Bài giảng Môn Bệnh lý học thú y: Chương 1 - Khái niệm cơ bản
lượt xem 25
download
Bài giảng Môn Bệnh lý học thú y: Chương 1 - Khái niệm cơ bản bao gồm những nội dung về khái niệm bệnh; khái niệm về nguyên nhân bệnh; sinh bệnh học (vai trò của nguyên nhân bệnh, quan hệ giữa cục bộ và toàn thân trong quá trình sinh bệnh, vòng xoắn bệnh lý, các giai đoạn phát triển của bệnh, cơ chế phục hồi sức khoẻ).
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài giảng Môn Bệnh lý học thú y: Chương 1 - Khái niệm cơ bản
- Môn bệnh lý học thú y (Chuyên ngành Chăn nuôi Thú y) 1. Tên môn học: Bệnh lý học thú y Veterinary Pathology 2. Số đơn vị học trình: 4 3. Giáo viên phụ trách: TS. Nguyễn Hữu Nam. 4. Mục tiêu của môn học: Mục tiêu của môn học nhằm trang bị cho học viên những nguyên lý chung nhất, phương pháp suy luận tổng hợp và khả năng vận dụng những hiểu biết đã được học trong phần kiến thức cơ bản, cơ sở… để giải thích tại sao và do đâu mà có những triệu chứng ở cơ thể bệnh, nhằm cung cấp các thông tin cơ sở cho việc chăm sóc lâm sàng và điều trị bệnh.
- Các chương Các khái niệm cơ bản Rối loạn tuần hoàn cục bộ Rối loạn chuyển hoá các chất Viêm Sốt Bệnh lý học hệ hô hấp Bệnh lý học hệ tiêu hoá Bệnh lý học chuyên khoa + Bệnh chung giữa người và động vật + Bệnh lợn + Bệnh gia cầm
- CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM CƠ BẢN Trong quá trình phát triển của khoa học nói chung, y học và thú y học nói riêng bao giờ cũng hình thành một số khái niệm cơ bản. Đây là những vấn đề lớn, khái quát hoá các mối quan hệ giữa các hiện tượng bệnh lý, các quy luật đúc kết từ thấp đến cao. Những khái niệm cơ bản bao gồm khái niệm về bệnh, về yếu tố bệnh nguyên, về cơ chế sinh bệnh, quá trình lành bệnh, tử vong và bệnh lý miễn dịch. Nắm vững các khái niệm cơ bản có vai trò quan trọng việc chẩn đoán và điều trị bệnh.
- I.KHÁI NIỆM VỀ BỆNH Người thày thuốc muốn chữa bệnh có hiệu quả thì phải hiểu rõ đối tượng của mình tức là phải có quan niệm đúng đắn về bệnh. Vậy bệnh là gì? Câu hỏi này đã được đặt ra từ ngàn xưa, khi con người có mặt trên trái đất, nhưng câu trả lời lại luôn luôn thay đổi qua các thời đại. Nó phản ánh sự tiến bộ của khoa học và các quan điểm triết học đương thời, phản ánh trình độ hiểu biết giới tự nhiên của con người.
- 1. 1. Sơ lược khái niệm về bệnh qua các thời đại Trong thời đại nguyên thuỷ Vào buổi sơ khai con người con hoàn toàn bất lực trước sức mạnh của thiên nhiên, mọi thứ đều ghê gớm, thần bí, với ông sấm, bà sét, ông thiện ông ác, với ma tà và quỷ dữ, với thiên đường và địa ngục. Do đó quan điểm mắc bệnh là do trời đánh, thánh vật, do quỷ tha, ma bắt. Và tất nhiên với quan điểm như vậy thì việc chữa bệnh phải cần đến thày cúng, thày phù thuỷ hoặc phải cầu xin thượng đế phù hộ.
- Nền văn minh cổ đại Nhân loại đã trải qua những nền văn minh cổ đại phát triển khá cao, đặc biệt là về lĩnh vực y học như ở Trung Quốc, Ai cập, Ấn Độ, Hylạp La mã. Trong thời kỳ cổ Trung Hoa, quan điểm về vũ trụ là vạn vật đều do hai lực âm dương và năm nguyên tố (kim, mộc, thuỷ, hoả và thổ) hình thành. Âm và Dương đã được coi như 2 lực đối kháng và bổ cứu cho nhau trong sự hình thành vạn vật như đực với cái, nóng với lạnh, sống với chết. Ngũ hành tuân theo quy luật tương sinh, tương khắc (Tương sinh: Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc, Tương khắc: Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ).
- Vòng tròn âm dương
- Trong vũ trụ và vạn vật, mọi trạng thái đều phụ thuộc vào tình trạng cân bằng giữa hai lực Âm Dương và ngũ hành, khi có rối loạn cân bằng Âm Dương hoặc có thay đổi trong quy luật tương sinh, tương khắc của ngũ hành sẽ sinh ra bệnh tật. Chính vì vậy các thuật ngữ âm thịnh dương suy, chân thuỷ, chân hoả, thể hàn thể nhiệt thường được dùng trong y học cổ đại. Về mặt triết lý thì khoẻ mạnh là nhờ tình trạng cân bằng hoà hợp của vật chất trong cơ thể nên quan điểm này cũng phù hợp với quan điểm duy vật biện chứng, tuy còn thô sơ song quan điểm cổ đại này cũng rất tiến bộ và y học cổ truyền cũng đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm chữa bệnh quý báu.
- Quan niệm cổ Ai cập cho rằng: sự sống là do chất "khí"(pneuma) và hô hấp là thu chất khí đó vào trong cơ thể. Khi chất khí trong sạch thì khoẻ mạnh còn khi chất khí nhơ bẩn thì sinh ra bệnh tật. Triết lý về sự sống thời cổ của Ấn Độ là triết lý của đạo phật và sống chết chỉ là luân hồi, chết chỉ là một giai đoạn của sống, cơ thể vật chất vô tri vô giác mà trong đó linh hồn vận động, đảm bảo sự thống nhất các bộ phận của cơ thể, sự lành mạnh bình thường của các chức phận. Khi linh hồn rời cơ thể để sang một thế giới khác thì đó là sự chết. Vậy bệnh chính là sự đấu tranh của linh hồn nhằm duy trì hoạt động bình thường của cơ thể.
- Nền văn minh Hy lạp La mã cổ cũng có nhiều nhà bác học nổi tiếng trong lĩnh vực y học. Hypocratus (460 377 tr.cn) xây dựng thuyết thể dịch cho rằng chức năng của cơ thể do hoạt động cân bằng của 4 loại dịch là: Đỏ do máu của tim tiết ra và biểu hiện tính nóng; Đen do máu của lách quyết định biểu hiện tính ẩm; Mật Vàng ở gan biểu hiện tính khô và dịch Trắng ở não biểu hiện tính lạnh. Từ đó rút ra nguyên lý điều trị bệnh là phục hồi lại sự cân bằng nhờ các toa thuốc mát hay thuốc nóng. Đây chính là những cơ sở lâm sàng đầu tiên trong y học.
- Thời kỳ trung cổ Từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ 12, khoa học nói chung hầu như không phát triển. Đó là một thời kỳ trì trệ, tôn giáo và phong kiến đã kìm hãm mọi phát triển khoa học. Y học nằm trong tay các thày dòng, cha cố,… Nhà thờ thiên chúa giáo cho rằng bệnh tật là sự trừng phạt của đấng tối cao đối với những tội lỗi mà con người và chúng sinh đã mắc phải, muốn khỏi bệnh thì phải cầu nguyện cho đức chúa buông tha.
- Thời kỳ phục hưng: Cuối thời kỳ trung cổ nhiều nhà khoa học đã dũng cảm NCKH nên Y học có nhiều tiến bộ vượt bậc, năm 1543 Andre Vesale, người Bỉ đã xuất bản quyển sách " Cấu trúc cơ thể người“ đặt nền móng cho các môn hình thái học. Năm 1616, William Harvey đã phát minh ra tuần hoàn của máu. Harvey cho rằng cơ thể bị bệnh là khi bộ máy sinh vật bị hư hỏng giống như máy hết nhiên liệu hoặc các bánh răng mòn, gãy… Sylvius nghiên cứu các dịch lại cho rằng bệnh tật là do rối loạn hoá học trong cơ thể.
- Đến thế kỷ 18 19: Kính hiển vi đã ra đời và ngày càng hoàn thiện, thuốc nhuộm TB cũng được sử dụng rộng rãi trong NC hình thái vi thể, do đó nảy nở khái niệm giải phẫu cục bộ về bệnh, NC về bệnh cảnh lâm sàng được so sánh với tổn thương thấy được khi mổ khám xác chết. Wirchov đã cho rằng nguyên nhân của bệnh là do TTTB: bệnh sẽ chỉ xuất hiện tại các chỗ mà tác nhân gây bệnh làm TTTB, theo ông thì không phải toàn bộ cơ thể phản ứng với các yếu tố gây bệnh mà chỉ cục bộ các nhóm TB tiếp xúc với các tác nhân gây bệnh. Quan niệm này coi cơ thể đa bào chỉ là sự liên kết đơn thuần chứ không phải là một khối thống nhất toàn vẹn.
- Clot Becna (1865) nêu lên mối quan hệ khăng khít giữa nội môi và ngoại môi. Ngoại môi luôn luôn thay đổi nên để giữ cho nội môi không thay đổi, cơ thể sống phải có hàng loạt các chức năng bảo vệ và điều hoà, bệnh và chết chỉ là sự tan vỡ hoặc rối loạn cơ chế điều hoà đó. Đến nửa sau của thế kỷ 19, nhờ những đóng góp to lớn của Pasteur (1821 1895), Koch (1843 1900), Metnhicop, Eclich (1854 1915), tìm ra vai trò gây bệnh của nhiều loại vi sinh vật.
- Đến thể kỷ 20 Thế kỷ của điện tử và cũng là thế kỷ của sinh học, các ngành sinh học phát triển mạnh mẽ như: di truyền học, MD học, sinh học phân tử... nên cũng có rất nhiều khái niệm về bệnh. Pavlov đưa ra học thuyết TK của bệnh. Theo thuyết này nội môi và ngoại cảnh là một khối thống nhất mà trong đó hoạt động của TK cao cấp đóng một vai trò quyết định khả năng thích ứng của cơ thể (tức nội môi) đối với những thay đổi của bên ngoài, theo Pavlov: trong mỗi bệnh có hai quá trình tồn tại song song, quá trình bảo vệ sinh lý và quá trình huỷ hoại bệnh lý; " Bệnh là do rối loạn hoạt động phản xạ của hệ TK; rối loạn tương quan giữa những khu vực khác nhau của hệ TK.", quan niệm này quá nhấn mạnh vai trò của TKTW.
- Hans Selye cho rằng bệnh là sự rối loạn khả năng thích nghi. Trong khi NC phản ứng không đặc hiệu của cơ thể chống lại các tác nhân stress bên ngoài, Selye nhận thấy bao giờ cơ thể cũng đáp ứng bằng sự thay đổi hoạt động của hệ nội tiết thần kinh hạ não thượng thận; kết quả là có sự đối kháng giữa 2 loại hormon corticoit, loại thứ nhất tiết ra nhằm dồn nguyên liệu trong cơ thể tới chỗ bị đe doạ, nó ức chế quá trình viêm và quá trình phát triển tổ chức xơ, còn loại thứ hai có tác dụng làm vết thương mau lành bằng cách tăng sinh chất keo và phát triển TCLK. Hai hệ thống này hoạt động cân bằng nhau nhằm bảo vệ cơ thể, khi mất cân bằng sẽ sinh ra bệnh dạng bệnh thích nghi.
- Mỗi quan điểm chỉ giải thích được cơ chế sinh bệnh của một nhóm bệnh mà thôi. Từ những quan niệm như vậy về sinh vật, chúng ta có thể nêu lên một khái niệm về bệnh một cách tương đối như sau: " Bệnh là sự rối loạn đời sống bình thường của cơ thể sinh vật do tác động của các yếu tố gây bệnh khác nhau, gây ra một quá trình đấu tranh phức tạp giữa hiện tượng tổn thương bệnh lý và hiện tượng phòng vệ sinh lý, làm hạn chế khả năng thích nghi của cơ thể đối với ngoại cảnh"
- 1.2. Những điều cần chú trọng trong khái niệm về bệnh Bệnh có TC một cân bằng mới kém bền vững Cơ thể sống là một cân bằng động. Khi có yếu tố gây bệnh tác động vào cơ thể thì cân bằng bị phá vỡ, nhưng lập tức cơ thể đó có phản ứng bảo vệ, sẽ có những hoạt động nhằm khôi phục tình trạng cân bằng bị nhiễu loạn bởi yếu tố ấy. Chính cuộc đấu tranh này tạo ra một cân bằng mới (vì có thêm yếu tố bệnh lý, phản ứng bảo vệ và các sản phẩm của chúng), nhưng cân bằng mới này không kéo dài, thường có xu hướng phục hồi về cân bằng cũ tức là lành bệnh, khi không thể phục hồi được thì tiến triển càng bất lợi cho cơ thể, vượt quá khả năng bảo vệ của cơ thể dẫn đến tử vong. Đó cũng là tính kém bền vững của cân bằng mới. Như vậy: sống và chết; lành và bệnh là hai mặt của hiện tượng sinh học.
- Bệnh hạn chế khả năng thích nghi của cơ thể Trong khi ngoại môi luôn luôn thay đổi mà nội môi lại đòi hỏi một tình trạng hằng định tương đối thì cơ thể luôn luôn phải tìm cách thích ứng với biến đổi của ngoại cảnh. Trước những thay đổi mạnh mẽ của môi trường bên ngoài, cơ thể phải vận dụng những cơ chế thích ứng mạnh mẽ, thậm chí có thể dẫn đến một tình trạng bệnh lý mà Selye đã coi như “bệnh thích nghi”. Khi yếu tố gây bệnh tạo nên tình trạng bệnh lý, khả năng thích nghi của cơ thể sống vẫn còn nhưng đã bị hạn chế, Thí dụ khi sốt, khả năng điều hoà nhiệt của cơ thể vẫn còn nhưng rất hạn chế chứ không thể như cơ thể khoẻ mạnh. Trong công tác điều trị người thày thuốc phải tìm cách phát huy tối đa khả năng thích
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình ngoại khoa thú y
158 p | 1713 | 382
-
Giáo trinh giải phẫu bệnh thú y : Giới thiệu môn giải phẫu bệnh part 1
7 p | 396 | 57
-
Giáo trinh giải phẫu bệnh thú y : Giới thiệu môn giải phẫu bệnh part 2
7 p | 209 | 38
-
Giáo trinh giải phẫu bệnh thú y : Giới thiệu môn giải phẫu bệnh part 9
7 p | 164 | 32
-
Bài giảng bệnh lý học thú y : Khái niệm cơ bản part 5
5 p | 234 | 32
-
Giáo trinh giải phẫu bệnh thú y : Giới thiệu môn giải phẫu bệnh part 6
7 p | 154 | 21
-
Bài giảng Bệnh học thủy sản: Chương 1 - Hồ Phương Ngân
8 p | 125 | 17
-
Giáo trinh giải phẫu bệnh thú y : Giới thiệu môn giải phẫu bệnh part 10
5 p | 119 | 16
-
Giáo trinh giải phẫu bệnh thú y : Rối loạn tuần hoàn part 7
8 p | 128 | 15
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn