
Bài giảng Kinh tế học lao động – 2015 (dành cho sinh viên bậc đại học)
1
Đặng Đình Thắng
Giảng viên Khoa Kinh tế, Đại học Kinh tế TP.HCM
Phòng H.103, 1A Hoàng Diệu, Phú Nhuận, TP.HCM, Việt Nam
E-mail : thang.dang@ueh.edu.vn
Trang nhà : www.thangdang.org
Nội dung bài giảng
1 Mô hình tân-cổ điển về quyết định làm việc nhàn rỗi và đường cung
lao động cá nhân
1.1 Thông tin cần có để một cá nhân ra quyết định lựa chọn giữa
làm việc và nhàn rỗi
1.2 Mục tiêu của người ra quyết định làm việc-nhàn rỗi: Tối đa hóa
độ thỏa dụng
1.3 Sự thay đổi mức lương và đường cung lao động cá nhân
1.4 Độ co giãn và sự thay đổi của cung lao động cá nhân
2 Mở rộng mô hình và ứng dụng
1.5 Những cá nhân không đi làm và mức lương giới hạn
1.6 Ngày làm việc chuẩn
Thuật ngữ
Tài liệu tham khảo
LÝ THUYẾT CUNG
LAO ĐỘNG CÁ NHÂN
2

Bài giảng Kinh tế học lao động – 2015 (dành cho sinh viên bậc đại học)
2
1 Mô hình tân-cổ điển về quyết định làm việc
nhàn rỗi và đường cung lao động cá nhân
1.1 Thông tin cần có để một cá nhân ra quyết định lựa chọn
giữa làm việc và nhàn rỗi
Giả sử một người – với một trình độ giáo dục và kinh nghiệm lao động
nhất định, có một “quỹ” thời gian giới hạn – phải quyết định cách thức
phân bổ thời gian giữa công việc (hoạt động trên thị trường lao động, được
trả lương) với nhàn rỗi (hoạt động phi thị trường lao động).1
Có 2 tập hợp thông tin cần thiết để một cá nhân ra quyết định lựa chọn
phương án tối ưu giữa làm việc và nhàn rỗi: Thứ nhất, thông tin chủ quan
của người ra quyết định dưới góc độ tâm lý như sự ưa thích hơn
(preferences) giữa làm việc và nghỉ ngơi. Thông tin này được thể hiện qua
đường bàng quan (the indifference curve). Thứ hai, thông tin khách quan
về thị trường lao động được phản ánh qua giới hạn ngân sách (the budget
constraint).
Đường bàng quan
Khái niệm: Đường (cong) bàng quan là tập hợp các kết hợp khác nhau giữa
thu nhập thực tế (the real income) và thời gian nhàn rỗi (leisure time) mà
một cá nhân có nhằm tạo ra cùng một mức độ thỏa dụng nhất định cho cá
nhân đó.
Hình dưới đây sẽ giúp minh họa một đường bàng quan. Trên hình, ta thấy
thu nhập hàng ngày được đo lường trên trục đứng và số giờ cho hoạt động
nhàn rỗi được mình họa trên trục ngang theo chiều từ trái qua phải. Vì
một ngày có 24 giờ dành cho công việc và nhàn rỗi nên từ thông số giờ
dành cho hoạt động nhàn rỗi, chúng ta có thể dễ dàng suy ra được số giờ
mà một cá nhân dành cho thị trường lao động. Trên hình, số giờ dành cho
thị trường lao động cũng nằm trên trục ngang nhưng tính theo chiều từ
1 Thuật ngữ “nhàn rỗi” (leisure) ở đây cần được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các loại

Bài giảng Kinh tế học lao động – 2015 (dành cho sinh viên bậc đại học)
3
phải qua trái. Theo khái niệm của đường bàng quan thì mỗi kết hợp giữa
thu nhập và nhàn rỗi là một điểm nằm trên I1 và có cùng tạo ra một mức
thỏa dụng như nhau cho một cá nhân.
Một đường bàng quan thường có các đặc điểm nổi bật như sau:
• Thứ nhất: Đường bàng quan dốc xuống (negative slope). Độ dốc của
đường bàng quan (the slope of the indifference curve) được đo lường
bởi tỷ lệ thay thế biên của nhàn rỗi cho thu nhập (the marginal rate
of substitution of leisure for income).
Số giờ nhàn rỗi (một ngày)
Số giờ làm việc (một ngày)
Thu nhập (một ngày)
I1
a
b
c
d
0
2
10
4
6
14
8
12
16
18
20
22
24
Nguồn: McConnell, Brue, và Macpherson (2010)
0
22
24
20
18
16
14
12
10
8
6
4
2

Bài giảng Kinh tế học lao động – 2015 (dành cho sinh viên bậc đại học)
4
Ký hiệu: MRSL,Y là phần thu nhập có được từ làm việc mà một
người phải từ bỏ để có thể sử dụng thêm được một đơn vị (giờ) nghỉ
ngơi.
• Thứ hai: Đường bàng quan lồi về phía gốc tọa độ (convex to origin).
• Thứ ba: bản đồ các đường bàng quan (indifference map)
• Thứ tư: sự ưa thích hơn giữa làm việc-nghỉ ngơi khác nhau giữa các
cá nhân (different work-leisure preferences). Do đó, các cá nhân khác
nhau có thể sẽ có các đường bàng quan khác nhau với sự khác biệt
về độ dốc.
Số giờ nhàn rỗi (một ngày)
Thu nhập (một ngày)
y1
y2
y3
l3
l2
l1
I3
I2
I1
450

Bài giảng Kinh tế học lao động – 2015 (dành cho sinh viên bậc đại học)
5
Giới hạn ngân sách
Mỗi cá nhân tối đa hóa độ thỏa dung của mình bằng cách đạt được các kết
hợp giữa tiêu dùng và nhàn rỗi nằm trên đường bàng quan cao nhất mà
người đó có thể. Tuy nhiên, sự lựa chọn đường bàng quan của mỗi cá nhân
bị giới hạn. Cụ thể hơn, mỗi cá nhân bị giới hạn bởi tổng số thu nhập bằng
tiền sẵn sàng cho tiêu dùng (thu nhập thực).
Chúng ta giả định rằng tất cả thu nhập thực mà một người có được đều do
đi làm mà ra, tức là tiền lương mà họ nhận được khi tham gia cung ứng
sức lao động. Hay nói một cách khác, người đó không có thu nhập ngoài
lao động, không có các khoản tiết kiệm có thể rút ra và không có trường
vay mượn tài chính ở đây. Do đó, mỗi người sẽ có một đường giới hạn ngân
sách cho riêng mình với mức lương nhận được trên thị trường.2
Đường giới hạn ngân sách (the budget constraint line) là tập hợp tất cả các
kết hợp giữa thu nhập (hàng hóa) và thời gian nhàn rỗi mà một người lao
động có thể đạt được, với điều kiện mức lương không thay đổi.
2 Cần lưu ý rằng mức lương mà người lao động nhận được là mức lương thị trường – mức lương do
thị trường quyết định, người lao động không thể làm thay đổi mức lương bằng cách điều chỉnh số
giờ lao động cung ứng.
I1
I2
I3
I3
I2
I1