi là ước lượng điểm xu hướng (propensity score). Biến phụ thuộc trong mô hình ước lượng điểm xu hướng là biến nhị phân (di cư/không di cư), vì vậy trong các mô hình phân tích có thể sử dụng hàm logit/probit với phương pháp ước lượng hợp lý tối đa (MLE - Maximum Likelihood Estimation). Đối với trường hợp biến nhị phân, khi ước lượng xác suất theo mô hình logit và probit thường mang lại kết quả tương tự (Marco Caliendo & Sabin Kopeinig, 2005, trang 8). Do đó, luận án lựa chọn mô hình logit để ước lượng điểm xu hướng. Khi đó, mô hình logit thể hiện xác suất di cư của hộ được viết như sau: cấp (báo cáo của các đơn vị, tổ chức và cá nhân nghiên cứu về di cư và nghèo đa chiều), nội dung của chương này còn sử dụng số liệu thô từ bộ dữ liệu VHLSS nhằm phản ánh thực trạng di cư cũng như tác động của di cư đến nghèo theo khía cạnh đa chiều thông qua các giá trị thống kê mô tả. Thêm vào đó, mô hình nghiên cứu thực nghiệm cũng được thực hiện trong chương này với việc thống kê mô tả các biến đưa vào mô hình từ đó ước lượng xác suất di cư bằng mô hình logit. Kết quả của bước này chính là tính toán được điểm số tương đồng của từng hộ (propensity score) sử dụng ghép cặp giữa hai nhóm hộ bằng các kỹ thuật ghép cặp khác nhau. Đồng thời, kiểm tra các giả thiết của phương pháp PSM và đánh giá chất lượng của việc ghép cặp.Tiến hành ghép cặp giữa hai hộ có điểm số tương đồng về các đặc điểm có thể so sánh được, nghiên cứu tiến hành đánh giá tác động của di cư đến nghèo đa chiều tại nơi xuất cư. Các kết luận rút ra từ nội dung chương này sẽ là căn cứ quan trọng đề xuất các hàm ý chính sách được thảo luận của Chương 5. 4.1. Thực trạng di cư và nghèo đa chiều tại Việt Nam 4.1.1. Thực trạng di cư tại Việt Nam

(2.1)

Việt Nam trong quá trình bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước cũng đã trải qua các giai đoạn di cư trong lịch sử. Lịch sử di cư Việt Nam từ giữa thập kỉ 50 của thế kỉ 20 đến nay có thể chia làm ba giai đoạn lớn: giai đoạn 1954 – 1975, 1976 – 1986 và từ 1986 đến 2019.

ATT

(

|

Trong đó X là vecto các biến kiểm soát trong mô hình ảnh hưởng đến quyết định di cư của hộ. Điểm số xu hướng được Rosenbaum và Rubin (1983) thiết lập trong nghiên cứu này như là một xác suất có điều kiện để gửi thành viên hộ di cư dựa trên các đặc điểm của hộ gia đình. Giá trị xác suất dự đoán sẽ nằm trong khoảng [0, 1]. Mỗi hộ tham gia trong mẫu sẽ có một điểm số xu hướng ước tính là: (2.2) P (X|T=1) = P(X) Khi đó, hiệu quả của quá trình di cư của hộ i được biểu thị trong biểu thức (2.3)

)1 == (2.3) )1 - = | ( YE i 1 | TY i i 0 do Heckman và cộng sự (1999) tính toán: TYE i i 1 ( TYE i i 0 = )1 -= Hay nói cách khác ATT chính là chênh lệch giữa kết quả của hộ di cư và của hộ

)1

( 0 | i TYE

=i

Trong giai đoạn 1954 - 1975, việc di dân gắn liền với việc kết thúc kháng chiến chống Pháp đi cùng với đó là đất nước bị chia cắt thành hai miền theo hiệp định Genève, vừa xây dựng và phát triển kinh tế xã hội ở miền Bắc XHCN vừa thực hiện cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Đất nước đã chứng kiến hai luồng di cư trái ngược ở hai thời điểm khác nhau. Dòng di cư vào Nam từ những người dân là đồng bào công giáo từ Bắc vào các tỉnh phía Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào. Cùng với di cư do yếu tố chính trị, một dòng di cư khác diễn ra trong giai đoạn này với mục đích xây dựng và phát triển kinh tế XHCN ở miền Bắc. Chủ trương này đã được thực hiện bằng việc tổ chức di dân từ các địa phương vùng đồng bằng sông Hồng lên sinh sống, sản xuất và phát triển văn hóa tại các địa phương miền núi và trung du phía Bắc, Đông Bắc.

=

ATT

-

)1 ==

(

|

)1 -=

(

|

=

)0

( YE i 1

| TY i i 0

TYE i i 1

TYE i i 0

di cư trong điều kiện hộ không di cư. Tuy nhiên, ở cấp hộ là không quan sát được tại cùng một thời điểm. Vì vậy, giải pháp đưa ra cho vấn đề này là sẽ thay thế bằng cách sử dụng kết quả của hộ không di cư có đặc điểm tương đồng với hộ di cư sau đó ước lượng kết quả tác động này. Khi đó, công thức (2.4) trở thành: (2.4)

CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA DI CƯ ĐẾN NGHÈO ĐA CHIỀU TẠI NƠI ĐI Ở VIỆT NAM

Di cư trong giai đoạn 1976 – 1986, trong khi việc di dân từ các tỉnh đồng bằng sông Hồng lên các tỉnh miền núi phía Bắc, nhất là các tỉnh biên giới vẫn được tiếp tục, các chương trình di chuyển lao động và di dân từ các tỉnh đồng bằng phía Bắc tới Tây Nguyên (đặc biệt là Đăk Lăk, Lâm Đồng), Đông Nam Bộ (đặc biệt là Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai), di dân từ thành phố Hồ Chí Minh sang các địa phương nông thôn ở Đông và Tây Nam Bộ được triển khai. Theo số liệu ước tính có khoảng 1,5 triệu người trong giai đoạn 1976-1980 và 1,3 triệu người trong giai đoạn 1980 - 1986 di cư đến các vùng này. Nội dung chính của Chương 4 là tập trung phản ánh thực trạng tác động của di cư đến nghèo tại Việt Nam. Ngoài nguồn số liệu phục vụ phân tích được lấy từ dữ liệu thứ Giai đoạn 1986 đến nay, đất nước chuyển mình với sự phát triển kinh tế mạnh

17

18

chung không chỉ ở hộ di cư mà còn ở hộ KDC, tiếp đến là chiều Giáo dục. Thêm vào đó, kết quả phân tích chương 4 còn cho thấy, nếu hộ duy trì có thành viên di cư ở cả hai năm thì càng cải thiện được tình trạng nghèo đơn chiều nhưng chưa đảm bảo cải thiện được tình trạng nghèo đa chiều của hộ. mẽ đặc biệt là ở vùng đô thị và các thành phố lớn. Việt Nam chứng kiến sự di cư theo luồng từ nông thôn tới thành thị để tìm kiếm việc làm là chủ yếu. Đa phần họ là những người trẻ tuổi với đa dạng các loại hình di cư. 4.1.2. Thực trạng nghèo đa chiều tại Việt Nam 4.1.2.1 Thực trạng nghèo đa chiều tại Việt Nam từ dữ liệu tổng hợp

Trước năm 2016, nghèo ở Việt Nam thường được tiếp cận dựa trên khía cạnh đơn chiều (hay còn gọi là nghèo tiền tệ), tức là chỉ dựa vào ngưỡng nghèo thu nhập hoặc chi tiêu. Với các thức đo lường này, Việt Nam đã đạt được thành tựu rất nổi bật và được cả thế giới ghi nhận trong công cuộc giảm nghèo đặc biệt là nghèo đơn chiều với tỷ lệ nghèo giảm đi nhanh chóng và được thế giới ghi nhận như là một “mẫu điển hình” trong công cuộc giảm nghèo cho các quốc gia trên thế giới.

Trong những năm qua Việt Nam đã chứng kiến sự giảm nghèo nhanh chóng theo cách tiếp cận đơn chiều nhưng tuy nhiên tình trạng tái nghèo, rơi vào NĐC vẫn còn cao và tình trạng thoát NĐC vẫn còn ít trong một bộ phận những hộ có người di cư. Điều này đặt ra cho Chính Phủ cần có các biện pháp quyết liệt hơn nữa trong đầu tư và phát triển vào cơ sở hạ tầng, tạo thêm nhiều việc làm đặc biệt là ở vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số giúp người dân có thể gia tăng thu tạo điều kiện để giảm nghèo đa chiều. Đồng thời, có kế hoạch về ngân sách hoặc chính sách trợ giúp cho những đối tượng dễ bị tổn thương giúp cho họ có thể tiếp cận gần hơn, dễ dàng hơn với các dịch vụ xã hội cơ bản (như giáo dục, y tế, nhà ở, điều kiện sống, quyền được tiếp cận thông tin). 4.2. Mô hình nghiên cứu thực nghiệm tác động của di cư đến nghèo đa chiều tại nơi đi ở Việt Nam 4.2.1. Biến phân tích và thống kê mô tả các biến

Trên cơ sở tổng quan nghiên cứu về di cư và nghèo đa chiều được đề cập ở chương 1, chương 2 và phương pháp nghiên cứu sử dụng được đề cập trong Chương 3, luận án sử dụng các biến sử dụng trong mô hình nghiên cứu phù hợp với dữ liệu và bối cảnh phân tích.

Kết quả phân tích cho thấy tỷ lệ hộ nghèo không phân biệt phương pháp nào đều giảm nhanh trong giai đoạn tham chiếu 2012-2020. Đặc biệt, nghèo đa chiều giảm liên tục và giảm nhanh chóng trong giai đoạn 2012-2020 (từ 18,1% năm 2012 xuống còn 4,4% năm 2020). Tỷ lệ nghèo thu nhập luôn thấp hơn so với nghèo đa chiều, nhưng khoảng cách chênh lệch giữa hai thước đo này ngày càng thu hẹp. Tuy vậy, nghèo theo chuẩn nghèo chi tiêu (còn gọi là chuẩn TCTK-WB) vẫn cao hơn so với so với nghèo thu nhập và nghèo đa chiều. Theo nghiên cứu của BLĐTBXH (2018), những hộ nghèo đa chiều nhiều nhất thường rơi vào những hộ có mức chi tiêu thấp nhất (chiếm 24,4%). Mặt khác, nghèo đa chiều quốc gia theo tính toán vẫn cao hơn rất nhiều so với nghèo đa chiều quốc tế (theo phương pháp của Alkire & Foster 2011). Sự khác biệt trong cách thức đo lường nghèo đa chiều của Việt Nam so với quốc tế khiến cho sự chênh lệch vẫn còn tồn tại. 4.1.2.2. Kết quả nghèo đa chiều liên quan đến di cư tính toán qua bộ dữ liệu Khảo sát mức sống 2014-2018

Biến phụ thuộc: các biến phụ thuộc đưa vào phân tích mô hình bao gồm các biến: tình trạng nghèo đa chiều, điểm số thiếu hụt đa chiều được đo lường dựa trên bộ tiêu chí của BLĐTBXH (2015) và tiếp cận theo phương pháp đo lường của Alkire & Foster (2011). Bên cạnh đó, luận án còn thực hiện đánh giá tác động của di cư đến tình trạng thiếu hụt từng chỉ số nghèo đa chiều dựa trên bộ chỉ số đề xuất bởi Bộ LĐTBXH (2015) gồm 10 chỉ số đo lường sự thiếu hụt. Theo đó, biến tình trạng nghèo đa chiều nhận giá trị 1 nếu hộ đó là nghèo đa chiều và nhận giá trị 0 nếu hộ đó không nghèo đa chiều. Biến phụ thuộc điểm số thiếu hụt đa chiều là biến định lượng rời rạc thể hiện điểm số thiếu hụt của từng hộ. Biến này được tổng hợp dựa trên số chỉ báo thiếu hụt đa chiều của hộ. Đây là hai biến quan trọng đánh giá nghèo đa chiều của hộ gia đình có người di cư đi.

Từ dữ liệu thô được mô tả như trong mục 3.1.2.2 của chương 3, nghiên cứu thực hiện hai mô hình ước lượng xác suất di cư hay ước lượng điểm xu hướng. Mô hình 1 được thực hiện trên bộ dữ liệu VHLSS đầy đủ các hộ ở cả khu vực thành thị và nông thôn. Theo đó, số quan sát cho dữ liệu 2014-2016 gồm 4836, trong khi dữ liệu 2016- 2018 gồm 5046 quan sát. Mô hình 2 được thực hiện cho các hộ gia đình ở khu vực Kết quả tính toán các giá trị đo lường nghèo đa chiều thực hiện cho hai giai đoạn và so sánh giữa hai nhóm hộ cho thấy một số kết quả đáng lưu tâm. Theo đó, NĐC có xu hướng tăng ở bất kì nhóm hộ nào (di cư và không di cư) ở hai giai đoạn nghiên cứu. NĐC vẫn còn đáng quan ngại ở cả hai nhóm hộ đặc biệt là những hộ sống ở những vùng khó khăn, hạ tầng kém phát triển, tập trung nhiều đồng bào dân tộc thiểu số (như vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long) hoặc những hộ thiếu hụt chỉ báo liên quan đến chiều giáo dục. Đối với hộ di cư, nghèo đa chiều còn có xu hướng gia tăng ở khu vực thành thị trong khi ở vùng nông thôn tình trạng này được cải thiện đáng kể. Mặt khác, chỉ số NĐC cao ở những hộ thiếu hụt chiều Giáo dục, Nhà ở hoặc Tiếp cận thông tin (trong đó tập trung vào các chỉ báo như Tình trạng đi học của trẻ em, Chất lượng nhà ở và Tài sản tiếp cận thông tin thì chỉ số nghèo đa chiều ở mức cao). Trong đó, Điều kiện sống lại là chiều có mức đóng góp cao nhất vào chỉ số nghèo đa chiều

19

20

định bằng chứng mạnh mẽ rằng, di cư tác động tích cực tới nghèo đa chiều ở khu vực nông thôn nhưng trên bình diện quốc gia, di cư vẫn chưa có tác động rõ ràng đến giảm nghèo đa chiều. Các kết quả phân tích tác động của di cư đến nghèo đa chiều tại nơi xuất cư được luận án thể hiện ở Bảng 4.9a, Bảng 4.9b, Bảng 4.10a và Bảng 4.10b.

nông thôn sau khi ghép bộ dữ liệu xã và với bộ dữ liệu hộ gia đình từ bộ dữ liệu VHLSS. Theo TCTK (2016b, 2018), dữ liệu xã ghi nhận thông tin của hơn 2000 xã ở khu vực nông thôn trên phạm vi cả nước để đánh giá tác động của cộng đồng đến đời sống và hoạt động sản xuất kinh doanh của dân cư ở khu vực nông thôn. Điều này cho phép nghiên cứu đánh giá tác động của di cư đến nghèo đa chiều của các hộ gia đình tại nơi đi của người di cư chính xác hơn khi phần lớn người di cư xuất phát từ khu vực nông thôn và nghèo là hiện tượng khu vực nông thôn. Bộ dữ liệu cho mô hình 2 gồm 3630 quan sát cho dữ liệu gộp của 2014-2016 và 3837 quan sát cho dữ liệu gộp của 2016-2018. CHƯƠNG 5 MỘT SỐ HÀM Ý CHÍNH SÁCH NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA DI CƯ TRONG GIẢM NGHÈO ĐA CHIỀU TẠI VIỆT NAM 5.1. Tóm lược kết quả tác động của di cư đến nghèo đa chiều giai đoạn 2014 - 2018

Đối với mô hình 1, các biến giải thích trong mô hình di cư chỉ còn 3 nhóm gồm đặc điểm của chủ hộ, đặc điểm của hộ và đặc điểm của khu vực và vùng địa lý nơi hộ sinh sống. Chi tiết các biến và thống kê mô tả các biến của mô hình này xem chi tiết ở Bảng A1a của phần Phụ lục.

Các biến giải thích trong mô hình di cư nông thôn (mô hình 2) gồm 32 biến chia thành 5 nhóm đặc trưng gồm đặc trưng nhân khẩu của chủ hộ, đặc điểm và điều kiện kinh tế của hộ và vùng và khu vực địa lý nơi hộ sinh sống. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn đưa vào mô hình hồi quy các biến liên quan đến đặc điểm cấp xã nơi hộ sinh sống thể hiện cho biến cấp xã và biến Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI - Provincial Competiveness Index hay gọi tắt là chỉ số PCI) là biến duy nhất đại diện cho đặc điểm cấp tỉnh liên quan đến thể chế. Giá trị thống kê mô tả của tập biến giải thích được thể hiện trong Bảng A1b phần Phụ lục.

4.2.2. Tác động của di cư đến nghèo đa chiều tại nơi đi ở Việt Nam Từ kết quả phân tích từ chương 4 cho thấy một số kết quả đáng chú ý. (i) Trên bình diện quốc gia, di cư vẫn chưa đóng góp tích cực trong công cuộc giảm nghèo đa chiều thể hiện ở việc không có sự khác biệt giữa hai nhóm hộ (di cư và không di cư) về các tiêu chí đo lường nghèo đa chiều. Điều này cho thấy cần có những phải pháp tích cực và hiệu quả hơn nữa nhằm phát huy tính tích cực của di cư trong việc giảm nghèo đa chiều trên bình diện quốc gia. Điều mà vai trò tích cực của di cư đã mang lại khi xét đến nghèo theo cách tiếp cận đơn chiều. Khi đề cập tới thành công trong giảm nghèo của Việt Nam, một trong những yếu tố nhắc tới đó là nhờ di cư trong nước. Tuy vậy, thành công trong giảm nghèo của Việt Nam chỉ mạnh mẽ trên khía cạnh đơn chiều (thu nhập/chi tiêu). (ii) NĐC vẫn còn đáng quan ngại ở cả hai nhóm hộ đặc biệt là những hộ sống ở những vùng khó khăn, hạ tầng kém phát triển, tập trung nhiều đồng bào dân tộc thiểu số (như vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long) hoặc những hộ thiếu hụt chỉ số liên quan đến chiều giáo dục.

(iii) Chỉ số NĐC cao ở những hộ có sự thiếu hụt chiều Giáo dục, Nhà ở hoặc Tiếp cận thông tin (trong đó tập trung vào các chỉ số như Tình trạng đi học của trẻ em, Chất lượng nhà ở và Tài sản tiếp cận thông tin thì chỉ số nghèo đa chiều ở mức cao). Trong đó, Điều kiện sống lại là chiều có mức đóng góp cao nhất vào chỉ số nghèo đa chiều. (iv) Đối với hộ di cư, nghèo đa chiều còn có xu hướng gia tăng ở khu vực thành thị trong khi ở vùng nông thôn tình trạng này được cải thiện đáng kể. Tập biến giải thích được chỉ ra ở Mục 4.2.1 được đưa vào thực hiện ước lượng điểm xu hướng tính toán xác suất/khả năng di cư của hộ thông qua hồi quy logit. Các ước lượng được thực hiện cho từng mô hình: Mô hình 1 là mô hình thực hiện cho dữ liệu toàn bộ hộ gia đình và mô hình 2 là được thực hiện cho dữ liệu của các hộ ở khu vực nông thôn bằng cách ghép các thông tin của bộ xã thuộc dữ liệu KSMS. Kết quả ước lượng được thể hiện như trong Bảng 4.7a và Bảng 4.7b.

(v) Ở khu vực nông thôn, di cư có tác động tích cực hỗ trợ giảm nghèo đa chiều tổng hợp (chỉ số nghèo đa chiều), điểm số thiếu hụt đa chiều và một số chiều cạnh của nghèo đa chiều như tiếp cận thông tin, nhà ở.

(vi) Xu hướng di cư mặc dù giảm nhưng vẫn còn cao ở được vùng được coi là trọng điểm về nghèo đa chiều cũng như nghèo đơn chiều của cả nước như Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, Trung du và miền núi phía Bắc. Tại các vùng này, tỷ suất xuất cư cao đi kèm tỷ lệ nghèo đa chiều vẫn còn cao. Minh chứng này cho thấy, di cư vẫn là lựa chọn của các hộ nghèo với mong muốn thoát nghèo trong tương lai nhờ vào tiền gửi từ di cư.

Kết quả đánh giá tác động của di cư đến các chỉ tiêu phản ánh nghèo đa chiều (gồm tình trạng nghèo, điểm số thiếu hụt và tình trạng thiếu hụt theo từng chỉ báo) dựa trên bằng chứng thực hiện từ phương pháp PSM thông qua các kỹ thuật ghép cặp cận gần nhất, ghép cặp bán kính và ghép cặp hạt nhân. Kết quả chỉ ra rằng, di cư có thể cải thiện tình trạng nghèo đơn chiều cũng như phúc lợi của hộ, nhưng rất khó khăn để hộ cải thiện tình trạng nghèo đa chiều. Chỉ một số rất ít các chỉ báo thiếu hụt đa chiều được cải thiện nhờ di cư gồm Diện tích nhà ở bình quân đầu người, Tài sản sử dụng tiếp cận thông tin. Các chỉ báo thuộc các chiều còn lại, nghiên cứu không phát hiện được sự khác biệt nào giữa nhóm hộ di cư và không di cư. Quá trình phân tích, luận án còn phát hiện một số nguyên nhân gây ra tình trạng này. Thêm vào đó, luận án khẳng

21

22

căn cứ xây dựng các chính sách an sinh xã hội phù hợp và kịp thời (thay vì chỉ dựa vào những "hỗ trợ đột xuất" khi thay đổi chính sách hay có cú sốc đơn lẻ, hoặc chỉ dựa vào "danh sách nghèo" được lập vào cuối mỗi năm); cần thiết phải thống kê đầy đủ hơn về di cư trong nước, bao gồm số lượng người di cư, loại hình di cư, thời gian di cư, mục đích di cư, nguyên nhân di cư,… để dự báo chính xác hơn về hiện tượng này; người di cư cần nằm trong đối tượng điều tra về nghèo của Chính phủ; Tổng cục thống kê và các Cục thống kê ở các tỉnh cần phát huy vai trò của cơ quan điều tra, thu thập, cung cấp dữ liệu cho Chính phủ và các tỉnh đề xuất và tư vấn cho các cấp những giải pháp nhằm hỗ trợ người di cư và các chính sách liên quan đến công tác gắn di cư với giảm nghèo đa chiều tại địa phương.

KẾT LUẬN 5.2. Di cư, nghèo đa chiều trong giai đoạn 2020-2023 và xu hướng di cư, nghèo đa chiều trong thời gian tới Kết nối giữa di cư với nghèo đa chiều dựa trên dữ liệu phân tích giai đoạn 2020-2023 cho thấy, ở những vùng có mức nghèo đa chiều lớn hơn thì xu hướng xuất cư giảm nhanh hơn. Tuy vậy, các vùng nghèo đa chiều cao thì xu hướng di cư vẫn gia tăng vì những lợi ích của di cư mang lại cho những vùng này, đặc biệt là tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Đồng thời, di cư vẫn mang lại lợi ích nhiều hơn cho khu vực nông thôn khi luôn duy trì được xu hướng giảm nghèo với tốc độ nhanh hơn thành thị, và ngày càng tiệm cận gần hơn với mức chung cả nước. Điều này cũng phù hợp với nhận định mà luận án đã chỉ ra trong ở mục 4.2. Như vậy, những xu hướng tác động của di cư lên nghèo đa chiều trong mà luận án đánh giá trong giai đoạn 2014 - 2018 vẫn còn có giá trị cho đến thời điểm này. Đây là một đóng góp quan trọng và có giá trị mà luận án mang lại cho học thuật. 5.3. Các hàm ý chính sách phát huy vai trò của di cư trong giảm nghèo đa chiều Với đề tài “Tác động của di cư đến nghèo đa chiều tại Việt Nam” luận án đã giải quyết được một số vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn như sau:

Dựa trên các bằng chứng phân tích từ Chương 4, luận án đề xuất một số khuyến nghị chính sách theo hai nhóm chính: (i) Nhóm giải pháp nhằm phát huy vai trò của di cư trong giảm nghèo đa chiều tại nơi đi và (ii) Nhóm giải pháp giải pháp liên quan đến công tác thống kê thu thập dữ liệu, đánh giá, đo lường di cư và nghèo đa chiều nhằm đảm bảo tính đại diện trong các cuộc nghiên cứu về di cư và nghèo đa chiều.

Thứ nhất, luận án trước hết đã tổng quan được các công trình nghiên cứu liên quan đến di cư, nghèo đa chiều và tác động của di cư đến nghèo đa chiều. Từ đó tác giả đã tìm ra khoảng trống trong nghiên cứu. Theo đó, luận án đã tổng hợp được các tác động của di cư đến nghèo đa chiều và đi tới nhiều kết luận quan trọng. Một mặt di cư có tác động tích cực chủ yếu trên khía cạnh tiền tệ thông qua việc gia tăng thu nhập và chi tiêu của hộ từ đó giúp họ giảm nghèo trên cách tiếp cận đơn chiều. Mặt khác, tác động tiêu cực của di cư phần lớn tập trung vào các chiều xã hội với những khó khăn trong tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục, nhà ở, điều kiện sống và khả năng tiếp cận thông tin. Các phát hiện từ tổng quan tài liệu đã giúp cho luận án tìm thấy khoảng trống trong nghiên cứu khi mà các nghiên cứu tác động của di cư đến nghèo đa chiều tổng hợp mà cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào thực hiện. Thêm vào đó, từ tổng quan nghiên cứu, tác giả cũng đã xây dựng được mô hình các yếu tố tác động đến xu hướng di cư của hộ trên cơ sở kế thừa và có bổ sung thêm yếu tố mới vào mô hình ước lượng. Đồng thời luận án đã luận giải cách thức lựa chọn phương pháp đo lường nghèo đa chiều phù hợp với mục tiêu nghiên cứu. Theo đó, luận án đi theo hướng cho rằng nghèo là hiện tượng đa chiều và sự thiếu hụt trong nghèo đa chiều chỉ bao gồm các chiều xã hội, không bao gồm chiều tiền tệ. Vận dụng bộ chỉ số được xây dựng bởi Bộ lao động thương binh xã hội (2015) và phương pháp xác định hộ nghèo cũng như tính toán các giá trị phản ánh nghèo đa chiều của Alkire & Foster (2011).

Thứ hai, kết quả tính toán các giá trị phản ánh nghèo đa chiều từ bộ dữ liệu VHLSS 2014 -VHLSS 2018 (bao gồm tỷ lệ nghèo đếm đầu, độ sâu nghèo, chỉ số nghèo đa chiều) cho thấy toàn cảnh bức tranh về tình trạng nghèo đa chiều tại Việt Nam nói · Nhóm giải pháp nhằm phát huy vai trò của di cư trong giảm nghèo đa chiều tại nơi đi gồm: (i) Đẩy mạnh cải cách thể chế kinh tế tạo điều kiện để nền kinh tế phát triển từ đó gia tăng việc làm tại nơi đi; (ii) Đẩy mạnh thực hiện các mục tiêu trong chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững cũng như chương trình nông thôn mới hiện đang được thực hiện tại các địa phương giúp giảm nghèo hiệu quả; (iii) Xây dựng tốt chính sách an sinh xã hội nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống bền vững của người dân, đặc biệt là nhóm người yếu thế; (iv) Tập trung nguồn lực để đầu tư ưu tiên cho các chiều nghèo có sự thiếu hụt lớn nhất cũng như các vùng tập trung nhiều người di cư nhưng có nhiều người nghèo nhất; (v) Sử dụng một hay nhiều chiều nghèo để xác định đối tượng thụ hưởng sao cho phù hợp với nguồn lực khả dụng của từng chính sách; (vi) Hoàn thiện các chính sách hỗ trợ cho người di cư và hộ gia đình có người di cư. · Nhóm giải pháp giải pháp liên quan đến công tác thống kê thu thập dữ liệu nhằm đảm bảo tính đại diện trong các cuộc nghiên cứu về di cư và nghèo đa chiều bao gồm: xây dựng bộ dữ liệu quốc gia về người di cư; chỉnh sửa và bổ sung bộ tiêu chí đo lường nghèo đa chiều phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam và có thể so sánh quốc tế; xây dựng hệ thống đánh giá nghèo đa chiều liên tục, định kỳ trong bối cảnh đa cú sốc để xác định các nhóm xã hội đặc thù dễ bị tổn thương, làm

23

24

huy vai trò của di cư trong giảm nghèo đa chiều cũng như trong công tác thống kê đánh giá nghèo đa chiều nhằm phù hợp hơn trong bối cảnh mới. Theo đó, vào các giải pháp tập trung liên quan đến việc phát huy vai trò của di cư trong việc giảm nghèo đa chiều và giải pháp liên quan đến công tác thống kê thu thập dữ liệu đảm bảo tính đại diện trong các nghiên cứu về di cư và nghèo đa chiều.

Hạn chế của luận án Bên cạnh những kết quả đạt được, luận án vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định cần được khắc phục.

chung và ở hai nhóm hộ nói riêng. Hộ nghèo đa chiều thường tập trung đối tượng dễ bị tổn thương với những hộ thuộc nhóm nghèo nhất. Mặt khác, hộ nghèo đa chiều tập trung phần lớn ở khu vực nông thôn và di cư góp phần giảm tình trạng thiếu hụt đa chiều ở khu vực nông thôn nhưng chưa thể giảm được nghèo ở khu vực thành thị (với tỷ lệ nghèo đa chiều của hộ di cư ở khu vực nông thôn thấp hơn so với hộ KDC trong khi tỷ lệ này ở khu vực thành thị cao hơn ở hộ KDC). Hộ di cư nghèo đa chiều chủ yếu sống ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Trung du và miền núi phía Bắc, Tây Nguyên nơi tập trung nhiều đồng bào dân tộc thiểu số với trình độ học vấn thấp và điều kiện sống khó khăn. Việc duy trì có thành viên di cư giúp hộ thiện đáng kể tình trạng nghèo đơn chiều. Tuy vậy, đối với nghèo đa chiều, di cư có tác động khác nhau phụ thuộc vào hình thức di chuyển của hộ. Thứ nhất, luận án chỉ đánh giá tác động của di cư đến nghèo đa chiều tại nơi đi (hay còn gọi là nơi xuất cư) của người di cư mà chưa đánh giá tác động này tại nơi đến (nơi tập trung của người di cư) của người di cư do hạn chế của số liệu phân tích.

Thứ hai, luận án chỉ tập trung phân tích ở cấp độ hộ gia đình, cấp vùng mà chưa phân tích ở cấp độ khác (cấp cá nhân hoặc cấp tỉnh). Vì vậy, chưa thể lượng hóa hết các tác động của di cư đến nghèo đa chiều.

Thứ ba, xem xét tình trạng nghèo đa chiều theo từng chỉ số thiếu hụt, luận án phát hiện ra rằng, sự thiếu hụt các chỉ số cũng là một “chất chỉ điểm” để xác định hộ nghèo đa chiều. Hộ thiếu hụt chỉ số “Tình trạng đi học của trẻ em” là những hộ nghèo đa chiều nhất ở cả nhóm di cư và không di cư. Tiếp đến là những hộ thiếu hụt chỉ số “Chất lượng nhà ở” và Tài sản phục vụ tiếp cận thông tin”. Giáo dục và Điều kiện sống là hai chiều có mức đóng góp lớn nhất vào chỉ số nghèo đa chiều chung ở cả hai nhóm hộ. Điều này cho thấy, cần có những chính sách phù hợp, cụ thể hơn nữa nhằm giảm thiểu những khó khăn trong tiếp cận những chiều này.

Thứ ba, giai đoạn nghiên cứu của luận án chỉ dừng lại với việc đánh giá tác động của di cư trước Covid-19 do những nguyên nhân đã luận giải ở Chương 3 mà chưa đánh giá tác động này trong và sau khi Covid-19 xảy ra. Do vậy, chưa thể đánh giá kịp thời những thay đổi trong xu hướng di cư cũng như nghèo đa chiều trong bối cảnh mới. Thứ tư, mặc dù với một tập dữ liệu gồm lượng lớn quan sát trong mẫu được thu thập. Tuy vậy, do dữ liệu không được thiết kế để phục vụ nghiên cứu về di cư cũng như nghèo đa chiều vì vậy tính đại diện của mẫu chưa cao.

Thứ năm, nghiên cứu chỉ sử dụng một nguồn dữ liệu thô là KSMS thực hiện đánh giá tác động của di cư đến nghèo đa chiều tại nơi xuất cư trong mô hình nghiên cứu thực nghiệm do những nguyên nhân luận án đã luận giải ở chương 3. Bộ dữ liệu này chưa thể đại diện cho hộ di cư do không được thiết kế riêng nghiên cứu về di cư.

Cuối cùng, luận án đã sử dụng một tập biến kiểm soát phong phú trong mô hình ước lượng, nhưng vẫn chưa thể kiểm soát hết được các yếu tố không quan sát được có ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu. Những vấn đề này cho thấy, vẫn còn tồn tại những khoảng trống trong nghiên cứu tác động của di cư đến nghèo cần được bổ sung ở các nghiên cứu tiếp theo trong tương lai.

Thứ tư, di cư có chiều hướng tác động khác nhau trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau. Nghiên cứu tái khẳng định tác động tích cực của di cư trên bình diện nghèo đơn chiều khi mà các hộ di cư gia tăng được thu nhập/chi tiêu thông qua tiền gửi. Từ đó giúp hộ giảm nghèo đơn chiều cả trên bình diện toàn bộ cũng như ở khu vực nông thôn (đặc biệt là tại khu vực nông thôn, nghèo đơn chiều có mức giảm cao hơn khi so sánh với nghèo đa chiều xét trên bình diện toàn bộ). Tuy nhiên, đối với nghèo đa chiều vẫn còn nhiều khó khăn đối với hộ di cư. Kết quả đánh giá tác động xét trên bình diện toàn bộ, di cư vẫn chưa giúp hộ cải thiện tình trạng nghèo cũng như giảm điểm số thiếu hụt đa chiều của hộ gia đình tại nơi đi của người di cư. Chỉ một vài chỉ số đo lường được cải thiện như Diện tích nhà ở bình quân đầu người và các chỉ báo ở chiều tiếp cận thông tin. Tuy vậy, di cư có tác động tích cực khu vực nông thôn, khi cải thiện được tình trạng nghèo, giảm điểm số thiếu hụt đồng thời cải thiện tình trạng nghèo ở một số chỉ số tương tự như tác động trên bình diện toàn bộ (gồm Diện tích nhà ở bình quân đầu người” thuộc chiều Nhà ở và hai chỉ số thuộc chiều Tiếp cận thông tin).

Cuối cùng, dựa trên những bằng chứng phân tích trong chương 4 cho giai đoạn 2014-2018, cũng như kết nối với phân tích thực trạng di cư và nghèo cho giai đoạn 2020-2023, luận án đã đưa ra dự báo về xu hướng di cư và nghèo đa chiều trong tương lai. Từ những phân tích và dự báo này, luận án đã khuyến nghị một số chính sách phát