CHƯƠNG 3: BẪY CHƯƠNG 3: BẪY
3.1 3.1 . Định nghĩa và các khái niệm.
3.2 H3.2 Hệ thống phân loại: gồm 4 loại chính
ệ thống phân loại: gồm 4 loại chính: :
---Bẫy kiến tạo ---Bẫy kiến tạo -Bẫy địa tầng -Bẫy địa tầng -Bẫy thuỷ động lực -Bẫy thuỷ động lực -Bẫy sự phối hợp của các loại trên -Bẫy sự phối hợp của các loại trên
3.1.ĐỊNH NGĨA VÀ KHÁI NiỆM: 3.1.ĐỊNH NGĨA VÀ KHÁI NiỆM:
•Bẫy là dạng hình thể dưới bề mặt của tầng đá chứa và đá mái hay dấu hiệu có tiềm năng tập trung dầu và khí trong các lỗ rỗng của tầng đá chứa
•Bẫy là một đặt trưng địa chất của tầng đá Bẫy là một đặt trưng địa chất của tầng đá chứa có thể giới hạn lưu lượng của chất lưu chứa có thể giới hạn lưu lượng của chất lưu
•Bẫy có thể bao gồm một hoặc nhiều tầng Bẫy có thể bao gồm một hoặc nhiều tầng chứa chứa
Ảnh minh họa các dạng bẫy Ảnh minh họa các dạng bẫy
• Điểm cao nhất của ảnh là crest hay
culmination.
• Điểm thấp nhất của bẫy là điểm tràn. Bẫy có
thể hoặc không thể đầy đến điểm tràn
• Mặt nằm ngang xiên qua spill point được gọi
là spill point
• Khoảng cách đứng từ điểm cao ở crest đến
điểm thấp ở spill point là closure.
• Tầng chứa có khả năng khai thác là pay • Khoảng cách theo chiều thẳng đứng của nó được gọi là gross pay. Gross pay có thể khác nhau từ chỉ một hoặc hai mét ở Texas đến vài trăm mét ở biển Bắc và Trung Đông
• Không phải tất cả gross pay của một tầng chứa
đều có khả năng khai thác.VD: Tầng đá phiến sét chứa trong một tầng chứa đóng góp cho gross pay nhưng không cho net pay
• Net bay duy nhất chỉ tầng chứa có thể khai thác
được
Danh pháp của một bẫy sử dụng một nếp lồi đơn giản như VD1 Hình 1 : : Danh pháp của một bẫy sử dụng một nếp lồi đơn giản như VD1 Hình 1
Hình 2: Sự thay đổi trên bề mặt của bẫy nếp lồi minh họa sự khác nhau giữa net pay va gross pay
• Bẫy có thể chứa cả dầu, khí hoặc cả hai. Nơi tiếp xúc giữa dầu và nước ( owc) là mức thấp nhất của dầu có thể khai thác được trong một tầng chứa riêng
• Nó đánh dấu bề mặt chung giữa đá bão hòa dầu ưu thế và đá bão hòa nước .Tương tự nơi tiếp xúc giữa nước và khí (GWC) hoặc nơi tiếp xúc giữa dầu và khí (GOC) là mức thấp hơn của khí có thể khai thác
• GWC hoặc GOC đánh dấu bề mặt chung giữa đá bão hòa khí ưu thế hoặc đá bão hòa nước hoặc đá bão hòa dầu
hinhin
Hình 3: Sự tiếp xúc chất lưu trong một tầng chứa ở một hệ thống dầu và nước (a), khí và nước (b), khí, dầu và nước(c)
Nguồn gốc hóa học của đá và mức độ trưởng thành
cũng như áp suất và nhiệt độ của chính tầng chứa, điều quan trọng trong việc xác định bẫy chứa dầu, khí hay cả hai.
Ở một số khu vực khai thác dầu (VD: khu vực Sarir ở Libya) , một thảm nhựa đường nặng là kết quả của sự tiếp xúc giữa dầu và nước. Sự giảm giá trị của dầu do sự di chuyển nước ở đáy bên dưới nơi tiếp xúc dầu- nước có thể gây ra sự hình thành lớp nhựa đường này. Thảm nhựa đường này gây ra nhiều vấn về sản xuất đáng kể bởi vì chúng ngăn nước di chuyển lên trên và thay thế dầu khai thác
• Ranh giới giữa dầu, khí và nước có thể rõ
ràng
• Gradational • Sự tiếp xúc chất lưu đột ngột thường biểu thị một tầng chứa thấm qua được. Sự tiếp xúc gradational thường biểu thị tầng chứa thấm và thấp với áp lực mao dẫn cao
Figure 4: Sự chuyển tiếp tự nhiên ở nơi tiếp xúc chất lưu trong tầng chắn đến tiếp xúc có ranh giới rõ(a), đến tiếp xúc gradationa l(b)
• Trực tiếp bên dưới của HC là tầng nước dưới đáy tầng nước edge, water liền kề tầng chứa
Figure 5: Danh pháp bên dưới tầng chứa
• Mặt tiếp xúc của các lưu chất trong đá chứa hầu như luôn là mặt phẳng nhưng không có nghĩa chúng luôn nằm ngang.
• Nếu một mặt tiếp xúc nghiêng của lưu chất lộ ra, sẽ sớm nhận ra bản chất cho sự đánh giá đúng trữ lượng, và cho sự chứng minh về tính khả thi sản xuất.
• Một trong những cách thông thường nhất mà
mặt tiếp xúc nghiêng của lưu chất có thể xảy ra là động lực chảy qua của lớp nước bên dưới (Hình 6, mặt nghiêng của lưu chất do động lực
chảy)
Hình 6, mặt nghiêng của lưu chất do động lực chảy)
• Có thể có một hoặc nhiều hồ chứa HC riêng lẻ, mỗi hồ với những mặt tiếp xúc chất lưu riêng, trong cùng một giới hạn địa lí của một khu vực dầu hoặc khí. Mỗi hồ chứa riêng biệt có thể chứa một hoặc nhiều pay
Figure 7: Hồ chứa phức tạp trong một khu vực dầu và khí
3.2.Hệ thống phân loại 3.2.Hệ thống phân loại
Cơ bản bẫy có thể chia làm 4 loại chính: Cơ bản bẫy có thể chia làm 4 loại chính:
-Bẫy kiến tạo -Bẫy địa tầng -Bẫy thuỷ động lực -Bẫy sự phối hợp của các loại trên
Loại bẫy Nguyên nhân
Cấu trúc bẫy
Bẫy uốn nếp:
nén ép chặt chẽ
Quá trình kiến tạo sự lắng tụ. Quá trình kiến tạo quá trình kiến tạo
Diapir Folds
Bẫy đứt gãy
Quá trình kiến tạo
Bẫy địa tầng
Hình thái tích tụ hoặc sự hóa đá
Bẫy thủy động lực
Sự lưu thông nước
Bẫy phối hợp
Phối hợp hai hoặc nhiều hơn các quá trình trên
SALT DOME
PINCH-OUT
SAND LENS
FAULT
SUB-SALT SEDIMENT TRUNCATION
UNCONFORMITY
GRADING
ANTICLINAL
BURIED REEF
Hình 8:
Bẫy hidrocacbon cơ bản Bẫy hidrocacbon cơ bản
3.2.1 Bẫy kiến tạo: 3.2.1 Bẫy kiến tạo:
• “Là bẫy mà ranh giới phía trên dạng lòng chảo nhìn từ bên dưới, do sự biến dạng địa phương như uốn nếp, đứt gãy hoặc cả hai của đá chứa ."
Bẫy uốn nếp Bẫy uốn nếp
• Bẫy nếp lồi do sự nén ép được tìm thấy
hầu hết ở khu vực địa máng hoặc gần đó.
Ví dụ về sự nén các tầng chắn gấp Ví dụ về sự nén các tầng chắn gấp
• 01-Mỏ dầu Wilmington ở bồn Los
Angeles ( Hình 9 , những mỏ dầu của bồn Los Angeles) là một tầng chắn nếp lồi khổng lồ với trữ lượng giới hạn có thể thu khoảng 3 tỉ thùng dầu.
Figure 9
• Nó dài khoảng 15 km và rộng gần 5 km.
Tổng thể hình dạng nếp lồi của vùng được lộ ra bởi kiến trúc bên trên cùng của pay zone chính. ( Hình 10, những đường viền kiến tạo trên đỉnh của vùng Ranger, vùng Wilmington, CA). Cần chú ý đến những đứt gãy cắt ngang.
Figure 10
• Mặt cắt từ hướng Tây Nam – Đông Bắc của vùng Wilmington, chúng ta có thể thấy vòm rộng của nếp lồi ( Hình 11, mặt cắt từ hướng Tây Nam – Đông Bắc A-Z, vùng Wilmington). Tầng chứa chính xảy ra bên dưới bất chỉnh hợp Pliocene giữa Miocene và cát biển sâu tuổi Pliocene.
Figure 11
02-Tầng chưa ở núi Zagros • Chân núi Zagros ở Iran chứa một trong những địa phận hydrocarbon nổi tiếng nhất được hình thành từ những nếp uốn lồi nén ép ( Hình 12, bản đồ địa phương, tây nam Iran and Persian Gulf).
Figure 12
• Nếp uốn lồi riêng dài đến 60 km và rộng từ
10-15 km.
• 16 trong số những nếp uốn lồi của vùng
thuộc nhóm khổng lồ với trữ lượng có thể thu được hơn 500 triệu thùng dầu hoặc 3,5 tỉ tỉ feet khối khí (Halbouty et al., 1970).
• Khối đá vôi Asmari (Oligocene-Miocene), là tầng chắn với những khe nứt trên phạm vi rộng, cung cấp tầng chắn chính có khả năng khai thác.
• Một vài giếng sâu riêng lẻ cung cấp đến 50
triệu thùng.
Hình 13 (Hướng chung của các nếp uốn qua
khu vực dầu Asmari là Tây Nam – Đông Bắc)
Figure 13
• Trong vùng vẫn còn nhiều biến dạng cấu trúc mãnh liệt, sự phát triển nếp lồi có thể được kết hợp với đứt gãy chồm. Đứt gãy chồm làm dầy thêm cột trầm tích khi đá già hơn chồm lên đá trẻ hơn tạo ra các khu vực lặp lại.
• Bẫy có thể hình thành ở nếp uốn lồi ở trên mặt phẳng chồm, và ở tầng chắn đóng kín bên dưới phần chồm.
•
• Ở Wyoming, vùng tầng chắn Painter là một nếp uốn lồi chặt chẽ, cân bằng ( Hình 14, đường viền cấu trúc ở đỉnh của khối đá cát Nugget, vùng tầng chắn Painter, Wyoming) bên dưới một mặt phẳng chồm mà chính mặt phẳng chồm đó bị kéo theo ranh giới Đông Nam của nó.
Nếp uốn lồi liên quan đến đứt gãy chồm Nếp uốn lồi liên quan đến đứt gãy chồm Vùng tầng chắn Painter 03-03- Vùng tầng chắn Painter
Figure 14
• Trong mặt cắt ngang, nếp uốn lồi bị đảo
lộn và đứt gãy chồm lên sườn Đông Nam của nó ( Hình 15, Mặt cắt Tây Bắc – Đông Nam xuyên qua vùng tầng chắn Painter). Nếp lồi hình thành bên dưới chuỗi những phần chồm xảy ra lần lượt bên dưới mặt bất chỉnh hợp chính.
Figure 15
Bẫy uốn nếp ( uốn nếp chặt ) Bẫy uốn nếp ( uốn nếp chặt )
• Nếp uốn chặt thường xảy ra ở nơi vỏ trái đất căng kết hợp với nứt nẻ gây ra sự hình thành bồn trầm tích. Nền hầu như nứt thành một hệ thống nền móng dạng địa lũy và địa hào. Vào giai đoạn đầu của sự lắng đọng lấp đầy dạng địa hình bất thường này.
• Sau đó nếp lồi có thể xảy ra ở lớp phủ trầm tích xếp thành lớp phủ lên trên khối cấu trúc địa lũy cao.
( Hình 16, nếp uốn lồi chặt ở trầm tích xếp lớp phủ
lên khối cấu trúc địa lũy cao bên dưới).
Figure 16
• Vào thời điểm lắng tụ, bề dày của khối trầm tích bị giảm lại phủ lên đỉnh của cấu trúc cao bên dưới.
• (Hình 17a , các giai đoạn phát triển của nếp lồi
chặt – giai đoạn đầu của sự lắng tụ).
• ( Hình 17b , các giai đoạn phát triển của nếp lồi
chặt – giai đoạn nén chặt).
• ( Hình 17c , các giai đoạn phát triển của nếp lồi chặt – kết thúc kiến trúc này được nâng cao bởi vận động lặp lại của đứt gãy).
Figure 17
Ví dụ về những bẫy nếp lồi chặt Ví dụ về những bẫy nếp lồi chặt
• Ở biển Bắc có một vài ví dụ điển hình của
những bẫy nếp lồi chặt nơi lớp đá cát biển sâu tuổi Paleocene xếp thành lớp phủ lên địa lũy cơ sở vững chắc. Bao gồm the Forties (Hill and Wood, 1980), Montrose (Fowler, 1975), and East Frigg fields (Heritier et al., 1980).
• Vùng Forties là một ví dụ của nếp lồi chặt ở
vùng phía Tây của biển Bắc. Cấu trúc khu vực là một mũi cắm theo phương Đông Nam tạo ra ranh giới Đông Bắc và Tây Nam bởi những đứt gãy.
(Hình 18, Đường viền cấu trúc ở đỉnh tầng chắn
Paleocene, vùng Forties, biển Bắc).
Figure 18
• Mặt cắt phương Bắc Nam mô tả nếp lồi phát triển ở địa tầng Paleocene nơi mà tầng chắn đá cát bị đóng kín bởi lớp sét đệ Tam phủ lên.
( Hình 19, Biểu đồ mặt cắt phương Bắc
Nam từ A-Z qua vùng Forties, biển Bắc).
Figure 19
Bẫy uốn nếp: Sự so sánh giữa các loại Bẫy uốn nếp: Sự so sánh giữa các loại chính chính
Có nhiều sự khác nhau giữa các bãi uốn nếp gây ra bởi sự nén ép, và một số khác được gây ra bởi There are many differences between the fold traps caused by compression, and those caused by sự kết chặt lại.
•
• Uốn nếp nén ép hình thành sau sự lắng đọng, cho nên lỗ hổng được tìm thấy trong chúng càng liên quan đến, những nguyên nhân lắng tụ nguyên thủy hơn là liên quan đến kiến tạo. Những uốn nếp cũng có thể chứa những lỗ hỏng đứt gãy giống như lúc chúng hóa đá trong khi bị biến dạng. Uốn nếp chặt, lỗ hổng tổ ong có thể đa dạng giữa đỉnh và sườn. Như nói trên, có thể có sự kiểm soát, sự lắng tụ nguyên thủy của chất lượng tầng chắn. Hơn nữa, lỗ hổng thứ sinh do sư thành tạo đá trầm tích cũng có thể phát triển trên đỉnh của nếp uốn nén chặt như vậy là dễ bị ngã trên bề mặt tiếp xúc và thẩm thấu
Bẫy uốn nếp: Sự so sánh giữa các loại Bẫy uốn nếp: Sự so sánh giữa các loại chính chính (tiếp theo) (tiếp theo) • Các nếp uốn nén ép thường được định hướng với trục dài của chúng vuông góc với trục của chỏm ngắn, trong khi các uốn nếp nén ép thường định dạng bất thường do hình dạng đặc trưng cơ bản.
• Nếp gấp uốn nếp thường được hình thành từ một sự kiện kiến tạo lớn, trong khi các nếp gấp nén ép có thể có một lịch sử phức tạp do sự trẻ hóa của nền móng bên dưới những đứt gãy.
Nếp uốn nén ép Diapir Nếp uốn nén ép Diapir
• Diapirs là một cơ chế chính để tạo ra
nhiều loại bẫy. Diapirs được thành tạo bởi các chuyển động trở lên của trầm tích ít dày đặc, thường là muối hoặc đất sét bị nén ép chặt.
• Lớp sét và cát có lắng động nhanh có mật độ ít hơn muối trong đó có một mật độ khoảng 2,16 g/cm3 .
Nếp uốn nén ép Diapir (tiếp theo) Nếp uốn nén ép Diapir (tiếp theo)
• Vì hầu hết các trầm tích được chôn vùi, chúng nhỏ gọn, mật độ lớn; cuối cùng, độ sâu đạt đến nơi trầm tích là dày đặc hơn so với độ dày của muối. Điều này thường xảy ra giữa 800 và 1200 mét. Khi trạng thái này đã đạt được, muối có xu hướng chảy qua để thay thế các vật chất dày đặc hơn. Nếu hoạt động này là do kiến tạo, kết quả kiến tạo có thể hiển thị một số liên kết, chẳng hạn như hiển thị bởi các vòm muối ở Biển Bắc (Hình 20, muối cấu trúc của miền Nam Bắc Hải). Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, sự di chuyển của muối là rõ ràng bắt Associated đầu một cách ngẫu nhiên.
Hình 20
• Sự di chuyển của muối mỏ phát triển một số hình dạng cấu trúc từ gối muối sâu, tạo ra nếp uốn trong lớp trầm tích nằm trên, vòm muối xuyên thủng xuyên qua các tầng lớp vỉa nằm trên(Hình 21, sơ đồ cắt ngang cho thấy hai cấu trúc muối; một cái gối muối bên phải và vòm muối xuyên thủng bên trái) (Bishop, 1978). Trong trường hợp đặc biệt muối mỏ dạng đá vòm thực sự có thể thâm nhập vào bề mặt như ở Iran (Kent, 1979)
Hình 21
• Có rất nhiều cách, trong đó dầu có thể bị mắc kẹt bên trên hoặc liền kề với vòm muối (Halbouty, 1972) (Hình 22, sơ đồ cắt ngang cho thấy các dạng bẫy dầu khí kết hợp với vòm muối xuyên thủng).
•
Hình 22
• Có thể có cấu trúc nếp lồi đơn giản hoặc vòm bẫy dầu trên đỉnh của vòm muối. Ví dụ tiêu biểu của loại này bao gồm khu vực Ekofisk (Van der Bark và Thomas, 1980), và khu vực liên quan của ngoài nước Na Uy và Đan Mạch. Có thể có phức hệ vòm bẫy đứt gãy, địa tầng vát mỏng và bẫy không chỉnh hợp hoặc sự phân vỉa không chỉnh hợp. Đôi khi cấu trúc nếp lồi được gọi là cấu trúc mặt lồi phát triển giữa các vòm muối liền kề. Khi lớp muối di chuyển vào trong một vòm, các lớp muối nơi phát sinh di chuyển từ hai bên sườn của nó, từ đó phát triển vành nếp lõm. Như vậy, nếp lồi phát triển trên các muối mỏ còn lại (Hình 23), Vùng Bryan của Mississippi là một ví dụ của một cấu trúc mặt lồi(Oxley và Herling, 1972).
(nếp lồi) phát mặt lồi(nếp lồi) phát
Sơ đồ mặt cắt ngang cho thấy một cấu trúc mặt lồi Sơ đồ mặt cắt ngang cho thấy một cấu trúc hai bên sườn của
bên sườn của vòm muối
triển giữagiữa hai triển
mỏ xuyên thủng. vòm muối mỏ xuyên thủng.
Hình 23
BẪY ĐỨT GẪY BẪY ĐỨT GẪY
• Trong nhiều trường hợp, đứt gãy đóng một vai trò thiết yếu
trong bẫy dầu. Quan trọng là đứt gẫy hoạt động chắn ngang sự di chuyển chất lỏng, do đó cung cấp đá chắn cho bẫy. Vấn đề là một số nơi co phay đá chắn, trong khi những nơi khác thì không. Nhìn chung, các phay đứt đoạn có xu hướng đóng kín trong các loại đá dẻo nhiều hơn trong các loại đá giòn. Đứt gãy hình thành trong quá trình tạo thành đá cát và đá phiến sét có xu hướng đóng kín, đặc biệt ở nơi có cự ly vượt quá độ dày tầng chứa. Sét bên trong bề mặt đứt gãy có thể hoạt động như đá chắn, chỉ khi hai lớp cát thấm thấu bên dưới đều bị đứt gãy ngược lại với nhau - như được ghi chép từ các khu vực trầm tích bị nén ép mạnh như vùng Niger Delta và vịnh Mexico (Weber và Daukoru, 1975; và Smith, 1980). Bờ biển vùng vịnh là nơi có tầng cát đút đoạn đối nghịch với nhau, xác suất đứt gãy là một đứt gãy kín tăng lên cùng với sự khác biệt tuổi của hai lớp cát (Smith, 1980).
Hình 24 (Sơ đồ Hình 24 (Sơ đồ vùng mặt cắt của vùng mặt cắt của biểu diễn Nigeria, biểu diễn Nigeria, bẫy và mô hình có có bẫy và mô hình tích tụ ) cho thể tích tụ ) cho thể trường hợp thấy trường hợp thấy phức tạp ở đứt gãy phức tạp ở đứt gãy Delta, trong , trong Niger Delta Niger đứt gãy đó một số đứt gãy đó một số trong khi những kín kín trong khi những đường khác là đường nơinơi khác là dẫndẫn nước dưới áp nước dưới áp lực thủy tĩnh.. . lực thủy tĩnh.
Hình 24
• Trong khu vực Gaiselberg của Áo đứt gãy
Steinberg theo hướng đông bắc - tây nam cung cấp những cái bẫy dầu cho khu vực này (hình 25, đường nét cấu trúc bên trên tầng 18 Sarmatian của khu vực Gaiselberg).
• Đứt gãy này bị sụt lún về phía đông nam với
trầm tích flysch (dạng nhịp) kỷ Đệ Tam biến đổi không thấm nước có sự dịch chuyển khối và trầm tích trẻ hơn kỷ Đệ Tam không biến đổi có sự sụt lún khối. Đó là những bồn trầm tích trẻ có chứa một bãi dầu với một mũ khí nhỏ (hình 26, Tây-Tây Bắc-Đông-Đông Nam mặt cắt ngang A- Z qua vùng Gaiselberg).
Hình25
Hình 26
Một nhóm đặc biệt quan trọng của bẫy tìm thấy
liên kết với sự phát triển của đứt gãy.
• Đứt gãy thành tạo chủ yếu trong trầm tích khi tích tụ nhanh chóng, đặc biệt là ở các đồng bằng châu thổ.Hình 27, (Biểu đồ minh hoạ cho thấy bốn giai đoạn trong sự phát triển của đứt gãy) minh họa các giai đoạn phát triển của đứt gãy điển hình như trình bày của Bruce (1973).
• Trong mặt cắt đầu tiên, lắng đọng nhanh chóng phát
triển từng bước theo mức độ tăng dần của một trầm tích chứa nhiều cát diễn ra trên một lớp sét dưới nước sâu không được vững chắc (Hình 27a, trầm tích sét nhanh chóng phát triển từng bước theo mức độ tăng dần ban).
• Điều này dẫn đến sự oằn xuống của lớp sét nén chặt bên dưới lớp cát nặng hơn (Hình 27b, sự oằn xuống dưới lưc nén ép).
• Trong mặt cắt tiếp theo, tiếp tục quá trìng tích tụ của cát tạo ra một đứt gãy tăng trưởng với một độ dày của lớp trầm tích được mở rộng trong sự sụt lún khối. Đứt gãy này vẫn còn hoạt động miễn là các trục lắng đọng được duy trì ở cùng một vị trí (Hình 27c, sự phát sinh của đưt gãy tăng trưởng).
• Mặt cắt cuối cùng cho thấy đứt gãy phát triển hình thành với sự sụt lún đảo ngược mặt nghiêng vào trong đứt gãy kèm theo đứt gãy đối lập(Hình 27d,đứt gãy tăng trưởng) Hình 28 (Sơ đồ mặt cắt ngang của một đứt gãy tăng trưỡng) minh họa các đảo ngược sự sụt lún đặc trưng của độ dốc khu vực như nhúng lớp chuyển động trượt khối bên trong mặt đứt gãy .
Hình 27
Hình 28
Tại tỉnh phía nam của bang Louisiana trầm tích Tại tỉnh phía nam của bang Louisiana trầm tích
châu thổ, các đứt gãy châu thổ, các
phát triển cung cấp các bẫy đứt gãy phát triển cung cấp các bẫy dầu và khí đốt đáng kể. dầu và khí đốt đáng kể. • Một ví dụ về đứt gãy tăng trưởng liên quan sản xuất là vùng Vermilion Block 76, ngoài khơi Louisiana. Sản phẩm khí ngưng tụ được tìm thấy chia ra thuộc kỷ Plioxen và Miocen – lớp cát trong độ tuổi khác nhau, ở độ sâu từ 3000 feet đến 9000 feet và bị mắc kẹt trong một nếp lồi đảo ngược hướng dốc đặc trưng hình thành một đứt gãy lớn. Hình 29 (Cấu trúc đường nét trên lớp cát 10 Pliocen, vùng Vermilion Block 76, ngoài khơi Louisiana) là một bản đồ cấu trúc của lớp cát sản xuất , minh họa sự sụt lún phát triển nếp lồi.
Hình 29
• Một mặt cắt ngang theo hướng Bắc-Nam của vùng cho thấy cấu trúc nếp lồi sụt lún cũng như sự sụt lún mở rộng của cột trầm tích (Hình 30), mặt cắt ngang theo hướng Bắc-Nam của vùng Vermillion 76 Block, ngoài khơi bang Louisiana).
Hình 30: Bắc-Nam qua phần của trường Vermillion 76 Hình 30: Bắc-Nam qua phần của trường Vermillion 76 Block, ngoài khơi bang Louisiana). Block, ngoài khơi bang Louisiana).
3.2.2 Stratigraphic trap 3.2.2 Stratigraphic trap
Phân loại các bẫy dầu khí địa tầng Phân loại các bẫy dầu khí địa tầng
• Bẫy địa tầng
Hình học bẫy địa tầng là do sự biến đổi trong thạch học. Những biến đổi được kiểm soát bởi các trầm tích nguyên thủy của địa tầng, như trong trường hợp của bar(sự tích tụ cát), kênh rãnh hoặc ám tiêu san hô. Ngoài ra, sự thay đổi có thể là vỉa cát kết tích tụ như trường hợp của bẫy không chỉnh hợp, hoặc nó có thể là do sự thay đổi trong quá trình tạo đá.
• Đánh giá trên khái niệm về bẫy địa tầng là của
Dott và Reynolds (1969) và Rittenhouse (1972). Các nguồn dữ liệu cụ thể về bẫy địa tầng có thể được tìm thấy trong King (1972), Busch (1974), và Conybeare (1976).
BẪY ĐỊA TẦNG BẪY ĐỊA TẦNG • Levorsen (1967) định nghĩa một cái bẫy địa tầng là "yếu tố chính hình thành bẫy là sự thay đổi của địa tầng, hoặc thạch học, hoặc cả hai, của đá chứa, như một sự thay đổi tướng, biến đổi cục bộ độ rỗng và độ thấm, hoặc sự chấm dứt cấu trúc trên của đá chứa, không phân biệt nguyên nhân. “
• Bẫy địa tầng xác định vị trí khó khăn hơn so với cấu trúc bởi vì họ không phải là dễ dàng biểu lộ bởi cuộc điều tra phản ánh địa chấn. Ngoài ra, các quá trình làm phát sinh chúng thường phức tạp hơn nguyên nhân tạo bẫy cấu trúc.
• Sự phân loại rộng rãi của các loại bẫy địa tầng có thể được thực hiện. Tuy nhiên, sự phân loại bẫy có giới hạn của nó bởi vì nhiều mỏ dầu và khí được chuyển tiếp giữa các tính chất rõ ràng.
Hình 31
bẫy dầu khí địa tầng dựa trên các đề án được Phân loại các bẫy dầu khí địa tầng dựa trên các đề án được Phân loại các đề xuất bởi Rittenhouse (1972), cho thấy một sự khác biệt lớn đề xuất bởi Rittenhouse (1972), cho thấy một sự khác biệt lớn có thể được thực hiện giữa bẫy địa tầng xảy ra trong các trình có thể được thực hiện giữa bẫy địa tầng xảy ra trong các trình tự thông thường phù hợp tự thông thường phù hợp
Sơ đồ của bẫy trong chuỗi chỉnh hợp thông thường và sự Sơ đồ của bẫy trong chuỗi chỉnh hợp thông thường và sự liên quan của chúng đến bất chỉnh hợp liên quan của chúng đến bất chỉnh hợp
HìnhHình 32:
sơ đồ của bẫy liên quan đến bất chỉnh hợp). 32: sơ đồ của bẫy liên quan đến bất chỉnh hợp).
Sự khác biệt này khá arbitrary vì có một số loại như kênh, có Sự khác biệt này khá arbitrary vì có một số loại như kênh, có thể bắt gặp ở tại hoặc xa bất chỉnh hợp thể bắt gặp ở tại hoặc xa bất chỉnh hợp
( Hình 33: sơ đồ của hai bẫy kênh).
Bẫy trầm tích: kênh Bẫy trầm tích: kênh
• Nhiều dầu và khí được giữ lại trong các loại kênh khác nhau, dãy này từ trầm tích của các sông uốn khúc qua các nhánh của đồng bằng châu thổ ra kênh ở biển
• Nhiều ví dụ điển hình của bẫy địa taangftrong các kênh có thể được tìm thấy trong kỷ kreta lưu vực dọc theo sườn đông của núi Rocky, từ Arberta, qua Montana, Wyoming, Colorado và New Mexico.Những kênh này xuất hiện cả ở chỉnh hợp trước Kreta và địa tầng trong Kreta
• Khu vực dầu phía Nam Glenrock trong Wyoming chứa dầu bị giữ lại cả trong bể chắn và kênh sông . Các bể chứa kênh một số có chiều rộng 1500m và có bề dày tối đa khoảng 15m ( Hình 34, bản đồ đường đẳng dày của Muddy interva hạ, khu vực dầu phía nam Glenrock, Wyoming). Nó đã được giữ lại với khoảng cách trên 15km và có thể thấy rõ uốn khúc( bẻ cong).
Hình 34, bản đồ đường cong của Muddy interva hạ
Mặt cắt ngang của khu vực cho thấy kênh đó chỉ là Mặt cắt ngang của khu vực cho thấy kênh đó chỉ là một phần đầy cát và một phần là do đất sét cắm. một phần đầy cát và một phần là do đất sét cắm. Các đường cong về một vài giếng khoan (điển hình Các đường cong về một vài giếng khoan (điển hình như giếng số 5 và giếng số 6 của hình 35) biểu hiện như giếng số 5 và giếng số 6 của hình 35) biểu hiện hướng lên trên doi lưỡi liềm,một đặt trưng của trầm hướng lên trên doi lưỡi liềm,một đặt trưng của trầm tích kênh uốn khúc. tích kênh uốn khúc. Khu vực phía Nam Glenrock là một điểm quan trọng Khu vực phía Nam Glenrock là một điểm quan trọng về kênh bẫy đại tầng. Do mức độ chứa trên bề mặt về kênh bẫy đại tầng. Do mức độ chứa trên bề mặt của chúng hạn chế và độ dày, các hồ chứa như vậy ít của chúng hạn chế và độ dày, các hồ chứa như vậy ít khi có tích lũy lớn. khi có tích lũy lớn.
Hình 35, Tây Bắc mặt cắt ngang từ A-Z của hai dòng kênh hạ Muddy
Bẫy trầm tích: Bars Bẫy trầm tích: Bars
• Do của kết cấu cũng như sắp xếp sạch sẽ, các rào chắn biển
thường tạo nên các tầng chứa tốt (Hollenshead và Pritchard, 1961) • Các rào cát cản có thể kết lại để tạo thành một dạng lớp phủ. Dầu sau đó có thể được cấu thành hoặc bị mắc kẹt bên trong những tấm chăn cát. Tuy nhiên, đôi khi, trong các đá phiến sét hoặc hồ nhỏ các rào chắn bị cô lập hoàn toàn, tạo thành những bẫy địa tầng trong cát eo hẹp kéo dài song song với bờ biển Paleo (Hình 36)
Figure 36
Figure 36, Sơ đồ các Figure 36,
Sơ đồ các lớplớp chắn, hiển thị
lớp chắn liên kết tạo thành hồ chắn, hiển thị lớp chắn liên kết tạo thành hồ
và một ẻ bar thiết bị cô lập chắn và một ẻ bar thiết bị cô lập chắn
• Núi đá của kỷ Phấn Trắng chứa nhiều bar bẫy rào cản địa tầng. Vùng Bisti trong lưu vực San Juan, New Mexico là một phần của bãi cát chắn (Sabins, 1963, 1972). Khu vực này dài khoảng 65km và rộng 7km(Hình 37)
• Nó bao gồm ba đê cát xếp chồng lên nhau, với độ dày khoảng 15m, hoàn toàn kín trong đá phiến sét Mancos biển (hình 38), một số giếng khoan cho thấy sự đi lên. SP xâm nhập vào một số giếng khoan cho thấy sự đi lên mạnh mẽ của các hạt có kích thước thô điển hình trong đó đặc trưng cho các bar chắn.
Figure 37
Figure 37,Bản đồ Figure 37
,Bản đồ sa thạch
sa thạch đường cong
đường cong của
của khu vực
khu vực BistiBisti,, Colorado
Colorado
Hình 38
Mặt cắt ngang electric logs Bắc Nam AA--Z của Mặt cắt ngang electric logs Bắc Nam
Z của khu vực
khu vực BistiBisti
Trong một giai đoạn thoái lui, các bar chắn thường phát triển như vỉa cát , có thể vượt qua updip thành đá phiến sét lagoonal hoặc bãi triều gây pinch-out hoặc lông cạnh bẫy (Selley 1982). Cũng như nhiều tờ hồ chứa, phương đóng cửa phải xảy ra vì những cái bẫy để được hợp lệ. Đây có thể là địa tầng, là ví dụ, nơi xảy ra trong embayment một bờ biển. Ngoài ra, nó có thể được cấu trúc, trong trường hợp này có thể là cái bẫy xác hơn phân loại như là một cái bẫy kết hợp (Selley, 1982) During a regressive stage, barrier bars often develop as sheet sands, which may pass updip into lagoonal or intertidal shales causing pinch-out or feather-edge traps (Selley 1982). As with many sheet reservoirs, lateral closure must occur for the trap to be valid. This may be stratigraphic, as for example, where an embayment occurs in a shoreline. Alternatively, it may be structural, in which case the trap might be more properly classified as a combination trap (Selley, 1982).
Bay tram tich: san hoDepositional Traps: Bay tram tich: san hoDepositional Traps: Reefs Reefs • Các rạn san hô hoặc xây dựng bẫy cacbonat-up có một khuôn khổ
cứng nhắc Stoney có chứa cao độ xốp chính (Maxwell, 1968; Jones và Endean, 1973). Rạn san hô phát triển như các tính năng hàng rào riêng biệt domal hoặc kéo dài, và từ lâu đã được công nhận là một trong những loại quan trọng nhất của bẫy địa tầng. Rạn san hô thường sau đó lấn bởi đá phiến sét giàu hữu cơ tồn biển (có thể hoạt động như đá nguồn) hoặc các rạn san hô có thể được bao phủ bởi evaporites. Dầu hoặc khí có thể bị mắc kẹt stratigraphically trong rạn san hô, với đá phiến sét hoặc evaporites cung cấp con dấu tuyệt vời The reef or carbonate build-up trap has a rigid stoney framework containing high primary porosity (Maxwell, 1968; Jones and Endean, 1973). Reefs grow as discrete domal or elongated barrier features, and have long been recognized as one of the most important types of stratigraphic traps.
• Reefs are often later transgressed by organic-rich marine shales (which
may act as source rocks) or the reefs may be covered by evaporites. Oil or gas may be trapped stratigraphically within the reef, with the shales or evaporites providing excellent seals.
• Trong Alberta, Canada, kỷ Devon-tuổi Rainbow rạn san hô trong lưu vực sông Black Creek cung cấp một ví dụ tuyệt vời của bẫy đá ngầm (Barss et al, 1970.). Hơn bảy mươi rạn san hô, cá nhân, có chứa một lượng khác nhau của dầu và khí đốt, được phát hiện trong một khu vực khoảng 50 km dài và 35 km rộng. Tổng trữ lượng của các rạn san hô được ước tính vượt quá 1,5 tỷ thùng dầu tại chỗ và một nghìn tỷ feet khối khí đốt. Như được thể hiện trong hình 39 (đồ mặt cắt ngang qua Trung rạn kỷ Devon, diện tích Rainbow, Alberta, Canada), hai dạng cơ bản hình học của reefing có mặt: các rạn san hô đỉnh cao và hình thức rộng hơn hình elip của các rạn san hô In Alberta, Canada, the Devonian-age Rainbow reefs in the Black Creek Basin provide an excellent example of reef traps (Barss et al., 1970). More than seventy individual reefs, containing various amounts of oil and gas, were discovered within an area about 50 kilometers long and 35 kilometers wide. Total reserves of these reefs are estimated in excess of 1.5 billion barrels of oil in place and one trillion cubic feet of gas.
• As shown in Figure 39 (Schematic cross-section through Middle Devonian
reefs, Rainbow area, Alberta, Canada), two basic geometric forms of reefing are present: the pinnacle reef and the broader elliptical form of the atoll reef.
•
•
•
• Các rạn san hô, cá nhân được lên đến 15 cây số vuông trong khu vực và lên đến 250 mét, cao trong cứu trợ. Vào cuối reefal tăng trưởng, các trầm tích evaporit infilled lưu vực. Các evaporites hoàn toàn bao phủ các rạn san hô, từ đó cung cấp một con dấu tuyệt vời cho các bẫy dầu khí. Có một loạt các mạng lưới chi trả hàng tại các rạn san hô Rainbow (Hình 39). Một số rạn san hô gần như toàn bộ dầu khí, trong khi những người khác có chứa một cột rất nhỏ của dầu hoặc khí ở đỉnh rất của rạn san hô. Porosities và permeabilities cũng khác nhau rất nhiều từ các rạn san hô để rạn san hô cũng như trong các rạn san hô, cá nhân. thay đổi như vậy là do các biến thể trong lithofacies và các hiệu ứng diagenetic, và là các tính năng tiêu biểu của bẫy reefal (Hình 40, cắt ngang đỉnh cao của rạn san hô hiện lithofacies phức tạp, diện tích Rainbow, Alberta, Canada). Có rất nhiều rạn san hô tỉnh hydrocarbon khác trên thế giới, đặc biệt là ở vùng Vịnh Ả Rập và Libya. Trong Libya, các rạn san hô Intisar trong lưu vực Sirte đã được các tài liệu The individual reefs are up to 15 square kilometers in area and up to 250 meters high in relief. At the end of reefal growth, evaporite sediments infilled the basin. The evaporites completely covered the reefs, thereby providing an excellent seal for hydrocarbon entrapment. There is a wide range of net pays found in the Rainbow reefs ( Fig. 39). Some reefs are nearly full of oil and gas, while others contain a very small column of oil or gas at the very crest of the reef. Porosities and permeabilities also differ greatly from reef to reef as well as within individual reefs. Such changes are due to variations in lithofacies and diagenetic effects, and are typical features of reefal traps (Fig. 40, Cross-section of pinnacle reef showing complex lithofacies,Rainbow area, Alberta, Canada). There are many other reef hydrocarbon provinces around the world, notably in the Arabian Gulf and Libya. In Libya, the Intisar reefs in the Sirte basin have been well documented
Figure 39
Figure 39, Sơ đồ cắt ngang qua Trung rạn kỷ Devon, diện tích Figure 39, Sơ đồ cắt ngang qua Trung rạn kỷ Devon, diện tích Rainbow, Alberta, Canada Schematic cross-section through Schematic cross-section through Rainbow, Alberta, Canada Middle Devonian reefs, Rainbow area, Alberta, Canada Middle Devonian reefs, Rainbow area, Alberta, Canada
Figure 40
Fig. 40, , Mặt cắt của rạn san hô cho thấy đỉnh cao lithofacies phức tạp, diện tích Rainbow, Mặt cắt của rạn san hô cho thấy đỉnh cao lithofacies phức tạp, diện tích Rainbow, Fig. 40 Cross-section of pinnacle reef showing complex lithofacies,Rainbow Alberta, Canada Cross-section of pinnacle reef showing complex lithofacies,Rainbow Alberta, Canada area, Alberta, Canada area, Alberta, Canada
Diagnenetic Traps Diagnenetic Traps
• Diagenetic bẫy được hình thành bởi việc tạo ra độ xốp trung học ở một tảng đá không chứa bởi thay thế, giải pháp hoặc bẻ gãy với đá chặt chẽ không thay đổi gì hình thành nên con dấu cho cái bẫy (Rittenhouse, 1972). Một ví dụ về một cái bẫy diagenetic hình thành bởi thay thế là sông sâu trường ở Michigan, trong đó dolomitization của một tiền gửi đá vôi từ trước đã dẫn đến sự hình thành độ xốp intercrystalline phụ (Hình 41 Diagenetic traps are formed by the creation of secondary porosity in a non-reservoir rock by replacement, solution or fracturing with the tight unaltered rock forming the seal for the trap (Rittenhouse, 1972).
• An example of a diagenetic trap formed by replacement is the Deep
River field in Michigan, in which dolomitization of a preexisting limestone deposit has resulted in the formation of secondary intercrystalline porosity (Fig. 41).
Figure 41
Sự phát triển của độ xốp giải pháp thường được kết hợp với đá cacbonat (Hình 42), Sự phát triển của độ xốp giải pháp thường được kết hợp với đá cacbonat (Hình 42), The development of solution porosity is commonly nhưng có thể bao gồm đá cát và The development of solution porosity is commonly nhưng có thể bao gồm đá cát và ), but may involve sandstones as well Figure 42), but may involve sandstones as well associated with carbonate rocks (Figure 42 associated with carbonate rocks (
Figure 42
• Bẻ gãy có thể gây ra độ xốp trung học ở bất kỳ đá giòn - dù
•
cacbonat, đá sa thạch, đá phiến sét, lửa hay đá biến chất (Kostura và Ravenscroft, 1977). Xu hướng Spraberry ở phía tây Texas hình thức một loạt các bẫy diagenetic (với trữ lượng dầu khoảng một tỷ thùng) trong vòng một fairway sản xuất khoảng 240 km dài và 80 km rộng (Wilkinson 1953). Một bản đồ cấu trúc viền trên hình Spraberry sản xuất, một phần 300-mét-dày của Trung chặt kỷ Permi đá phiến sét, siltstones, đá vôi, và đá cát hạt mịn cho thấy trong lưu vực trung du miền Nam, các lĩnh vực sản xuất dầu có mối quan hệ ít để cơ cấu (Hình 43). Sản xuất đến từ các khu vực bị nứt trong sự hình thành Spraberry nếu không chặt chẽ Fracturing can cause secondary porosity in any brittle rock — whether carbonate, sandstone, shale, igneous or metamorphic rock (Kostura and Ravenscroft, 1977). The Spraberry trend in west Texas forms a series of diagenetic traps (with oil reserves of about one billion barrels) within a producing fairway about 240 kilometers long and 80 kilometers wide (Wilkinson 1953). A structure map contoured on the productive Spraberry formation, a 300- meter-thick section of tight Middle Permian shales, siltstones, limestones, and fine-grained sandstones shows that in the southern Midland basin, the areas of oil production have little relationship to structure (Figure 43). Production comes from areas of fracturing throughout the otherwise tight Spraberry formation.
Figure 43
Không chỉnh hợp liên quan Không chỉnh hợp liên quan đến bẫy Unconformity-Related Traps đến bẫy Unconformity-Related Traps
• Các trầm tích và diagenetic bẫy địa tầng chỉ được coi là xảy ra trong các trình tự thông thường comformable, mặc dù họ cũng có thể xảy ra tại unconformities. Một nhóm lớn các bẫy địa tầng được thể hiện bằng những cái bẫy mà không chỉnh hợp một là điều cần thiết (Hình 44) (Levorsen, 1934) The depositional and diagenetic stratigraphic traps just considered occur in normal comformable sequences, although they may also occur at unconformities.
• Another major group of stratigraphic traps is represented by traps for which an unconformity is essential (Fig. 44) (Levorsen, 1934).
Figure 44
• Significantly large percentages of the known global petroleum reserves are trapped adjacent to major unconformities. In addition to being held in pure stratigraphic traps, many of these reserves are held in structural and combination traps as well. Unconformity- related traps can be subdivided into those which occur above the unconformity and those beneath (Figure 45, Schematic of traps located above and below an unconformity).
• Above an unconformity: Shallow-marine or fluvial
sands may onlap a planar unconformity. A stratigraphic trap can occur where such sands are overlain by shales and are underlain by impermeable rock which provides a seat seal. Onlapping updip pinch-out sands such as these could occur as sheets (Fig.46, Schematic of onlapping pinch-out sands- occurring as a sheet deposit)
Schematic of traps located above and below an Figure 45, , Schematic of traps located above and below an Figure 45 unconformity unconformity
Figure 46, , Schematic of onlapping pinch-out sands- Schematic of onlapping pinch-out sands- Figure 46 occurring as a sheet deposit occurring as a sheet deposit
• Schematic of onlapping pinch-out sands- occurring as a sheet deposit) , or as discrete paleogeomorphic traps (Figure 47, Schematic of onlapping pinch-out sands-occurring as a discrete paleogeomorphic sand).
• One type of paleogeomorphic trap is
represented by channels which cut into the unconformity; another occurs where sands are restricted within strike valleys cut into alternating hard and soft strata ( Figure 4 , Schematic of channel and strike valley sands above an unconformity)
• It is important to note that closure is necessary along the strike of such traps, not just updip as shown in Figure 46 .
• In Figure 48 (Schematic of sandstone pinch-out intersecting with a structural nose), closure is provided by the intersection of a sandstone pinch-out with a structural nose.
Figure 48
• The second group of traps associated with
unconformities is truncation traps which occur beneath the unconformities (Figure 49, Schematic of traps below unconformity). • Again, it is generally overlying shales which
provide a seal (and often the source as well) for such traps. As with onlap, pinch-out, and paleogeomorphic traps, closure is needed in both directions along the strike ( Figure 50, Schematic of trap below unconformity, featuring closure provided by the intersection of a dipping structural nose and a flat unconformity).
Figure 49 Figure
Schematic of traps below unconformity 49 Schematic of traps below unconformity
Figure 50
• This may be structural or stratigraphic but for many truncation traps, it may be provided by the irregular topography of the unconformity itself, such as a buried hill providing closure for a subcropping sandstone formation (Figure 51, Schematic of trap below unconformity, featuring closure provided by buried hill).
• Many truncation traps have had their reservoir quality
enhanced by secondary solution porosity due to weathering. Secondary solution porosity induced by weathering is most common in limestones, but also occurs in sandstones and even basement rock. Examples in limestones are found in Kansas, and in the Auk field of the North Sea
• One of the best known truncation traps in the world is the East Texas field which contained over 5 billion barrels of recoverable oil. The trap is caused by the truncation of the Cretaceous Woodbine sand by the overlying impermeable Austin chalk ( Figure 52, Generalized west-east cross- section, East Texas basin). It has a length of some 60-70 kilometers and a width of nearly ten kilometers
Figure 51
Figure 52
3.2.3 Hydrodynamic Traps 3.2.3 Hydrodynamic Traps
• In a hydrodynamic trap, a downward movement of water prevents the upward movement of oil or gas. Pure hydrodynamic traps are extremely rare, but a number of traps result from the combination of hydrodynamic forces and structure or stratigraphy.
• An ideal hydrodynamic trap is shown in
Figure 53 (Schematic cross-section of an ideal hydrodynamic trap).
Figure 53
• A monoclinal flexure is developed which has no genuine vertical closure; oil could not be trapped within it in a normal situation. Groundwater, however, is moving down through a permeable bed and is preventing the upward escape of oil. Oil is trapped in the monoclinal flexure above a tilted oil-water contact. Pure hydrodynamic traps like this, however, are very rare.
• There are a number of fields with tilted oil-water contacts where entrapment is a combination of both structure and hydrodynamic forces (Figure 54, Schematic cross-section showing entrapment from both structural and hydrodynamic forces).
Figure 54
3.2.4 Combination Traps 3.2.4 Combination Traps
• Combination traps result from two or more of the
basic trapping mechanisms ( structural, stratigraphic, and hydrodynamic ). Since there are many ways in which combination traps can occur, a few examples must suffice for explanation.
• In the Main Pass Block 35 field of offshore
Louisiana, a rollover anticline has developed to the south of a major growth fault (Hartman, 1972) ( Figure 55, Structural contours on top of 'G2' sandstone, Main Pass Block 35, offshore Louisiana).
Figure 55
Structural contours on top of 'G2' sandstone, Figure 55, Structural contours on top of 'G2' sandstone, Figure 55, Main Pass Block 35, offshore Louisian Main Pass Block 35, offshore Louisian
• The rollover anticline, however, is crosscut by a
channel. Oil with a gas cap occurs only within the channel; thus, the trap is due to a combination of structure and stratigraphy.
• An excellent example of a combination trap is
provided by the Prudhoe Bay field on the North Slope of Alaska (Morgridge and Smith, 1972; Jones and Speers, 1976; Jamison et al., 1980; Bushnell, 1981). A series of Carboniferous- through-basal-Cretaceous strata were folded into a westerly-plunging anticlinal nose (Figure 56, Structural contours on top of Sadlerochit reservoir, Prudhoe Bay, Alaska).
Structural contours on top of Sadlerochit Figure 56, , Structural contours on top of Sadlerochit Figure 56 reservoir, Prudhoe Bay, Alaska reservoir, Prudhoe Bay, Alaska
• This nose was truncated progressively from the northeast, and overlain by Cretaceous shales which acted as source and seal to the trap. Oil and gas were trapped in reservoir beds subcropping the unconformity, primarily in the Triassic Sadlerochit sandstone. Major faulting on the northern and southwestern side of the structure provided additional closure.
• Fault-unconformity combination traps characterize
the northern North Sea. Jurassic sandstone reservoirs exist in numerous tilted fault blocks which were truncated and overlain by Cretaceous shales. The resulting traps include such fields as Brent, Ninian, and Piper. A cross section through one of these, the Piper field, is shown in Figure 57 Southwest-northeast structural cross-section, Piper field, North Sea).
Figure 57 Southwest-northeast structural cross-section, Southwest-northeast structural cross-section, Figure 57 Piper field, North Sea Piper field, North Sea