
Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm
TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230
1
BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂM
Hướng dẫn học
Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau:
Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ v
à tham gia
thảo luận trên diễn đàn.
Đọc tài liệu:
1. Nguyễn Văn Định (chủ biên), 2012, Giáo trình Bảo hiểm, Nhà xu
ất bản Đại học
Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
2. Nguyễn Văn Định (chủ biên), 2009, Giáo trình Quản trị Kinh doanh Bảo hiểm,
Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
3.
C. Arthur Williams, JR. Richard. M. Heins, 1989,
Risk Management and
Insurance, McGrawn-Hill International
Editions, Singapore.
Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên tr
ực tiếp tại lớp học hoặc
qua email.
Tham khảo các thông tin từ trang Web môn học.
Nội dung
Bài 1 trình bày các vấn đề cơ bản và chung nhất về bảo hiểm. Đây là bài nhập môn, tr
ình
bày cơ sở của bảo hiểm, các khái niệm, các loại hình bảo hiểm và vai trò c
ủa bảo hiểm,
hỗ trợ cho việc tiếp tục nghiên cứu cụ thể và chi tiết về bảo hiểm để vận dụng vào vi
ệc
quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế. Nội dung bài 1 t
ập
trung vào các vấn đề sau:
Rủi ro và quản trị rủi ro;
Khái niệm và bản chất của bảo hiểm;
Các loại bảo hiểm;
Vai trò kinh tế và xã hội của bảo hiểm.
Mục tiêu
Sau khi học xong bài này, sinh viên cần:
Hiểu được khái niệm rủi ro và phân biệt được các loại rủi ro;
Nắm vững các công cụ quản trị rủi ro;
Hiểu được khái niệm và bản chất của bảo hiểm;
Phân biệt được các loại bảo hiểm;
Hiểu rõ vai trò kinh tế và xã hội của bảo hiểm.

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm
2
TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230
T
ình huống dẫn nhập
Con tàu huyền thoại Titanic
Tàu Titanic, con tàu nổi tiếng nhất trong lịch sử, rời cảng
Southampton, Anh Quốc, hướng về New York, Hoa Kỳ ngày
10/04/1912. Ngày 11/04, Sau khi đón khách ở Cherbourg, Pháp
và ở Queenstown (nay gọi là Cobh), Ai Len, tàu Titanic hướng
về Đại Tây Dương. Ngày 14/4, khoảng 11h40 tối, tàu Titanic
va vào một tảng băng trôi. Ngày 15/04, lúc 2h20 sáng,
tàu Titanic chìm. Trên tàu có 16 thuyền cứu đắm và 4 thuyền
gập lại được với sức chứa tối đa khoảng 1.170 người. Nhưng có khoảng 2.200 hành khách và
những người làm việc trên tàu. Trong vụ đắm tàu Titanic chỉ có 705 người được cứu, khoảng
1.500 người thiệt mạng. Toàn bộ con tàu Titanic chìm xuống đáy đại dương.
http://wol.jw.org/vi/wol/d/r47/lp-vt/102012124
Tàu Titanic có được bảo hiểm bồi thường không?

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm
TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230
3
1.1. Rủi ro và quản trị rủi ro
1.1.1. Khái niệm và phân loại rủi ro
1.1.1.1. Khái niệm rủi ro
Trong cuộc sống cũng như trong sản xuất, chúng ta
luôn có thể gặp các sự kiện nằm ngoài dự kiến. Có
những sự kiện ngoài dự kiến mang lại những tốt đẹp,
thuận lợi cho cuộc sống con người. Nhưng cũng có thể
là những biến cố không mong muốn với các thiệt hại
có thể là rất lớn. Các biến cố không mong đợi này
được gọi là rủi ro. Nhiều ý kiến cho rằng, rủi ro là sự
cố không may bất ngờ xảy ra gây thiệt hại về người hoặc tài sản.
Rủi ro có đặc điểm rõ nét là sự không chắc chắn, bất ngờ, ngẫu nhiên hay còn gọi là
tính bất định của một biến cố nào đó. Nghĩa là rủi ro có khả năng xảy ra hay không
xảy ra, và rủi ro có thể xảy ra ở bất kỳ thời gian và không gian nào với quy mô thiệt
hại lớn hay nhỏ mà ta không xác định trước được.
Để làm rõ khái niệm rủi ro, cần phân biệt rủi ro với nguy cơ và hiểm họa.
Rủi ro (risk): là từ chung để chỉ một biến cố gây ra tổn thất. Ví dụ, một vụ cháy
thiêu trụi kho hàng của một doanh nghiệp kinh doanh hóa chất, gây thiệt hại về tài
chính cho chủ doanh nghiệp.
Hiểm họa (peril): là nguyên nhân chính gây tổn thất. Trong ví dụ trên, “cháy” là
hiểm họa.
Nguy cơ (hazard): là một hay nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tổn thất. Nguy cơ
không phải là nguyên nhân gây ra tổn thất nhưng có thể làm tăng hoặc giảm khả
năng tổn thất khi hiểm họa xảy ra. Việc “kho hàng chứa hóa chất” là một nguy cơ
vì khả năng xảy ra cháy của hóa chất cao hơn nhiều mặt hàng khác. Có 2 loại nguy
cơ là nguy cơ vật chất và nguy cơ đạo đức. Trong vụ cháy kho hóa chất nói trên,
nguy cơ vật chất là loại hàng hóa chứa trong kho hoặc kết cấu ngôi nhà, nguy cơ
đạo đức là ý thức trách nhiệm của thủ kho và các biện pháp phòng cháy chữa cháy
của doanh nghiệp.
1.1.1.2. Phân loại rủi ro
Rủi ro được phân thành nhiều loại tùy theo các tiêu thức phân loại khác nhau.
Căn cứ vào vào khả năng kiếm lời trong kết cục của rủi ro: rủi ro thuần và rủi ro
đầu cơ (rủi ro suy đoán).
o
Rủi ro thuần túy chỉ liên quan đến việc có bị tổn thất hay không. Ví dụ kho
hàng bị cháy, thiệt hại về hàng hóa là 10 tỷ đồng. Nếu không bị cháy, doanh
nghiệp sẽ không bị thiệt hại 10 tỷ đồng.
o
Rủi ro đầu cơ (rủi ro suy đoán) liên quan đến 3 kết quả có thể xảy ra: tổn thất,
có lãi hoặc không thay đổi. Ví dụ: mua cổ phiếu là rủi ro đầu cơ, người mua cổ
phiếu có thể có lãi hoặc bị thua lỗ do giá cổ phiếu tăng hoặc giảm, và cũng có
thể không được cũng như không mất gì do giá cổ phiếu đó không thay đổi.

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm
4
TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230
Căn cứ vào việc đo lường hậu quả của rủi ro: rủi ro tài chính và rủi ro phi tài chính
o
Rủi ro tài chính là rủi ro có thể xác định hậu quả bằng tiền hoặc quy được
thành tiền.
o
Rủi ro phi tài chính là những rủi ro không xác định bằng tiền mà liên quan
đến tâm sinh lý con người.
Ví dụ bị tai nạn giao thông làm tinh thần hoảng hốt, cảm giác bất an là rủi ro phi
tài chính. Chi phí y tế phải trả là rủi ro tài chính.
Căn cứ vào cả nguyên nhân và hậu quả của rủi ro: rủi ro cơ bản và rủi ro riêng biệt
o
Rủi ro cơ bản là những rủi ro có nguyên nhân nằm ngoài tầm kiểm soát của
con người và gây ảnh hưởng đến nhiều người. Nguyên nhân dẫn đến các rủi ro
cơ bản thường do thiên nhiên, như bão lụt, động đất, hạn hán… Hoặc do các
biến động trong môi trường kinh tế – chính trị – xã hội như thất nghiệp.
o
Rủi ro riêng biệt có nguyên nhân và hậu quả mang tính cá biệt, xảy ra với một
hoặc một số ít người. Tai nạn giao thông, tai nạn lao động là những ví dụ điển
hình về rủi ro riêng biệt.
1.1.2. Quản trị rủi ro
Trong mọi hoạt động, con người luôn có nguy cơ gặp
phải rủi ro vì những nguyên nhân khác nhau, như: bão
lụt, hạn hán, ốm đau, bệnh tật tai nạn… Mỗi khi gặp
phải rủi ro thường gây nên những hậu quả khó lường
làm ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất và đến sức khoẻ
của con người. Bởi vậy, ngay từ khi xã hội loài người
xuất hiện thì nhu cầu an toàn đối với con người cũng
xuất hiện và nó là một trong những nhu cầu vĩnh cửu.
Lúc nào con người cũng tìm cách bảo vệ chính bản
thân và tài sản của mình trước những rủi ro trong cuộc sống cũng như trong sản xuất.
Phương pháp bảo vệ lúc đầu là rất đơn giản và đôi khi là mù quáng, bằng cách họ luôn
luôn cầu xin các đấng thần linh và chúa trời phù hộ dể được yên ổn, an toàn. Và chẳng
bao lâu con người đã tìm ra cách thức bảo vệ một cách có tổ chức. Các nhà khảo cổ
học đã tìm thấy những vết tích chứng minh sự tồn tại của các tổ chức cứu hộ tương hỗ
đối với các thợ tạc đá Ai Cập cổ đại từ 4.500 năm trước công nguyên. Hay người Ba-
Bi-Lon đã đưa ra những quy tắc trong việc tổ chức các phương tiện vận tải bằng xe
kéo và đặc biệt đã quy định phân chia các thiệt hại do mất cắp và bị cướp cho các
thương gia cùng gánh chịu. Thời La Mã cổ đại đã có những hội đoàn kết tương trợ của
các tập đoàn lính có cùng nhu cầu, bằng cách người ta đã dùng quy chế của toàn tang
lễ Lanuvium tổ chức tang lễ cho tất cả các thành viên đã có tiền đóng góp cho hội từ
khi họ còn sống. Đến thời Trung cổ, các quy tắc về bảo hiểm hàng hải đã được hình
thành và phát triển với bằng chứng là người ta đã tìm thấy các bản hợp đồng bảo hiểm
cổ xưa nhất ở các cảng biển Địa Trung Hải và Đại Tây Dương…
Khi cuộc sống và sản xuất ngày càng phát triển thì nhu cầu an toàn cũng được con
người ngày càng quan tâm nhiều hơn. Đặc biệt là khi khoa học, kỹ thuật và công nghệ
phát triển, một mặt đã làm tăng năng suất lao động và tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc

Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm
TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230
5
sống của con người, nhưng mặt khác, nguy cơ gặp rủi ro của con người cũng ngày
càng nghiêm trọng. Để đối phó với rủi ro và khắc phục hậu quả tổn thất, lúc này con
người đã tìm ra nhiều cách thức khác nhau để phòng vệ. Từ góc độ quản trị rủi ro,
theo mục đích và các biện pháp xử lý rủi ro, những cách thức này thể hiện chủ yếu ở
hai nhóm biện pháp là kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro.
1.1.2.1. Kiểm soát rủi ro
Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm biện pháp tránh né rủi ro, ngăn ngừa
tổn thất, giảm thiểu rủi ro.
Tránh né rủi ro: Đây là biện pháp được sử dụng phổ biến trong cuộc sống. Mỗi
cá nhân, mỗi tổ chức đều có thể lựa chọn những biện pháp thích hợp để né tránh
rủi ro có thể xảy ra nhằm loại trừ nguy cơ dẫn đến bị tổn thất. Chẳng hạn, để né
tránh tai nạn giao thông người ta đã hạn chế việc đi lại, hay để phòng tránh tai nạn
lao động, người ta sẽ chọn những ngành nghề ít nguy hiểm hơn… Tuy vậy, trong
cuộc sống mà nhất là cuộc sống hiện đại như ngày nay, biện pháp này rất khó thực
hiện và thậm chí là không thể thực hiện được.
Ngăn ngừa tổn thất: Đây là biện pháp khá chủ
động bằng cách thực hiện các hành vi và hành động
cụ thể mà các cá nhân và tổ chức đưa ra nhằm giảm
mức độ thiệt hại khi gặp rủi ro. Chẳng hạn, để giảm
bớt tai nạn lao động, các khoá học cho người lao
động về an toàn, vệ sinh lao động được tổ chức.
Hay để phòng chống hoả hoạn, người ta đã thực
hiện tốt công tác phòng cháy chữa cháy…
Giảm thiểu tổn thất: Cho dù khi đã gặp phải rủi ro, người ta vẫn có thể có các
biện pháp làm giảm thiểu tổn thất. Ví dụ, khi hoả hoạn xảy ra, để giảm thiểu tổn
thất người ta đã sử dụng biện pháp cứu hoả. Hay khi bị tai nạn, để giảm thiểu các
thiệt hại về người, người ta đã đưa những người bị thương đi cấp cứu kịp thời và
điều trị…
Các biện pháp kiểm soát rủi ro nhìn chung đều mang tính chủ động và có tác dụng trong
việc ngăn chặn hoặc giảm thiểu rủi ro tổn thất nhưng vẫn không ngăn được rủi ro xảy ra
cũng như ngăn cản xảy ra thiệt hại. Hơn nữa, chi phí thực hiện các biện pháp kiểm soát
rủi ro có thể là rất lớn và nằm ngoài khả năng tài chính của các doanh nghiệp.
1.1.2.2. Tài trợ rủi ro
Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm chấp nhận rủi ro và bảo hiểm.
Chấp nhận rủi ro: Đây là biện pháp mà con người tự chấp nhận tổn thất khi gặp
phải rủi ro, điều đó cũng có nghĩa là họ tự bảo hiểm. Chẳng hạn, người ta có thể tự
lập ra quỹ dự trữ, dự phòng và quỹ này chỉ được sử dụng để bù đắp tổn thất khi
gặp phải rủi ro. Hoặc khi rủi ro xảy ra, để khắc phục hậu quả cho người ta có thể đi
vay mượn tiền bạc để khắc phục hậu quả.
Bảo hiểm: Đây là biện pháp chuyển giao rủi ro rất có hiệu quả. Có nghĩa là, nhiều
người cùng có khả năng gặp phải rủi ro đóng góp tiền bạc để hình thành quỹ bảo