CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG

(Thời gian: 8 tiết lý thuyết)

1.1. Giới thiệu môn học

1.1.1. Khái niệm vị trí vai trò và yêu cầu môn học

1.1.1.1. Khái niệm

Theo A.Young: Đánh giá đất đai là quá trình đoán định tiềm năng của đất

cho một hoặc một số loại sử dụng đất đƣợc chia ra để lựa chọn.

Theo FAO đã đề xuất định nghĩa đánh giá đất đai (1976): Đánh giá đất đai là

quá trình so sánh, đối chiếu những tính chất vốn có của vạt đất cần đánh giá với

những tính chất đất đai mà loại sử dụng đất yêu cầu phải có.

Nhƣ vậy đánh giá đất đai là quá trình thu thập thông tin về đất đai, xem xét

toàn diện để phân hạng đất về mức độ thích nghi và các yếu tố kinh tế xã hội khác.

Kết quả đánh giá phân hạng đất đƣợc thể hiện bằng bản đồ, bản báo cáo và các

bảng biểu số liệu kèm theo.

1.1.1.2. Vị trí vai trò môn học

Là môn chuyên sâu trong phần kiến thức ngành chính, có vai trò là môn

chuyên môn cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về đánh giá đất đai để

họ có thể vận dụng trong việc đánh giá đất đai, phân hạng đất tham gia vào việc

quản lí tài nguyên đất lâm nông nghiệp.

1.1.1.3. Yêu cầu của môn học

Sinh viên phải nắm đƣợc những nội dung, nguyên tắc, phƣơng pháp và qui

trình đánh giá đất đai trong nông lâm nghiệp.

Có khả năng đánh giá đất theo thích nghi và đánh giá phân hạng đất đai theo

văn bản quy định hiện thời của Nhà nƣớc và đề xuất những biện pháp sử dụng đất

đai hợp lí, bền vững.

1

1.2 Tổng quan về đánh giá đất đai

1.2.1 Trên thế giới

Từ những năm 1960, Tổ chức Nông Lƣơng Thế giới (FAO) đã tập hợp lực

lƣợng gồm các chuyên gia nghiên cứu đất trên Thế giới để xây dựng phƣơng pháp

điều tra đánh giá tài nguyên đất (Soil) và khả năng sử dụng đất đai (Land) toàn cầu

và trên cơ sở đó áp dụng cho các khu vực, các nƣớc. FAO đã đƣa ra các tài liệu

hƣớng dẫn về phân loại đất và đánh giá đất đai v.v. Các tài liệu hƣớng dẫn của

FAO đƣợc các nƣớc quan tâm thử nghiệm, vận dụng và chấp nhận là phƣơng pháp

tốt nhất để đánh giá tiềm năng đất đai làm cơ sở cho quy hoạch sử dụng đất. Theo

phƣơng pháp đánh giá đất đai của FAO, các yếu tố tự nhiên (địa hình, đất đai,

sông ngòi, khí hậu, thảm thực vật, v.v.), kinh tế - xã hội, nhu cầu dinh dƣỡng cây

trồng, khả năng đầu tƣ thâm canh, hiệu quả kinh tế các loại hình sử dụng đất, mức

độ ảnh hƣởng của môi trƣờng,... đƣợc xem xét dựa trên những luận cứ khoa học và

đƣợc tiến hành theo từng bƣớc. Với kỹ thuật tin học tiên tiến, Hệ thống Thông tin

Địa lý (GIS) đã đƣợc ứng dụng trong đánh giá đất đai để xử lý thông tin, đƣa ra

đƣợc các thông số cần thiết và chính xác nhằm xây dựng các loại bản đồ về đất.

Thấy rõ tầm quan trọng của đánh giá, phân hạng đất đến 1976 FAO đã tập

trung nghiên cứu xây dựng đề cƣơng đánh gá đất. Tài liệu này đƣợc nhiều nƣớc

trên thế giới quan tâm, thử nghiệm và vận dụng vào công tác đánh giá đất đai của

nƣớc mình. Đến 1983 và những năm tiếp theo đề cƣơng ngày càng đƣợc nghiên

cứu bổ sung để hoàn thiện, đã xây dựng các tài liệu hƣớng dẫn đánh giá đất đai chi

tiết cho các vùng sản xuất khác nhau nhƣ:

 Đánh giá đất đai cho nông nghiệp nƣớc trời - 1983.

 Đánh giá đất đai cho vùng đất rừng -1984.

 Đánh giá đất đai cho nông nghiệp đƣợc tƣới – 1985.

1.2.2. Tại Việt Nam

Vào những năm 60 - 70 thế kỷ trƣớc, việc điều tra tài nguyên đất đai ở nƣớc

ta đã đƣợc tiến hành, nhằm phục vụ cho công tác quy hoạch sản xuất nông nghiệp.

2

Nhiều địa phƣơng đã quy hoạch sử dụng đất trên các tỷ lệ bản đồ khác nhau và đã

góp phần vào việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp nƣớc ta. Tuy nhiên, việc quy

hoạch đó còn những khiếm khuyết, chƣa đề cập tới các điều kiện tự nhiên, kinh tế

- xã hội..., dẫn đến tình trạng nhiều bản quy hoạch không thể áp dụng vào thực tiễn

sản xuất.

Năm 1999, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã ban hành Quy trình đánh giá đất đai

phục vụ nông nghiệp dựa trên cơ sở phƣơng pháp của FAO có chỉnh biên cho phù

hợp với điều kiện nƣớc ta (Tiêu chuẩn Ngành 10 TCN 343-98), hƣớng dẫn các cơ

quan chức năng và địa phƣơng áp dụng để đánh giá tài nguyên đất đai trên phạm

vi cả nƣớc.

Trong lâm nghiệp các tác giả Đỗ Đình Sâm, Ngô Đình Quế và Vũ Tấn

Phƣơng đã xây dựng Hệ thống đánh giá đất lâm nghiệp Việt Nam 2005, Nxb

KH&KT.

1.3 Khái quát phƣơng pháp đánh gái đất theo FAO

1.3.1. Hƣớng dẫn của FAO về đánh giá đất đai

Trong tổng hợp báo cáo của FAO (1995) cho thấy tỷ lệ của sự suy

thoái đất đai đang tiếp tục gi a t ăn g . Tuy nhi ên, sự suy thoái đất đai có

thể đƣợc chỉnh sửa nếu đất đai đƣợc sử dụng một cách hợp lý hay tất cả

các chức năng của đất đai đƣợc quan tâm suy nghĩ từ góc độ của địa

phƣơng, quốc gia v à toàn cầu, ngƣợc lại sự suy thoái đất đai càng

nghiêm trọng hơn ở những nơi không có quy hoạch sử dụng đất đai hoặc

thực hiện theo thứ tự, hoặc nếu có một quyết định sử dụng đất đai sai hay

định kiến l ãnh đạo sử dụng đất không hợp lý.

Ðể khắc phục tình trạng này, có thể có những biện pháp nhƣ đối với

việc tránh tác động tổn hại nhiều đến sự phát triển và đạt đƣợc một sự

bền vững trong phát triển nông nghiệp. Có phƣơng pháp điều chỉnh việc

sử dụng đất đai đƣợc trình bày, đó là một hoạt động đƣợc xác định trên

nền tảng của qui luật chắc chắn có hiệu quả đối với từng thời kỳ sử dụng

đất. Một khoảnh đất đƣợc xem là thích hợp khi sử dụng có hiệu quả đối

3

với cả lúa, thổ cƣ và đƣợc đánh giá thông qua việc định lƣợng. Kết quả

nghi ên cứu cho thấy rằng phƣơng pháp này đóng góp cho kế hoạch sử

dụng đất trong việc t ìm ra chƣơng trình để điều chỉnh đối với trồng lúa là

đất đƣợc sử dụng ổn định và có những kiến nghị cho sự phát triển ổn định

lâu d ài.

Một số nghiên cứu chỉ rõ hơn trong sử dụng đất đai là cần đảm bảo

một hệ sinh thái bền vững v à hệ thống xã hội phát triển hoặc là tạo ra kết

quả của sự suy giãm tài nguyên. Do vậy, để phục hồi tình trạng cân bằng

giữa sự phá hoại và sự hữu dụng của tài nguyên là vấn đề quan trọng cho cả

hai: con ngƣời và những đặc điểm tự nhiên trong hệ sinh thái. Cần có sự phân

tích hiện trạng và tiềm năng sử dụng đất đai, từ đó cho phép phục hồi lại

đất đai, xác định các nhân tố giới hạn mà từ đó có thể đƣợc làm hạn chế

bớt đi hoặc ngƣng suy thoái đất đai và sản xuất gia tăng (Geerling and Bie,

1986).

Ðã từ lâu, con ngƣời đã biết dựa vào điều kiện tự nhiên để cải tạo

tự nhiên từng bƣớc cho phù hợp và có nhiều bài học kinh nghiệm đắt

giá. Nhƣ kết quả nghiên cứu của Lê Quang Trí (1996) đã chứng minh đƣợc:

kinh nghiệm của ngƣời nông dân dƣới ảnh hƣởng khác nhau của sự hạn

chế về mặt tự nhiên, nhƣng những ngƣời nông dân trong vùng đất phèn đ ã

phát triển những kiểu thực hành khác nhau để khắc phục những hạn chế

về đất trong sản xuất của họ, và cho những kết quả khả quan trong việc khai

thác tốt t ài nguyên đất và nƣớc nhƣ:

 Chọn lựa cơ cấu cây trồng thích hợp và mùa vụ thích hợp nhƣ

lúa, khoai, mía

 Việc tƣới và hệ thống kinh tiêu nƣớc cho vùng lúa năng suất cao.

 Tạo lớp đất bồi cho hoa màu trồng cạn.

 Tạo lớp đất bồi thấp cho cây lúa từ sự canh tác lúa mùa địa

phƣơng.

 Thêm cỏ hoặc rơm phủ tr ên mặt của lớp đất bồi sau khi trồng

4

hoa màu cạn.

 Không cày cho việc canh tác 2 vụ lúa cao sản.

 Xây dựng đê, đập, cống thoát tr ên vùng nhiễm mặn.

 Xây dựng hệ thống rãnh cho hệ thống Lúa-Tôm càng xanh trên

những vùng nƣớc ngọt.

 Xây dựng hệ thống rãnh cho việc nuôi Tôm-Cua trên những vùng

đất phèn, mặn.

Kết quả đã để lại một hiện trạng đặc th ù của Ðồng bằng sông Cửu

long, từ chỗ chỉ dựa vào tự nhiên là chủ yếu để khai thác môi trƣờng

chƣa biến đổi lớn, tiến đến mục tiêu gia tăng lƣơng thực, nhất là sau năm

1975, dẫn đến tình trạng khai thác độc canh làm môi trƣờng tài nguyên bị

phá huỷ. Nền nông nghiệp chỉ thiên về khai thác tài nguyên tự nhiên mà

chƣa chú trọng đúng mức đến việc tái tạo chúng (làm mặn hoá hoặc phèn

hóa một số vùng). Vì vậy, hiện trạng này cần phải đƣợc chú ý giải quyết v

à mục tiêu quan trọng là phải bảo đảm an toàn lƣơng thực, đồng thời

phải đa dạng hoá nền nông nghiệp, tức l à đa dạng hóa cơ cấu sử dụng đất

v à mục tiêu bảo vệ môi trƣờng.

Ðặc biệt từ kết quả đánh giá thích nghi đất đai cho mục ti êu phát

triển nền nông nghiệp sinh thái đ ã đề ra những biện pháp kỹ thuật đặc

thù. Riêng ở ÐBSCL với đề tài nghiên cứu - Phát triển phƣơng thức quản

trị đối với vùng đất phèn dựa vào kinh nghiệm của nông dân và kiến

thức của chuyên gia đã cho thấy:

 Trong thực tế chất lƣợng đất đai quyết định cơ bản đến các kiểu

sử dụng

đất, cơ cấu mùa vụ (trên vùng đất phèn).

 Công tác đánh giá thích nghi đất đai đƣợc thực hiện ở cấp độ

nông trang để có những quyết định quản lý tối ƣu dùng để cải

tiến nâng cấp thích nghi, để từ đó sẽ có những đề nghị về khoa

5

học kỹ thuật mới cho từng đặc th ù của từng vùng nhƣ kiểu sử

dụng đất, cơ cấu mùa vụ và loại cây trồng (Lê Quang Trí, 1996).

Các nhà khoa h ọc của FAO đã xây dựng nên một hệ thống khả năng

phân hạng thích nghi đất đ ai cho các kiểu sử dụng đất đai khác nhau. Đây là

hệ thống bao gồm các nguyên tắc và quan điểm trên cơ sở đánh giá thích

nghi cấp quốc gia, cấp vùng và cấp địa phƣơng.

Mục đích của việc xây dựng hệ thống đá nh giá đất đai FAO là:

 Xác định và xây dựng nguyên lý, quan điểm và qui trình đánh

giá đất đai cho sử dụng đất nông nghiệp nhƣ : trồng trọt, chăn

nuôi, thủy sản; hay cho lâm nghiệp, bảo tồn thi ên nhiên.

 Có khả năng áp dụng đƣợc cho toàn cầu cũng nhƣ xuống đến cấp

địa phƣơng của cả các quốc gia đ ã phát triển và đang phát triển.

 Có đƣợc cái nhìn tổng quát về những đặc tính tự nhi ên của đất

đai, những chiều hƣớng về kinh tế xã hội, và sự thay đổi môi trƣờng,

cũng nhƣ các biện pháp kỷ thuật đang áp dụng của đất đai và

sử dụng đất đai. Từ đó cung cấp những thông tin cần thiết cho

qui hoạch sử dụng đất đai.

 Hệ thống này đƣợc sử dụng nhƣ là nền tảng để đánh giá các hệ thống

đánh giá đất đai hiện có thông qua sự so sánh và kết quả.

 Với hệ thống này sẽ là cơ sở cho việc nghiên cứu thành những

hệ thống đánh giá đất đai mới riêng cho các vùng chuyên bi ệ hệ

thống này đã và đang đƣợc áp dụng rộng rãi cho các nƣớc trên

thế giới.

1.3.2. Một số khái niệm trong đánh giá đất đai theo FAO

Theo FAO (1976): Đánh giá đất đai là quá trình so sánh đối chiếu những tính

chất vốn có của vạt đất cần đánh giá với những tính chất đất đai mà loại sử dụng

đất yêu cầu phải có.

6

Theo A.Young: Đánh giá đất đai là quá trình đoán định tiềm năng của đất

cho một hoặc một số loại sử dụng đất đƣợc chia ra để lựa chọn.

Đánh giá đất đai (Land assactment): Là quá trình xác định tiềm năng của đất

cho một hay nhiều mục đích sử dụng đƣợc lựa chọn. Cũng có thể hiểu đánh giá đất

đai là một bộ phận của phân loại đất đai trong đó cơ sở phân loại là xác định mức

độ thích hợp của việc sử dụng đất.

Nhƣ vậy đánh giá đất đai là quá trình thu thập thông tin, xem xét toàn diện và

phân hạng là việc làm cụ thể để phân định ra mức độ thích hợp cao hay thấp. Kết

quả đánh giá, phân hạng đất đai đƣợc thể hiện bằng bản đồ, báo cáo và các bảng

biểu số liệu kèm theo.

1.3.3. Khái quát qui trình đánh giá đất đai

Qui trình đánh giá đất đai đƣợcthực hiện theo các bƣớc sau:

1). Xây dựng các đơn vị bản đồ đất đai

D ựa trên cơ sở kết quả điều tra khảo sát các điều kiện đất đai nhƣ:

khí hậu, địa hình, thổ nhƣỡng, nƣớc, thực vật, …. Đ ể x â y d ự n g b ả n đ ồ

đ ơ n v ị đ ấ t đ a i . Mỗi đơn vị bản đồ đất đai có những đặc tính đất đai

riêng khác so v ới những đơn vị bản đồ đất đai khá c.

2). Chọn lọc và mô tả kiểu sử dụng đất đ ai

Chọn lọc, mô tả kiểu sử dụng đất hiện tại phù hợp và liên quan đến mục

tiêu chính sách và phát triển đã đƣợc xây dựng bởi các nhà qui hoạch

cũng nhƣ phải phù hợp với những điều kiện về kinh tế xã hội và tự nhiên

môi trƣờng trong khu vực đang thực hiện.

3). Chuyển đổi những đặc tính đất đ ai

Chuyển đổi những đặc tính đất đ ai của mỗi đơn vị bản đồ đất đai

thành các chất lƣợng đất đai có ảnh hƣởng trực tiếp đến các kiểu sử dụng

đất đ ai đã đƣợc chọn lọc.

4). Xác định yêu cầu về đất đai

Xác định yêu cầu về đất đai cho các kiểu sử dụng đất đai đã chọn

7

lọc, hay gọi là yêu cầu sử dụng đất đai trên cơ sở của các chất lƣợng đất đai.

Đối chiếu giữa yêu cầu sử dụng đất đ ai của các kiểu sử dụng đất

đai đƣợc diễn tả dƣới dạng phân cấp yếu tố với các chất lƣợng trong mỗi đơn

vị bản đồ đất đai đƣợc diễn tả dƣới dạng yếu tố chẩn đoán. Kết quả cho

đƣợc sự phân hạng khả nă ng thích nghi đất đai của mỗi đơn vị bản đồ đất

đai với từng kiểu sử dụng đất đ ai.

Đánh giá đất đai là sự so sánh giữa các dữ liệu về nguồn tài nguyên

thiên nhiên và những yêu cầu về quản trị và bảo vệ môi trƣờng của sử

dụng đất đai. Do đó trong việc thực hiện cần phối hợp đa ngành bao

gồm các nhà khoa học về đất, cây trồng, hệ thống canh tác, cũng nhƣ các

chuyên gia về lâm nghiệp, kinh tế và xã hội. Tùy theo từng vùng và mục

đích đánh giá qui hoạch sử dụng đất đai cho từng vùng khác nhau mà

thành phần các nhà khoa học tham gia cũng thay đổi.

Các bƣớc thực hiện trong qui tr ình đánh gia đất đai đƣợc trình bày

một

cách hệ thống trong sơ đồ

8

Hình 1.1: Qui trình đánh giá đất đai cho qui hoạch sử dụng đất

9

đai. De Vos t.N.C. 1978; H. Huizing, 1988; Lê Quang Trí, 1997.

1.3.4. Những nguyên tắc của đánh giá đất đai

Sáu nguyên tắc cơ bản sau đây đƣợc sử dụng cho cho đá nh giá đất

đai theo FAO, 1976:

 N g u yên t ắ c 1: Khả năng thích nghi đất đai phải đƣợc đánh giá và

phân hạng cho một loại s ử dụng chuy ên biệt.

 N g u yên tắc 2: Đánh giá đòi hỏi phải có sự so sánh về lợi nhuận

và mức đầu tƣ cần thiết cho từng kiểu s ử dụng đất đ ai khác nhau.

 N g u yên tắc 3: Đán h giá đất đai đòi hỏi phải đa ngành.

Các đề án đánh giá đất đai ở các nƣớc đang phát triển thƣờng thiếu

những kiến thức thông tin có hiệu quả về những đ iều kiện về

môi trƣờng tự nhiên, kinh tế xã hội, mà những yếu tố này có liên

quan đến vùng đang nghiên cứu.

 N g u yên tắc 4: Đánh giá cần phải đứng tr ên quan điểm sự ảnh

hƣởng và liên quan các yếu tố về môi trƣờng tự nhi ên, kinh tế và

xã hội đến vùng đang nghiên cứu. Khi đánh giá đất đai, thƣờng

những hậu quả về sinh thái môi trƣờng nhƣ: đất xói mòn, gia tăng

bịnh sốt rét, sự mặn hóa, thiếu nguồn nƣớc ngọt ở hạ lƣu.... không

đƣợc chú ý đề cập đến trong khi thực hiện. N ên trong các đề án

lâu dài thƣờng bị thất bại là do các kết quả trên đem lại.

 N g u yên tắc 5: Đánh giá phải xây dựng tr ên nền tản g tính bền

vững.

Đánh giá đất đai đôi khi đƣợc thực hiện một cách độc lập để

xác định tính thích nghi của một kiểu sử dụng chuyên biệt nào

đó, thí dụ nhƣ chỉ cho cây mía mà quên đi khả năng cho lợi

nhuận cao hơn khi so sánh v ới các kiểu sử dụng khác.

 N g u yên tắc 6: Đánh giá thích nghi th ƣờng phải so sánh nhiều

kiểu sử dụng với nhau.

10

1.3.5. Mức độ chi tiết và tỉ lệ khảo sát cho đá nh giá đất đai

Đánh gia đất đai đƣợc thực hiện ở các cấp độ khác nhau tùy thuộc

vào kết quả của các tỉ lệ bản đồ khác nhau. Theo Young, 1976 thì có thể

phân biệt ra 6 mức độ khác nhau để khảo sát cho đánh giá đất đai:

 Tỷ lệ biên soạn: ở mức độ này thì bản đồ đánh giá đất đai đƣợc

biên soạn dựa trên cơ sở các tƣ liệu đã có trƣớc và đƣợc tổng hợp

lại trong phạm vi to àn thế giới hay một vùng lớn. Tỉ lệ sử dụng là

1/1.000.000 hay nhỏ hơn. Phƣơng pháp sử dụng là đánh giá chất

lƣợng đất đai. Kết quả đƣợc sử dụng để đánh giá nguồn tài nguyên

để giải quyết vấn đề lƣơng thực trên thế giới hay trong vùng.

Trong điều kiện Việt Nam, mức độ này đƣợc thực hiện ở tỷ lệ

1/1.000.000 đến 1/5.000.000.

 Tỷ lệ khảo sát thăm dò: dựa trên cơ sở biên soạn các tài liệu

đang có và bổ sung thêm một số thông tin từ các lát cắt thực địa

xuyên qua các vùng chƣa biết. Mức độ này thƣờng áp dụng cho

cấp quốc gia, với tỉ lệ thay đổi từ 1/1.000.000 đến 1/250.000.

Vẫn sử dụng phƣơng pháp đánh giá chất lƣợng đất đai. Ở mức độ

này dùng để kiểm kê tài nguyên thiên nhiên c ủa quốc gia. Trong

điều kiện Việt Nam, mức độ này đƣợc thực hiện ở tỷ lệ cả nƣớc

1/1.000.000.

 Tỷ lệ khảo sát sơ bộ: theo FAO, thì đây là mức độ thấp để kiểm

kê nguồn tài nguyên thiên nhiên trong một vùng của một quốc

gia. Mức độ này để xác định những nhóm sử dụng chính cho từng

vùng. Tỉ lệ thực hiện là 1/100.000 đến 1/250.000. Áp dụng

phƣơng pháp đánh giá chất lƣợng đất đai và bán số lƣợng đất đai.

Kết quả có thể sử dụng cho việc chọn khả nă ng ƣu tiên phát triển

của các đề án trong vùng. Trong điều kiện Việt Nam, mức độ này

đƣợc thực hiện ở cấp vùng với tỷ lệ 1/250.000

11

 Tỷ lệ bán chi tiết: theo FAO đây là mức độ trung bình thƣờng

thực hiện trong các khu vực mà kết quả khảo sát thăm dò cho

thấy có nhiều triển vọng phát triển. Mục ti êu của mức độ này là

chọn những kiểu sử dụng chuyên biệt cho từng khu vực để hổ trợ

cho việc xây dựng các dự án khả thi. Áp dụng từng phần phƣơ ng

pháp đánh giá số lƣợng đất đai. Tỉ lệ bản đồ sử dụng là 1/25.000

đến 1/100.000. Kết quả sử dụng cho thực hiện dự án khả thi v à

qui hoạch vùng nông thôn. Trong điều kiện Việt Nam, mức độ

này đƣợc thực hiện ở cấp Tỉnh với tỷ lệ 1/100.000 cho tỉnh lớn

và 1/50.000 cho tỉnh có diện tích nhỏ.

 Tỷ lệ chi tiết: theo FAO đây là mức độ cao cần thiết thực hiện để

phát triển dự án khả thi trong từng khu vực nhỏ. Áp dụng phƣơ ng

pháp đánh giá số lƣợng chi tiết đất đai. Tỉ lệ sử dụng là 1/10.000

đến 1/25.000. Kết quả đƣợc sử dụng để cung cấp thông tin cho

vùng dự án và qui hoạch Huyện hay liên xã nông thôn. Trong

điều kiện Việt Nam, mức độ này đƣợc thực hiện ở cấp Huyện với

tỷ lệ 1/25.000.

 Tỷ lệ thật chi tiết: theo FAO đây là mức độ rất cao để cung cấp

thông tin và tƣ liệu cho việc quyết định cách quản lý v à cải thiện

về canh tác trong nông trang nhƣ áp dụng hệ thống tƣới, khu

chuyên biệt cho từng loại cây hay lƣợng phân bón cần áp dụng.

Tỉ lệ lớn hơn 1/10.000. Kết quả dùng để qui hoạch xã thôn hay

trang trại. Trong điều kiện Việt Nam, mức độ này đƣợc thực hiện

ở cấp Xã với tỷ lệ 1/5.000, tuy nhiên tùy điều kiện mà có thể

thực hiện quy hoạch cấp ấp (xóm, l àng hay thôn)

12

1.3.6. Các phƣơng pháp đánh giá đất đai

1.3.6.1. Phƣơng pháp đánh giá đất của FAO

Đây là phƣơng pháp đƣợc sử dụng khá phổ biến. Các khái niệm đƣợc trình

bày trên đƣợc sử dụng khá rộng rãi ở các nƣớc Tây Âu và phƣơng pháp đã đƣợc tổ

chức FAO thừa nhận, hoàn chỉnh thành cẩm nang hƣớng dẫn đánh giá đất đai để

áp dụng rộng rãi. Ví dụ năm 1979, FAO xuất bản cẩm nang hƣớng dẫn “Đánh giá

đất đai cho lâm nghiệp”. Trên cơ sở đó một số nội dung hoặc khái niệm đƣợc xác

định nhƣ sau:

(1) Đánh giá tiềm năng sử dụng đất đai (land capability):

Đánh giá tiềm năng sử dụng đất đai là việc phân chia hay phân hạng đất đai

thành các nhóm dựa trên các yếu tố thuận lợi hay hạn chế trong sử dụng nhƣ độ

dốc, độ dày tầng đất, đá lẫn, tình trạng xói mòn, úng ngập, khô hạn, mặn hoá, v.v.

Trên cơ sở đó có thể lựa chọn những kiểu sử dụng đất phù hợp.

Việc đánh giá tiềm năng sử dụng đất thƣờng áp dụng trên qui mô lớn nhƣ

trong phạm vi một nƣớc, một tỉnh hay một huyện. Đánh giá tiềm năng đất đƣợc áp

dụng thành công ở Mỹ và một số nƣớc khác. Yếu tố hạn chế là những yếu tố hầu

nhƣ không thay đổi đƣợc nhƣ độ dốc, độ dày tầng đất, khí hậu.

Ở Mỹ đất đai toàn quốc đƣợc phân thành 8 nhóm với yếu tố hạn chế tăng dần

từ nhóm I tới nhóm VIII. Nhóm I là nhóm thuận lợi nhất trong sử dụng, có rất ít

yếu tố hạn chế. Nhóm VIII là nhóm có nhiều hạn chế nhất trong sử dụng.

Yếu tố hạn chế chủ yếu đƣợc thể hiện qua chữ viết tắt nhƣ xói mòn là e, dư

thừa nước là w.... Ví dụ IV-e, IV-w là nhóm đất IV có yếu tố hạn chế là đất bị xói

mòn, bị ngập úng.

Đánh giá tiềm năng sử dụng đất là phƣơng pháp đánh giá đất đai tổng quát

với mục tiêu sử dụng lớn nhƣ cho nông nghiệp, lâm nghiệp, du lịch hoặc các mục

tiêu khác không phải là nông, lâm nghiệp và không đi sâu đánh giá chi tiết cho

từng thành phần của mỗi kiểu sử dụng đất tổng quát.

13

(2) Đánh giá mức độ thích hợp đất đai (land suitability):

Đánh giá mức độ thích hợp đất đai là quá trình xác định mức độ thích hợp

cao hay thấp của các kiểu sử dụng đất cho một đơn vị đất đai và tổng hợp cho toàn

khu vực dựa trên so sánh yêu cầu kiểu sử dụng đất với đặc điểm các đơn vị đất đai.

Đánh giá mức độ thích hợp đất đai có thể áp dụng chỉ cho một kiểu sử dụng

đất nhất định, ví dụ cho một loài cây trồng nông nghiệp nhƣ ngô, lúa hay lâm

nghiệp nhƣ thông, keo, bạch đàn, v.v. hoặc cho nhiều kiểu sử dụng đất khác nhau

để so sánh lựa chọn. Ngoài ra còn phân biệt đánh giá độ thích hợp hiện tại dựa trên

thực trạng hiện nay và đánh giá độ thích hợp trong tƣơng lai khi mà có những tác

động lớn vào đất đai nhƣ đầu tƣ cao, áp dụng mạnh các tiến bộ khoa học công

nghệ. Quá trình đánh giá mức độ thích hợp đất đai có thể tóm tắt nhƣ sau:

 Xác định kiểu sử dụng đất hay loài cây trồng cần đánh giá

 Xác định các đơn vị đất đai.

 Xác định đặc điểm các yếu tố đơn vị đất đai.

 Xác định các yêu cầu, đòi hỏi của kiểu sử dụng đất hay loài cây trồng

theo mức độ thích hợp khác nhau dựa trên các yếu tố của đơn vị đất đai.

 So sánh các yêu cầu của loài cây hay kiểu sử dụng đất với đặc điểm các

yếu tố đất đai để xác định mức độ thích hợp các kiểu sử dụng đất hay loài

cây trồng.

 Tổng hợp đánh giá kết quả

(3) Hệ thống đánh giá sử dụng đất đai

Kiểu sử dụng đất và loài cây trồng thích hợp (Viết tắt là S - Suitable) với

điều kiện đất đai. Mức độ thích hợp (s) đƣợc phân chia thành 3 mức:

 Thích hợp cao (S1): Đất hầu nhƣ không có hạn chế đáng kể khi thực hiện

cácbiện pháp canh tác.

14

 Thích hợp trung bình (S2): Đất có hạn chế nhất định làm giảm năng suất

cây trồng hoặc nâng cao chi phí canh tác nhƣng vẫn thích hợp cho cây

trồng hoặc kiểu sử dụng đất.

 Thích hợp kém (S3): Đất có hạn chế đáng kể làm giảm mạnh năng suất

và tăng cao chi phí canh tác rõ rệt. Hiệu quả kinh tế bị suy giảm đáng kể.

Kiểu sử dụng đất và loài cây trồng không thích hợp (Viết tắt là N – not

suitable) với điều kiện đất đai. Mức độ không thích hợp (N) có thể phân thành 2

mức:

 Không thích hợp hiện tại (N1): Đất có hạn chế lớn, trong điều kiện kỹ

thuật và chi phí hiện tại kiểu sử dụng đất sẽ không có hiệu quả. Tuy

nhiên trong tƣơng lai các điều kiện kỹ thuật, đầu tƣ thay đổi các kiểu sử

dụng đất có thể thích hợp ở mức độ nào đó với cây trồng.

 Không thích hợp vĩnh viễn (N2): Đất có hạn chế không thể khắc phục

đƣợc.

Chú ý: Xác định yếu tố hạn chế cho từng mức độ thích hợp thể hiện bằng các

chữ nhƣ e: xói mòn, w: ẩm ƣớt, t: địa hình, địa mạo, v.v. Ví dụ nhƣ S2e là mức độ

thích hợp trung bình nhƣng có hạn chế do bị xói mòn. S2et là mức độ thích hợp

trung bình nhƣng có hạn chế về xói mòn và địa hình. S3w là mức độ thích hợp

kém và có hạn chế về nguồn nƣớc trong đất.

Xác định yêu cầu về mặt quản lý thể hiện bằng con số 1 (rất dễ),2 (dễ) ,3

(khó)... để trong ngoặc, ví dụ nhƣ S2e(2) là Mức độ thích hợp trung bình nhƣng

có hạn chế do bị xói mòn và mức độ quản lý đơn giản v.v.

1.3.6.2. Đánh giá đất đai dựa trên cơ sở lập địa (Site)

1). Tiêu chí phân chia lập địa (Site)

Phƣơng pháp đƣợc áp dụng khá phổ biến ở Cộng hoà dân chủ Đức trƣớc kia

(nay là Cộng hoà liên bang Đức). Ngoài ra ở Ukraina nhà lâm học có uy tín

Pogrebnhiac có phân chia lập địa phục vụ công tác trồng rừng và xác định các kiểu

15

rừng. Có rất nhiều định nghĩa về lập địa nhƣng có thể hiểu bản chất của khái niệm

là:

“Lập địa là một phạm vi lãnh thổ nhất định với tất cả những yếu tố ngoại

cảnh ảnh hưởng tới sự sinh sinh trưởng của cây cối. Lập địa theo nghĩa hẹp bao

gồm 3 thành phần: Khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng và lập địa theo nghĩa rộng bao

gồm 4 thành phần: khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng, thế giới động thực vật”.

Phƣơng pháp này nghiên cứu mối quan hệ giữa các thành phần tự nhiên với

nhau, giữa các thành phần tự nhiên với cây trồng trong một không gian nhất định

và đƣợc cụ thể hoá trên bản đồ. Đại diện cho cách làm này có Krauss (1935,

1954), Kopp (1965, 1969), và W. Schwaneeker (1965, 1974). Ở Liên xô cũ lập địa

đƣợc coi là điều kiện nơi sinh trƣởng, nghĩa là tác động tổng hợp của các yếu tố

ngoại cảnh hình thành nên các kiểu rừng nhất định và ảnh hƣởng trực tiếp tới sinh

trƣởng của thực vật rừng.

Những yếu tố xác định lập địa có nhiều nét tƣơng đồng các yếu tố xác định

đơn vị đất đai. Đơn vị cơ bản của hệ thống phân loại lập địa là dạng lập địa và

nhóm dạng lập địa. Đó cũng là đơn vị cơ bản để đánh giá đất đai hoặc xác định các

loài cây trồng phù hợp. Các yếu tố chính xác định các dạng lập địa cũng là địa

hình (độ dốc, vị trí chân, sƣờn, đỉnh), loại đất, độ dày tầng đất, thực bì,.v.v. Sau

đây là một số phƣơng pháp phân chia lập địa.

a). Phân chia lập địa dựa vào độ phì và độ ẩm của đất.

Pogrebnhiac (Ucraina, 1992) đã phân chia lập địa làm cơ sở cho trồng rừng và xác

định các kiểu rừng dựa trên 2 tiêu chí chính là độ phì và độ ẩm của đất. Độ phì

đƣợc chia làm 4 cấp: rất xấu (A), xấu (B), trung bình (C), tốt (D). Độ ẩm đất chia

làm 6 cấp: rất khô (0), khô (1), ẩm vừa (2), ẩm (3), ƣớt (4), lầy (5). Tổng hợp 2

tiêu chí trên sẽ có 24 kiểu lập địa nhƣ sau:

Bảng 1. Các kiểu lập địa dựa vào độ phì và độ ẩm

Độ phì Độ ẩm

16

0 1 2 3 4 5

A0 A1 A2 A3 A4 A5 A

B0 B1 B2 B3 B4 B5 B

C0 C1 C2 C3 C4 C5 C

D0 D1 D2 D3 D4 D5 D

Việc xác định độ phì có thể dựa vào tác dụng chỉ thị của tầng cây gỗ do

chúng có bộ rễ ăn sâu và quan hệ chặt chẽ với độ phì của đất, còn độ ẩm dựa vào

lớp thảm tƣơi do chúng nhạy cảm hơn với sự thay đổi của độ ẩm. (ví du: A0 là đất

rất xấu và rất khô…)

Lập địa có thể phân chia ở cấp vĩ mô (quốc gia, tỉnh, huyện, v.v.) hoặc vi mô

(xã, thôn v.v.). Trong ứng dụng hiện nay để phục vụ cho các dự án trồng rừng lập

địa đƣợc phân chia và đánh giá ở cấp vi mô.

b). Phân chia lập địa dựa vào điều kiện thoát nước

Một phân loại khác về lập địa đƣợc áp dụng ở Liên xô cũ, do đặc điểm điều

kiện thoát nƣớc kém ở vùng Tây Bắc (vùng Saint Pesterburg) nên lập địa đƣợc

phân chia dựa trên 3 yếu tố: đá mẹ hình thành đất, địa hình, chế độ thoát nƣớc

(Blaglovidop, Buadop 1958, 1959, Trectop 1977, 1981). Đó là đơn vị cơ bản của

lập địa gọi là kiểu lập địa. Trectop trong quá trình nghiên cứu còn bổ sung thêm

tiêu chuẩn phân chia lập địa là kiểu mùn vì ông cho rằng kiểu mùn phản ánh quá

trình hình thành và phát triển độ phì đất rừng (1981).

Trên cùng một kiểu khí hậu, hệ thống phân loại lập địa đƣợc phân chia nhƣ

sau: (1) Nhóm lập địa dựa vào điều kiện thoát nƣớc để phân chia; (2) Nhóm phụ

lập địa dựa vào điều kiện thoát nƣớc và đá mẹ hình thành đất; (3) Kiểu lập địa

dựa vào 3 yếu tố trên.

17

Điều kiện thoát nƣớc tác giả phân chia thành 6 kiểu: Thoát nƣớc mạnh;

Thoát nƣớc bình thƣờng; Thoát nƣớc không tốt; Thoát nƣớc kém; Tạo thành dòng

chảy rất yếu; Tạo thành dòng chảy yếu.

Đá mẹ hình thành dựa trên quan điểm sinh thái cần xem xét các yếu tố là độ

dày tầng đất và thành phần cấp hạt.

Đỗ Đình Sâm (1990) trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm sinh khí hậu ở Việt

Nam, đặc biệt chế độ khô hạn mùa khô ảnh hƣởng tới sự sinh trƣởng của rừng và

hình thành các kiểu rừng khác nhau nên đã đề xuất tiêu chí mức độ khô hạn mùa

khô cùng mức độ thoát nƣớc để xác định các nhóm lập địa ở Việt Nam. Mức độ

khô hạn đƣợc chia làm 4 cấp: rất khô, khô, ẩm và ẩm thƣờng xuyên dựa trên chế

độ nhiệt ẩm, đai cao so mặt biển, đặc điểm đất, địa hình.

Các nhóm lập địa đất rừng chính ở Việt Nam theo tác giả phân chia là: Nhóm

lập địa thoát nƣớc mạnh, rất khô hạn; Nhóm lập địa thoát nƣớc mạnh, khô hạn

mùa khô; Nhóm lập địa thoát nƣớc mạnh, ẩm thƣờng xuyên; Nhóm lập địa thoát

nƣớc, rất khô hạn; Nhóm lập địa thoát nƣớc, khô hạn; Nhóm lập địa thoát nƣớc,

ẩm thƣờng xuyên; Nhóm lập địa thoát nƣớc không tốt, rất khô hạn; Nhóm lập địa

thoát nƣớc không tốt, ẩm; Nhóm lập địa thoát nƣớc yếu, ẩm; Nhóm lập địa thoát

nƣớc yếu, khô hạn.

Từ 1991 đến 1995 khi đánh giá tiềm năng sản xuất đất lâm nghiệp và hoàn

thiện phƣơng pháp điều tra lập địa, Đỗ Đình Sâm và cộng sự đã xác định hệ thống

tiêu chuẩn phân chia dạng lập địa theo nguyên tắc: Không sử dụng các yếu tố và

tiêu chuẩn phân chia giống nhau trong phân chia lập địa. Cần xét tới yếu tố chủ

đạo trong phân chia. Các yếu tố lựa chọn cần đƣợc xem xét phù hợp và thoả mãn

với mục đích kinh doanh, mức độ thâm canh. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất 3

nhóm yếu tố tham gia phân chia lập địa

c). Phân chia lập địa dựa vào địa hình thổ nhưởng và điều kiện thoát nước

18

Nhóm yếu tố địa hình: Bao gồm 2 yếu tố là vị trí và độ dốc. Yếu tố vị trí

đƣợc chia ra theo 3 cấp là chân, sƣờn, đỉnh. Yếu tố độ dốc đƣợc phân chia tuỳ

từng điều kiện cụ thể.

Nhóm yếu tố thổ nhƣỡng: Gồm 3 yếu tố quan trọng là nhóm và loại đất,

thành phần cơ giới đất và độ dày tầng đất. Nhóm và loại đất đƣợc xác định thông

qua bản đồ thổ nhƣỡng và điều tra thực địa. Thành phần cơ giới đất đƣợc chia ra

thành 4 cấp là cát rời, cát pha, thịt và sét. Độ dày tầng đất đƣợc xác định cùng với

tỷ lệ đá lẫn, kết von. Phân chia cấp độ dày tuỳ từng đối tƣợng cây trồng.

Nhóm yếu tố chế độ thoát nƣớc và ngập nƣớc: Gồm 2 yếu tố là chế độ

thoát nƣớc và chế độ ngập nƣớc. Với chế độ thoát nƣớc, 4 cấp để đánh giá là thoát

nƣớc mạnh, thoát nƣớc trung bình, thoát nƣớc yếu và thoát nƣớc rất yếu. Đối với

yếu tố chế độ ngập nƣớc thì các cấp phân chia phụ thuộc vào đối tƣợng và điều

kiện thực tế. Nhóm chế độ thoát nƣớc và ngập nƣớc có ý nghĩa sinh thái cho nhiều

vùng nhƣ đất chua phèn, đất dƣới rừng khộp, một số vùng ở Đông Nam bộ, vùng

ven biển.

2). Phân chia lập địa trong lâm nghiệp ở Việt Nam

a). Các cấp phân chia lập địa

Căn cứ vào đặc điểm tự nhiên ở Việt Nam, Nguyễn Văn Khánh (1996) Viện

điều tra Quy hoạch rừng đề xuất một hệ thống phân chia lập địa Lâm nghiệp cho

toàn quốc gồm 6 cấp theo sơ đồ sau:

19

Miền lập địa: Miền lập địa là một lãnh thổ khép kín đƣợc đặc trƣng bởi một

chế độ nhiệt riêng trong đó có hay không có mùa đông lạnh (mùa đông lạnh là mùa đông có một số tháng ở đó nhiệt độ bình quân dƣới 200C) là dấu hiệu để phân

chia.

Á miền lập địa: Á miền lập địa là một lãnh thổ khép kín, có đặc trƣng của

miền lập địa là chế độ nhiệt đồng thời còn có đặc trƣng riêng của á miền là thời

gian mƣa trong năm.

Vùng lập địa: Vùng lập địa là một lãnh thổ khép kín đƣợc phân ra từ á miền

lập địa. Vùng lập địa là kết quả đan xen của một vùng địa mạo, một vùng khí hậu,

20

trong đó miền Bắc lấy trƣờng độ và cƣờng độ lạnh làm dấu hiệu phân chia, miền

Nam lấy trƣờng độ và cƣờng độ khô hạn làm dấu hiệu phân chia.

Tiểu vùng lập địa: Tiểu vùng lập địa là một lãnh thổ khép kín đƣợc phân ra

từ vùng lập địa mang các đặc trƣng chung của các cấp phân vị trên nó đồng thời

mang đặc trƣng riêng của nó đó là tổng hợp của một kiểu địa hình, một kiểu khí

hậu và một nhóm đất chính hoặc phụ trong đó kiểu khí hậu bao gồm 4 yếu tố:

Nhiệt độ bình quân năm, nhiệt độ bình quân tháng lạnh nhất, lƣợng mƣa năm và số

lƣợng tháng khô.

Dạng đất đai: Dạng đất đai là cấp trung gian giữa tiểu vùng lập địa và cấp

dạng lập địa (đơn vị cơ sở của lập địa). Dạng đất đai đƣợc chia nhỏ ra từ kiểu vùng

lập địa bởi thêm vào kiểu địa hình, yếu tố độ dốc (cấp độ dốc) hoặc thoát nƣớc,

thêm vào nhóm đất chính hoặc đất phụ cấp độ dày tầng đất hoặc cấp thành phần cơ

giới.

Dạng lập địa: Dạng lập địa là đơn vị cơ sở của lập địa có khí hậu của tiểu vùng

lập địa, đƣợc đặc trƣng bởi một đơn vị địa mạo thấp nhất (chân, sƣờn, đỉnh...) một bậc

độ dốc, một đơn vị thổ nhƣỡng thấp nhất (thổ chủng hoặc biến chủng) và bao chiếm

một diện tích nhất định.

b). Các thành phần tham gia phân chia lập địa

b1. Thành phần khí hậu

Yếu tố và chỉ tiêu tham gia phân chia Miền lập địa:Yếu tố và chỉ tiêu

tham gia miền lập địa là có hay không có mùa đông lạnh ở hai đai nhiệt đới cơ sở.

Để phân chia miền lập địa, nhiệt độ bình quân năm và nhiệt độ bình quân tháng là

yếu tố đƣợc lựa chọn để phân chia. Quy định tên gọi theo nhiệt độ bình quân nhƣ

sau:

 Nhiệt độ bình quân năm trên 250 C: Cận xích đạo;

 Nhiệt độ bình quân năm từ 20 - 240 C: Nhiệt đới;

 Nhiệt độ bình quân năm từ 15 - 190 C: Cận nhiệt đới;

21

 Nhiệt độ bình quân năm dƣới 150 C: Cận nhiệt đới núi cao;

 Nhiệt độ bình quân tháng trên 250 C: Tháng rất nóng;

 Nhiệt độ bình quân tháng từ 20 - 240 C: Tháng nóng;

 Nhiệt độ bình quân tháng từ 15 - 190 C: Tháng lạnh;

 Nhiệt độ bình quân tháng dƣới 150 C: Tháng rét.

Yếu tố và chỉ tiêu tham gia phân chia Á miền lập địa: Thời gian mƣa

trong năm là yếu tố tham gia phân chia á miền lập địa. Quy định theo tháng nhƣ

sau:

 Mùa xuân: Các tháng III, IV;

 Mùa hè: Các tháng V- IX;

 Mùa thu: Các tháng X, XI;

 Mùa đông: Các tháng XII, I, II.

Và độ dài của mùa mƣa đƣợc xác định:

 Mùa mƣa ngắn: Dƣới 3 tháng;

 Mùa mƣa trung bình: Từ 3 đến 6 tháng;

 Mùa mƣa dài: Từ 7 đến 9 tháng;

 Mùa mƣa rất dài: Trên 9 tháng.

Yếu tố và chỉ tiêu khí hậu tham gia phân chia Vùng lập địa:

Vùng ẩm (Miền Bắc): Dựa vào trƣờng độ và cƣờng độ lạnh. Trƣờng độ lạnh

tính theo số tháng có nhiệt độ bình quân dƣới 200 C, cụ thể là:

 Mùa lạnh ngắn: 3 tháng liên tục có nhiệt độ bình quân tháng dƣới 200C;

 Mùa lạnh trung bình: 4 - 6 tháng liên tục có nhiệt độ bình quân tháng

dƣới 200C;

 Mùa lạnh dài: 7 - 9 tháng liên tục có nhiệt độ bình quân tháng dƣới 200C;

 Mùa lạnh rất dài: Trên 9 tháng liên tục có nhiệt độ bình quân tháng dƣới

22

200C.

Vùng khô hạn (Miền Nam) Dựa vào trƣờng độ và cƣờng độ khô hạn. Cƣờng

độ khô tính theo số tháng khô liên tục (tháng khô tính theo công thức Gaussen), cụ

thể:

 Mùa khô ngắn: Thời gian mùa khô dƣới 2 tháng

 Mùa khô trung bình: Thời gian mùa khô dƣới từ 3 - 4 tháng

 Mùa khô dài: Thời gian mùa khô dƣới từ 5 - 6 tháng

 Mùa khô rất dài: Thời gian mùa khô dƣới trên 7 tháng

Yếu tố và chỉ tiêu tham gia phân chia Tiểu vùng lập địa: Khí hậu đặc

trƣng cho tiểu vùng lập địa là kiểu vùng khí hậu. Kiểu khí hậu gồm 4 yếu tố:

 Nhiệt độ bình quân năm

 Nhiệt độ bình quân tháng lạnh nhất.

 Trƣờng độ khô (số tháng khô)

 Lƣợng mƣa bình quân năm: Đƣợc chia làm 5 cấp với tên gọi nhƣ sau:

 Mƣa rất nhiều: Lƣợng mƣa bình quân năm trên 2500mm

 Mƣa nhiều: Lƣợng mƣa bình quân năm từ 2000 đến 2500mm.

 Mƣa trung bình: Lƣợng mƣa bình quân năm từ 1500 đến 2000mm.

 Mƣa ít: Lƣợng mƣa bình quân năm từ 1000 đến 1500mm

 Mƣa rất ít: Lƣợng mƣa bình quân năm dƣới 1000mm

Mỗi kiểu khí hậu là sự đồng nhất của 4 yếu tố tạo thành kiểu khí hậu nêu trên.

Dựa vào sự phân chia này, đã xác định 146 kiểu khí hậu trên phạm vi toàn

quốc.

b2. Thành phần địa hình

Căn cứ vào thực tế ở Việt Nam, ngƣời ta chia làm 8 kiểu địa hình chính là:

 Địa hình núi (1) gồm có 3 kiểu phụ: Núi cao (> 1700m), núi trung bình

(700 - 1700m), núi thấp (300 - 700m)

23

 Sơn nguyên (2) gồm sơn nguyên cao (> 1500m), sơn nguyên trung bình

(1000 - 1500m), cao nguyên thấp (500 - 1000m).

 Cao nguyên (3) gồm cao nguyên cao (> 1500m), cao nguyên trung bình

(1000 - 1500m), cao nguyên thấp (500 - 1000m). Cao nguyên khác sơn

nguyên ở chỗ độ cao tƣơng đối của cao nguyên nhỏ hơn 25m, còn sơn

nguyên từ 25 – 100m.

 Đồi (4) gồm đồi cao (200 - 300m); đồi trung bình (100 - 200m), đồi thấp

(< 100m).

 Sụt võng, xâm thực bồi tụ giữa núi đồi (5) gồm thung lũng, bồn địa, lòng

chảo…

 Kiểu caster (6).

 Bán bình nguyên (7)

 Đồng bằng (8)

b3. Thành phần thổ nhưỡng/đất

Phân chia các tiểu vùng lập địa dựa trên các nhóm đất chính và đất phụ.

Nhóm đất phụ đƣợc xác định dựa trên nhóm đất chính và nhóm nền vật chất tạo

đất.

Nhóm nền vật chất tạo đất đƣợc phân chia:

 Mácma chua, mácma kiềm.

 Trầm tích và biến chất có kết cấu hạt mịn.

 Trầm chất và biến chất có kết cấu hạt thô.

 Đá vôi và biến chất đá vôi.

 Phù sa cổ, phù sa mới, hỗn hợp đá, xác hữu cơ thực vật.

 Phù sa biển, phù sa song biển

b4. Các thành phần khác/thảm thực bì rừng

24

Ngoài ba thành phần khí hậu, địa hình và thổ nhưỡng tham gia phân chia

trực tiếp các cấp và các cá thể trong cùng một cấp, ngoài ra còn sử dụng thành

phần thảm thực bì rừng mà cụ thể là kiểu rừng, để tham gia kiểm tra đối chiếu

các kết quả đã đƣợc phân chia vì chúng thƣờng thể hiện mối quan hệ giữa lập địa

và thực vật rừng đƣợc hình thành.

1.3.6.3. Phƣơng pháp đánh giá đất đai tổng hợp

Đánh giá sử dụng đất có hiệu quả nên dựa vào nhiều yếu tố nhƣ tiềm năng

đất đai; độ thích hợp của cây trồng và điều kiện kinh tế xã hội của từng vùng.

1). Tiềm năng của đơn vị đất đai (ĐVĐĐ)

Sẽ đƣợc xác định trên cơ sở tổng điểm của từng ĐVĐĐ dựa vào quy định

điểm số cho từng chỉ tiêu nhƣ đã nêu. Tiềm năng sản xuất của ĐVĐĐ đƣợc xác

định theo 3 hạng nhƣ sau:

 Hạng 1: Tiềm năng sản xuất cao: ĐVĐĐ có tổng điểm từ 21 điểm trở lên.

 Hạng 2: Tiềm năng sản xuất trung bình: ĐVĐĐ có tổng điểm từ 12 - 21

điểm;

 Hạng 3: Tiềm năng sản xuất thấp: ĐVĐĐ có tổng điểm dƣới 12 điểm.

2). Đánh giá độ thích hợp cây trồng

Đánh giá độ thích hợp cây trồng đƣợc đánh giá theo từng đơn vị đất đai dựa

trên các căn cứ sau: Tiềm năng sản xuất của đơn vị đất đai; Đặc tính sinh thái của

các loài cây trồng; Qui trình trồng các loài cây đã đƣợc ban hành; Kinh nghiệm,

kết quả và những tiến bộ kỹ thuật về trồng rừng.

Độ thích hợp cây trồng đƣợc đánh giá theo 4 cấp thích hợp đƣới đây: S1:

Thích hợp cao; S2: Thích hợp trung bình; S3: Thích hợp thấp; N: Không thích

hợp.

Đánh giá độ thích hợp cây trồng bằng phƣơng pháp so sánh dựa trên đặc

tính sinh thái của loài cây với điều kiện tự nhiên của đơn vị đất đai (ĐVĐĐ). Xác

định độ thích hợp cây trồng đƣợc tiến hành nhƣ sau:

25

 Xác định mức độ thích hợp của cây trồng dựa trên đặc tính sinh thái của

từng loài theo các tiêu chí và chỉ tiêu về điều kiện tự nhiên, các qui trình

trồng một số loài cây đã ban hành, kinh nghiệm, kết quả và những tiến bộ

kỹ thuật về trồng rừng.

 So sánh cấp thích hợp chuẩn của loài cây dự kiến trồng rừng với các tiêu

chí của ĐVĐĐ đã xác định ở khu vực đánh giá để xác định độ thích hợp

của các loài cây đó với ĐVĐĐ đang đánh giá. Trong quá trình so sánh, độ

thích hợp cây trồng đƣợc xác định dựa trên nguyên tắc yếu tố hạn chế là:

Nếu 1 trong 6 tiêu chí đánh giá ở mức không thích hợp (N) thì cây trồng

thuộc cấp không thích hợp (N);

Nếu 1 trong 2 tiêu chí độ dốc, độ dày tầng đất ở cấp thích hợp kém (S3) thì

cây trồng thuộc cấp thích hợp thấp (S3);

Nếu đa số (trên 50%) các tiêu chí đánh giá nằm ở cấp thích hợp nào cây

trồng thuộc cấp thích hợp đó.

3). Đánh giá điều kiện kinh tế - xã hội

Điều kiện kinh tế - xã hội đƣợc phân chia thành 3 khu vực là Khu vực I (khu

vực phát triển), Khu vực II (khu vực tạm ổn) và Khu vực III (khó khăn).

Lựa chọn cây trồng theo điều kiện kinh tế - xã hội. Việc quyết định lựa chọn

cây trồng trong một khu vực hoặc một dự án đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở đánh

giá độ thích hợp cây trồng và điều kiện kinh tế - xã hội. Các cơ cấu để đƣa ra cơ

cấu cây trồng gồm: .

 Kết quả đánh giá tiềm năng sản xuất của đất

 Kết quả đánh giá độ thích hợp cây trồng theo điều kiện tự nhiên

 Kết quả đánh giá điều kiện kinh tế - xã hội .

 Kết quả đánh giá nguyện vọng ngƣời dân

 Kết quả đánh giá mục tiêu phát triển lâm nghiệp của khu vực hoặc dự

án.

26

Chọn loài cây trồng phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội có ý nghĩa rất

quan trọng đến sự thành công của sản xuất lâm nghiệp. Tuỳ thuộc vào điều kiện

kinh tế - xã hội mà lựa chọn loài cây trồng cho phù hợp. Việc lựa chọn cây trồng

đề xuất nhƣ sau:

Với điều kiện kinh tế - xã hội thuộc mức 1 (Khu vực I) và mức 2 (Khu vực

II), chọn loại cây thích hợp ở cả 3 cấp gồm cấp thích hợp cao (S1), thích hợp trung

bình (S2) và thích hợp thấp (S3).

Với những nơi có điều kiện kinh tế - xã hội thuộc mức 3 (Khu vực III), chọn

loài cây thích hợp ở 2 cấp gồm cấp thích hợp cao (S1) và thích hợp trung bình

(S2).

4). Phương pháp đánh giá đất đai theo phân hạng đất đai

Phân hạng đất đai cũng là một phƣơng pháp đánh giá đất đai. Phƣơng pháp

này áp dụng phổ biến ở Liên xô và các nƣớc xã hội chủ nghĩa cũ và chủ yếu với

cây trồng nông nghiệp.

Bản chất của phương pháp: này là tìm mối quan hệ giữa đặc điểm, tính chất

đất đai với năng suất cây trồng để phân hạng đất thành các cấp khác nhau ứng với

các loài cây trồng khác nhau. Trên cơ sở phân hạng đất có thể dự đoán đƣợc năng

suất cây trồng.

Ví dụ: Phân hạng đất cây lâm nghiệp. Ở Việt Nam việc phân hạng đất trồng rừng

nhƣ Bồ đề, Thông nhựa, Thông ba lá, Luồng, Hồi, Quế, v.v.Phân hạng đất cho cây

lúa, cây trồng công nghiệp (Cà phê, cao su...) nhƣ đất hạng 1; hạng 2, hạng 3…..

Trong nông nghiệp: các yếu tố dùng để phân hạng thƣờng là các loại đất nhƣ

độ pH, hàm lƣợng hữu cơ, chất dễ tiêu N, P, K, v.v. Cách phân hạng thƣờng dựa

vào phƣơng pháp cho điểm theo thang 10 điểm hoặc 50, 100 điểm.

Trong lâm nghiệp các yếu tố dùng để phân hạng thƣờng là loại đất, độ pH,

chất hữu cơ (mùn) thành phần cơ giới, độ dày tầng đất, thực bì chỉ thị cho độ phì

đất hoặc mức độ thoái hoá đất.

27

Điều quan trọng đối với phân hạng đất đai là cần phải có tƣ liệu về năng suất

cây trồng/sản lƣợng rừng và tìm ra mối quan hệ của chúng với các tính chất đất đai

trong nhiều năm.

5). Phương pháp đánh giá đất theo phân chia cấp đất rừng trồng

Trong lâm nghiệp còn xây dựng biểu cấp đất cho một số rừng trồng nhƣ rừng

Bồ đề, Thông ba lá, Thông mã vĩ, v.v. Bản chất của cấp đất cũng thể hiện mối

quan hệ giữa các yếu tố lập địa với sinh trƣởng rừng trồng thông qua chỉ số chiều

cao của lâm phần (H bình quân, hoặc H cây trội: H ƣu thế) ứng với cấp tuổi nhất

định.

Dựa vào sự biến động chiều cao lâm phần hoặc chiều cao các cây trội ở các

cấp tuổi trong các điều kiện hoàn cảnh khác nhau mà phân chia thành các cấp đất

khác nhau. Thông thƣờng một biểu cấp đất gồm từ 5 tới 8 cấp.

Dựa vào biểu cấp đất ta có thể xác định một lâm phần nào đó ở một cấp tuổi

nhất định sẽ thuộc cấp đất nào trên cơ sở xác định các nhân tố về chiều cao của

lâm phần hoặc chiều cao cây trội (thƣờng đo 10% số cây lớn nhất lâm phần). Điều

đó phản ánh lâm phần xem xét sinh trƣởng trong điều kiện lập địa tốt hay xấu.

Vũ Đình Phƣơng đã xây dựng biểu cấp đất cho rừng trồng Bồ đề (Styrax

tonkinensis) dựa trên mối quan hệ Hvn với tuổi lâm phần (1972). Nguyễn Ngọc

Lung (1987) đã xây dựng biểu cấp đất cho rừng Thông ba lá ở Lâm Đồng với 5

cấp đất.

6). Nghiên cứu và áp dụng các phương pháp để đánh giá Đất lâm nghiệp

Đất lâm nghiệp có thể phân chia thành 4 nhóm đất khác nhau vì những đặc

trƣng rất khác biệt giữa các nhóm đất là nhóm đất vùng đồi núi, nhóm đất cát ven

biển và nhóm đất ngập mặn sú vẹt; nhóm đất chua phèn, v.v. Kết quả nghiên cứu

đã đƣợc xuất bản trong ấn phẩm “Đánh giá tiềm năng sản xuất đất lâm nghiệp ở

Việt Nam” (Đỗ Đình Sâm, Nguyễn Ngọc Bình chủ biên) do nhà xuất bản Nông

nghiệp xuất bản năm 2001. Trong tài liệu này chúng tôi chỉ đƣa ra một số tiêu chí

cơ bản để đánh giá đất vùng núi và vùng cát ven biển.

28

a. Đánh giá TNSX đất lâm nghiệp vùng đồi núi

Xác định các tiêu chí và chỉ tiêu đánh giá

Lựa chọn các tiêu thức đánh giá TNSX đất lâm nghiệp vùng đồi núi cần thoả

mãn 2 yêu cầu:

 Thứ nhất các tiêu chí phải phản ánh đựợc những đặc điểm chủ yếu của độ

phì đất liên quan đến việc đánh giá đất đai và sử dụng đất đai.

 Thứ hai các tiêu chí có thể thu thập, chẩn đoán trong phạm vi toàn quốc

để xử lý thông tin.

Dựa trên các tính chất và đặc điểm cơ bản độ phì đất vùng đồi núi đã trình

bày, lựa chọn 4 tiêu chí đánh giá TNSX đất lâm nghiệp vùng đồi núi là: độ dốc, độ

dày tầng đất, hàm lượng hữu cơ tầng mặt và thành phần cơ giới đất.

a.1). Độ dốc:

Có liên quan chặt chẽ đến độ phì đất, tới quá trình xói mòn, rửa trôi và các

phƣơng thức sử dụng đất, mức độ thuận lợi hay khó khăn trong sử dụng đất. Dựa

vào bản đồ địa hình chúng ta có thể dễ dàng xác định đƣợc độ dốc và phân làm 4

cấp:

 Cấp 1: Độ dốc dƣới 150;

 Cấp 2: Độ dốc từ 150 - 250;

 Cấp 3: Độ dốc từ 250 - 350;

 Cấp 4: Độ dốc trên 350;

a.2.). Độ dày tầng đất:

Là một trong những tiêu thức quan trọng xác định độ phì đất. Các bản đồ thổ

nhƣỡng đều đã xác định yếu tố này. Độ dày đƣợc chia làm 3 cấp:

 Cấp 1 và 2: Độ dày tầng đất trên 100 cm.

 Cấp 3: Độ dày tầng đất từ 50cm - 100cm.

 Cấp 4: Độ dày tầng đất dƣới 50cm.

29

a.3.). Hàm lượng hữu cơ (mùn) tầng mặt

Đây là yếu tố quan trọng phản ánh độ phì đất rừng. Hàm lƣợng hữu cơ đất

rừng biến đổi phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là: độ cao so với mặt biển, loại

đất, thực bì. Do vậy việc phân cấp hàm lƣợng hữu cơ không thể áp dụng thống

nhất cho các loại đất. Dựa vào các tƣ liệu đã thu thập, nghiên cứu trong nhiều

vùng, việc phân cấp hàm lƣợng chất hữu cơ cần phải khác nhau đối với 4 nhóm

đất hoặc loại đất có sự phân biệt rõ nét về hàm lƣợng chất hữu cơ. Đó là nhóm đất

mùn trên núi cao, đất mùn vàng đỏ trên núi, đất đỏ vàng trên mácma kiềm và trung

tính trên đá vôi, các loại đất feralit còn lại. Các loại và nhóm đất mùn trên núi cao,

mùn vàng đỏ trên núi, đất đỏ vàng trên mácma kiềm và trung tính tích luỹ hàm

lƣợng chất hữu cơ cao hơn so với các loại đất feralit khác.

Qua thực tế điều tra chúng tôi nhận thấy rằng, đất mùn vàng đỏ trên núi ở

những nơi không có rừng với đa số thực bì là cây bụi, cỏ thì hàm lƣợng chất hữu

cơ tầng mặt thƣờng đạt 3-4% hoặc cao hơn, nếu nhƣ lƣợng chất hữu cơ nhỏ hơn

3% thì đất đã bị thoái hoá. Trên đất nâu đỏ phát triển trên đá bazan ở các cao

nguyên miền Nam, lƣợng chất hữu cơ giảm tới 3% cũng là những đất bazan thoái

hoá. Trong khi đó hàm lƣợng chất hữu cơ đạt 3-5% ở các loại đất feralit đai thấp

thƣờng là dƣới rừng tự nhiên chƣa bị phá hoại hoặc là rừng thứ sinh, nhìn chung

đất còn khá tốt.

Dựa vào các kết quả đó chúng tôi phân cấp lƣợng chất hữu cơ tầng mặt theo 4 cấp

cụ thể nhƣ sau:

 Cấp 1: Rất giàu mùn; thƣờng là những nơi còn rừng nguyên sinh ít bị phá

hoại, trên các loại đất: Đất mùn vàng đỏ trên núi: 10%; Đất feralit trên

mácma kiềm và trung tính: 8%; Các loại đất khác: 5%;

 Cấp 2: Giàu mùn: Đất mùn vàng đỏ trên núi: 5-10%; Đất feralit trên

mácma kiềm và trung tính: 5-8%; Các loại đất khác: 3-5%.

 Cấp 3: Mùn trung bình: Đất mùn vàng đỏ trên núi: 3-5%; Đất feralit trên

mácma kiềm và trung tính: 3-5%; Các loại đất khác: 2-3%.

30

 Cấp 4: Nghèo mùn: Đất mùn vàng đỏ trên núi: < 3%; Đất feralit trên

mácma kiềm và trung tính: < 3%; Các loại đất khác: < 2%.

Tổng hợp tƣ liệu phân tích đã có về hàm lƣợng hữu cơ trên các loại đất, các

loại hình thực bì khác nhau trên các vùng kinh tế lâm nghiệp để phân cấp. Dựa vào

bản đồ đất (nhóm đất), thành phần cơ giới đất và loại hình thực bì (Rừng tự nhiên,

rừng trồng, đất trảng cỏ.. ) để suy diễn các cấp hữu cơ khác nhau khi đoán đọc trên

bản đồ.

a.4.). Thành phần cơ giới đất

Đây là yếu tố có quan hệ chặt chẽ với độ phì đất và có thể dựa vào bản đồ đất

để phân cấp, thành phần cơ giới đất đƣợc chia làm 3 cấp: đất cát, đất thịt và đất

sét, v.v. Phân cấp thành phần cơ giới nhƣ sau:

 Cấp 1: Đất thịt;

 Cấp 2: Đất sét;

 Cấp 3: Đất cát

Tổng hợp tiêu chí và kết quả đánh giá

Bốn yếu tố trên đựợc phân cấp, cho điểm và đánh giá riêng biệt từng yếu tố.

Điểm từng yếu tố đƣợc xác định tƣơng ứng với từng cấp.

 Điểm 1 tƣơng ƣng cấp 1,

 điểm 2 tƣơng ứng với cấp 2, v.v.

Tuy nhiên trên thực tiễn, ở trên một mảnh đất nhất định nào đó các yếu tố

trên thể hiện với các cấp khác nhau. Do vậy, cần phải tổng hợp đánh giá chung

tiềm năng sản xuất của đất khi 4 yếu tố cùng tác động với mức độ phân cấp khác

nhau.

Dựa vào phƣơng pháp cho điểm nhƣ trên, chúng tôi lấy trị số giữa tổ để phân

cấp: 1,5-2,5-3,5. Tiềm năng sản xuất đất lâm nghiệp đƣợc phân thành 4 cấp:

 Cấp I: Đất có ít yếu tố hạn chế trong sử dụng, độ phì tiềm tàng của đất

còn cao, điểm trung bình là 1,5.

31

 Cấp II: Đất có một số yếu tố hạn chế trong sử dụng, độ phì tiềm tàng của

đất còn khá, điểm trung bình là từ 1,51-2,5.

 Cấp III: Đất có một số yếu tố hạn chế đáng kể trong sử dụng, độ phì tiềm

tàng của đất trung bình, điểm trung bình là từ 2,51-3,5.

 Cấp IV: Đất có nhiều yếu tố hạn chế trong sử dụng, độ phì tiềm tàng của

đất thấp, điểm trung bình trên 3,5.

Trong quá trình đánh giá dựa vào 4 yếu tố, mặc dù không chọn yếu tố chủ

đạo nhƣng chúng tôi cũng quan tâm tới 2 yếu tố có ảnh hƣởng mạnh hơn đến độ

phì đất và tiềm tàng sử dụng đất đó là: Độ dày tầng đất và thành phần cơ giới của

đất. Nếu nhƣ ở một diện tích đất đồng thời xuất hiện cấp 4 của hai yếu tố này thì

phần đánh giá tổng hợp sẽ hạ đi 1 cấp.

7). Phương pháp đánh giá đất đai hai giai đoạn

Trong phƣơng pháp này giai đoạn đầu chủ yếu khảo sát đánh giá đất

đai về mặt điều kiện tự nhiên. Sau đó, đến giai đoạn hai điều tra khảo

sát, đánh giá và phân tích về mặt kinh tế xã hội. Thuận lợi của phƣơng

pháp này là khi nghiên cứu chỉ tập trung theo từng phần theo từng p

hƣơng pháp rõ ràng. Thời gian thực hiện cũng đƣợc uyển chuyển v à nhân

sự cũng dễ dàng tổ chức.

8 ) . Phương pháp đánh gia đất đai song song

Nghiên cứu điều tra khảo sát đ iều kiện tự nhiên và phân tích các yếu

tố về kinh tế xã hội cùng thực hiện một lúc. Thuận lợi của phƣơng pháp

này là có sự hợp tác đa ngành cùng thực hiện. Phƣơng pháp này thƣờng

đƣợc thực hiện cho các tỉ lệ chi tiết v à bán chi tiết.

Tuy nhiên hai phƣơng pháp này có thể kết hợp nhau tạo thành

một chuổi liên tiếp nhƣ kết quả khảo sát thăm dò hay sơ bộ thì có thể

áp dụng phƣơng pháp hai giai đoạn để làm tiền đề cho việc xây dựng tỉ

lệ bản đồ chi tiết và bán chi tiết bằng phƣơng pháp song song. Tuy

nhiên, trong th ực tế thì giữa hai phƣơng pháp này cũng chƣa đƣợc rõ

ràng vì trong ph ƣơng pháp hai giai đoạn, ở giai đoạn đầu chọn lọc kiểu

32

sử dụng đất đai cho đánh giá thích nghi thì cũng cần những thông tin từ l

ĩnhh vực kinh tế xã hội.

Hình 1.3 : Phƣơng pháp đánh giá hai giai đoạn đầu và phƣơng pháp song song cho

đánh giá đất theo FAO, 1976

33