Mở đầu
I. Giới thiệu
1. Điều kiện tự nhiên tỉnh Sóc Trăng
Tỉnh Sóc Trăng nằm về phía Đông Nam vùng Đồng bằng sông Cửu Long, cách thành
phố Cần Thơ 60 km, tọa độ địa từ 90 14’ 28’’ đến 90 55’ 30’’ độ Bắc; 1050 34’
16’’ đến 1060 17’ 50’’ kinh độ Đông.
- Phía Tây Bắc giáp tỉnh Hậu Giang
- Phía Đông Bắc giáp tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh
- Phía Tây Nam giáp tỉnh Bạc Liêu
- Phía Đông Nam giáp Biển Đông
(Nguồn: https://thevesta.vn/ban-do-tinh-soc-trang-moi-nhat-1644850263/., 2022)
Hình 1. Bản đồ hành chính tỉnh Sóc Trăng
Tỉnh vị trí, vai trò quan trọng về phát triển kinh tế, giao lưu thương mại quốc
phòng- an ninh cửa mở chính ra biển ể hội nhập, giao thương trong nước quốc tế
của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, hành lang kinh tế ven biển kết nối thành phố
Cần Thơ nhiều tỉnh Tây Nam Bộ ra biển. Sự phát triển của Sóc Trăng tác động
lan tỏa lớn đến phát triển kinh tế biển vùng Nam sông Hậu thuộc Đồng bằng sông
Cửu Long.
2. Đặc điểm địa hình địa mạo
Sóc Trăng có địa hình tương đối thấp bằng phẳng, địa hình bao gồm phần đất bằng
xen kẽ những vùng trũng các giồng cát. Toàn bộ tỉnh Sóc Trăng nằm phía Nam
của vùng cửa sông Hậu, cao độ địa hình thay đổi trong khoảng 0,2 - 2 m so với mực
nước biển, vùng nội đồng cao độ trung bình từ 0,5 - 1,0 m, độ dốc bình quân 15
cm/km. Địa hình của tỉnh dạng hình lòng chảo thoải, hướng dốc chính từ sông Hậu
thấp dần vào phía trong, từ biển Đông kênh Quản lộ thấp dần vào đất liền với
những giồng đất ven sông, biển.
Tỉnh Sóc Trăng nhìn chung có địa hình trũng thấp bao gồm 3 dạng:
- Đồng bằng tích tụ ven sông: chiếm phần lớn diện tích tỉnh Sóc Trăng, độ cao địa hình
phổ biến trong khoảng 0,5 - 1,5m.
- Đồng bằng tích tụ ven biển: chiếm phần nhỏ diện tích từ Lịch Hội Thượng đến Vĩnh
Châu, độ cao địa hình phổ biến trong khoảng 0,5 - 2,0m.
- Các giồng cát cổ: phân bố thành từng dải hình cánh cung kéo dài theo hướng song
song bờ biển, độ cao địa hình phổ biến trong khoảng 1,5 - 2,0m.
3. Đặc điểm khí hậu, gió
Khí hậu tỉnh Sóc Trăng mang đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo và chia
làm hai mùa rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng V đến tháng XI. Mùa khô bắt đầu từ
tháng XII đến tháng IV năm sau.
- Nhiệt độ: trung bình năm 26,8oC. Nhiệt độ cao nhất trong năm vào tháng IV (31,0oC)
và nhiệt độ thấp nhất vào tháng I (23,0oC).
- Nắng: tổng lượng bức xạ trung bình trong năm tương đối cao, đạt 140 - 150
kcal/cm2. Tổng số giờ nắng bình quân trong năm 2.399,6 giờ (khoảng 6,57 giờ/ngày),
cao nhất thường vào tháng III 282,3 giờ, thấp nhất thường vào tháng IX 141,5
giờ.
- Mưa: lượng mưa trung bình hàng năm 1.859,1 mm, chênh lệch lớn theo mùa, mùa
mưa chiếm 90% tổng lượng mưa, mùa khô rất ít, có tháng không mưa.
- Độ ẩm: độ ẩm tương đối trung bình cả năm 83 - 84% (cao nhất 88 - 89% vào mùa
mưa, thấp nhất 75 % vào mùa khô).
- Gió: nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, tỉnh Sóc Trăng các hướng gió
chính như sau: Tây, Tây Nam, Đông Bắc, Đông Nam và gió được chia làm hai mùa
rệt là gió mùa Đông Bắc gió mùa Tây Nam. Mùa mưa chịu ảnh hưởng của gió mùa
Tây Nam chủ yếu; còn mùa khô chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc chủ yếu
với tốc độ gió trung bình là 1,50m/s. Tốc độ gió cao nhất không quá 2,2 m/s (th ng II),
nên không ảnh hưởng ến qu trình sản xuất nông nghiệp trong tỉnh.
- Các yếu tố khác: tỉnh Sóc Trăng nằm trong khu vực ít gặp bão. Theo tài liệu về khí
tượng thủy văn ghi nhận, trong 100 năm qua chỉ 2 cơn bão đổ bộ vào Sóc Trăng
(năm 1952, 1997) gây thiệt hại rất lớn.
4. Đặc điểm thủy văn, hải văn
4.1 Hệ thống sông ngòi, kênh rạch
Mạng lưới dòng chảy sông ngòi, kênh rạch nguồn cấp nước chủ yếu cho các hoạt
động phát triển kinh tế cũng như nước sinh hoạt cho tỉnh Sóc Trăng, đồng thời là tuyến
đường sông ra biển của tỉnh.
- Sông Hậu chảy phía Bắc tỉnh con sông chính cung cấp nguồn nước ngọt phù
sa bồi đắp cho đồng ruộng. Hệ thống sông Hậu chi phối mạnh đến chế độ thủy văn của
tỉnh.
- Sông Mỹ Thanh chảy ở phía Đông Nam tỉnh, chảy qua thị xã Vĩnh Châu, huyện Trần
Đề và huyện Mỹ Xuyên chủ yếu tiêu nước vào mùa mưa đồng thời dẫn mặn xâm nhập
đồng ruộng trong mùa khô.
- Các sông nội đồng dòng chảy trên địa bàn tỉnh mật độ cao (0,47 km/km2),
phân bố dàn trải trong địa phận tỉnh với tổng chiều dài 1.554 km, thuận lợi cho phát
triển giao thông vận tải và cung cấp lượng phù sa lớn cho tỉnh
- Hệ thống các cửa sông: 3 cửa sông lớn (cửa Trần Đề, cửa Định An - sông Hậu,
cửa Mỹ Thanh - sông Mỹ Thanh), mỗi năm lượng phù sa đổ ra biển rất lớn, bồi ắp các
bãi bồi ven biển, tạo điều kiện thuận lợi, môi trường sinh thái cho các loài thủy sản đặc
thù trú, sinh sôi phát triển nhanh cây rừng ngập mặn. Đây còn lợi thế để phát
triển kinh tế biển tổng hợp, bao gồm nuôi trồng thủy hải sản, nông -m nghiệp biển,
công nghiệp hướng biển, cảng cá , xuất nhập khẩu, du lịch và vận tải biển.
- Hệ thống kênh đào: Quản Lộ - Phụng Hiệp, Ba Rinh - Liêm, Cái Côn, Rạch Vọp,
Tiếp Nhật... làm nhiệm vụ dẫn ngọt, rửa phèn, mặn.
4.2 Đặc điểm thủy văn và hải văn
Chế độ thủy văn của các sông ngòi kênh rạch Sóc Trăng bị chi phối bởi 3 yếu tố
chính là: thủy triều biển Đông, mưa nội vùng, dòng chảy sông Hậu và sông Mỹ Thanh,
được phân hóa khtheo mùa với đặc điểm: chế độ thủy triều 2 lần/ngày, biên độ dao
động trung bình 0,4 - 1,0 m, về mùa mưa một phần các huyện Mỹ Tú, Thạnh Trị bị
úng ngập; mùa khô các huyện ven biển, ven cửa sông Hậu bị nhiễm mặn, triều cường.
4.2.1 Thủy triều biển Đông
Thủy triều biển Đông thuộc dạng n nhật triều không đều, với đặc iểm chính: đỉnh
triều cao, chân triều thấp, mức nước bình quân thiên về chân triều. Biên độ triều tại
Đại Ngãi: tháng X là: 1,89 m, tháng XI: 1,84 m, tăng dần lên 1,98 m vào tháng I; 2,07
m vào tháng II; 2,18 m vào tháng III, chân triều thấp nhất vào tháng VI (- 103 cm), cao
nhất vào tháng XI (- 24 cm). Hầu hết dòng chảy trên các kênh rạch dòng chảy 2
chiều trong phần lớn thời gian trong năm, tạo thuận lợi cho tiêu tự chảy trên hầu hết
diện tích tưới tự chảy khu vực phía Đông Bắc của tỉnh (thuộc dự án Kế Sách).
Nhưng cũng do tác ộng của triều biển Đông, vào mùa khô các kênh rạch nằm hạ
lưu các cống ngăn mặn đều bị xâm nhập mặn.
4.2.2 Chế độ thủy văn sông Hậu và sông Mỹ Thanh
Sông Hậu rộng từ 1.000 - 1.500 m, riêng đoạn chảy qua tỉnh Sóc Trăng dài khoảng 60
km, độ u ( đoạn nhánh chảy qua cửa Trần Đề) khoảng 8 - 10 m. Từ tháng VII đến
tháng XI, dòng chảy sông Hậu chịu tác động mạnh của chế độ dòng chảy thượng
nguồn. Từ cuối tháng XI đầu tháng XII đến tháng V, lưu lượng thượng nguồn giảm,
thủy triều biển Đông tác ộng mạnh mẽ trên toàn bộ hệ thống kênh rạch của tỉnh. Mực
nước đỉnh triều xuống thấp nhất vào tháng IV, trung bình khoảng 100 cm; mực nước
chân triều xuống thấp nhất vào cuối tháng IV đầu tháng V cao trình khoảng - 80
cm so với mực nước biển.
Sông Mỹ Thanh nằm trọn trong địa phận tỉnh Sóc Trăng; tuy ngắn nhưng khá rộng,
chiều rộng trung bình khoảng 200 m, đoạn cửa sông khoảng 240 - 300 m, chiều sâu
trung bình từ 11,5 - 14,0 m. Chế độ thủy văn sông Mỹ Thanh chịu ảnh hưởng trực tiếp
của chế độ thủy triều biển Đông, nước sông Hậu đổ về chế độ mưa nội vùng; sông
chỉ nước ngọt o mùa mưa, bị m nhập mặn trong suốt mùa khô, chức năng
như trục tiêu cho canh tác vào mùa mưa dẫn mặn cho nuôi trồng thủy sản o
mùa khô.
4.2.3 Chế độ mưa nội vùng
Chế mưa có tác động rất lớn đến dòng chảy của kênh rạch nội vùng, nhưng ảnh
hưởng không lớn đến dòng chảy của sông chính. Các trận mưa đầu mùa tác dụng
tốt cho việc tiêu độc trong đồng ruộng cũng có nghĩa gây ô nhiễm cho mạng lưới
kênh rạch; mưa lớn tập trung trong thời kỳ giữa cuối mùa mưa, cùng với mực
nước trên sông Hậu dâng cao, gây ngập úng cho các khu vực thấp trũng
Nét nổi bật trong đặc iểm thủy văn Sóc Trăng ít bị ngập lũ, mức ngập úng cũng
không sâu, ảnh hưởng của thủy triều khá mạnh, những thuận lợi rất bản cho tăng
vụ, đa dạng hóa cơ cấu kinh tế nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng và các điểm dân
cư nông thôn. Tuy nhiên, có 2 hạn chế lớn cần đặc biệt lưu ý là:
Vào những năm lũ lớn kết hợp với triều cường, thường gây ngập cho vùng cù lao. Cần
chú trọng úng mức để nâng cấp hệ thống đê bao cho vùng này.
khoảng 60.000 ha bị ngập úng với độ sâu từ 0,6 -1,0 m thuộc vùng Quản Lộ -
Phụng Hiệp, gây hạn chế đến khả năng tăng vụ đa dạng hóa cây trồng khu vực
này.
II. Các nguồn tài nguyên tỉnh Sóc Trăng
1. Tài nguyên đất
Theo kết quả iều tra bổ sung, chỉnh xây dựng bản đồ ất tỷ lệ 1/50.000 tỉnh Sóc
Trăng do Phân viện Quy hoạch Thiết kế Nông nghiệp miền Nam xây dựng năm
2004 cho thấy: Toàn tỉnh có 5 nhóm đất, với 14 đơn vị phân loại
Kết quả điều tra đất của Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Sóc Trăng., 2019 cho thấy
toàn tỉnh có 5 nhóm đất, nhưng chỉ còn 13 đơn vị phân loại.
Bảng 1. Các nhóm đất chính của tỉnh Sóc Trăng
Do đặc điểm hình thành đất với vị trí địa ven biển Đông, trên địa bàn tỉnh Sóc
Trăng các loại đất mặn và đất phèn chiếm quy mô lớn nhất: 51,36% diện tích tự nhiên;
các loại đất cát có quy mô nhỏ (chiếm 2,66% diện tích tự nhiên). Cơ cấu trên cho thấy,
sự phân bố tương đối tập trung của các loại “ đất có vấn đề” trên địa bàn tỉnh.
Xem xét quy phân bố các nhóm đất chính trên địa bàn các huyện, thành phố của
tỉnh Sóc Trăng,thể nhận thấy đặc điểm phân bố đất liên quan chặt chẽ đến quy luật
hình thành đất ảnh hưởng của vị trí địa đến từng khu vực, đối với sự hình thành
và phát triển các nhóm đất:
1.1 Nhóm đất cát (tên FAO-UNESCO: Arenosols)
Đất cát giồng phân bố thành dải giồng chạy dọc ven biển thuộc địa phận thị Vĩnh
Châu, huyện Trần Đề một phần nhỏ các huyện Mỹ Xuyên, Mỹ Tú, TP. Sóc
Trăng. Loại đất này đã có quá trình khai thác khá lâu đời so với các loại đất khác trên
địa bàn tỉnh.