Bài mở đầu
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN BỆNH LÝ
HỌC THÚ Y HAY SINH LÝ BỆNH THÚ Y
1. ĐỊNH NGHĨA MÔN HỌC Sinh lý bệnh (PHthophysiology) theo nghĩa tổng quát nhất là môn học về những thay đổi chức năng của cơ thể, cơ quan, mô và tế bào khi chúng bị bệnh. Sinh lý bệnh học là một môn khoa học nghiên cứu những hoạt động của sự sống trong cơ thể bệnh, cụ thể là nghiên cứu những biến đổi bệnh lý về cơ năng các cơ quan, hệ thống và mô bào, đồng thời nghiên cứu những nguyên nhân, điều kiện gây bệnh và tìm ra quy luật chung của sự phát sinh, phát triển và kết thúc của quá trình bệnh lý.
Môn sinh lý gia súc nghiên cứu tất cả cơ năng, hệ thống trong cơ thể gia súc (động vật) bình thường và tìm ra được quy luật nhất định, cũng như vậy trên cơ thể bệnh chúng ta cũng nghiên cứu tuần tự và so sánh lại với quy luật bình thường để thấy được những thay đổi như thế nào và từ đó rút ra kết luận với từng trường hợp. Chính vì vậy người ta thấy mỗi một bệnh có một quy luật riêng và nó cũng có những biểu hiện bệnh lý chung.
Ví dụ: Trong tất cả các loại nhiễm khuẩn chúng ta đều thấy các quá trình bệnh lý như viêm, sốt, khi kiểm tra máu thấy bạch cầu tăng và đó là những quy luật chung. Trong khi đó ở bệnh dịch tả lợn chúng ta thấy cơ thể lợn sốt, viêm nhưng bạch cầu hạ; bệnh lao phổi chúng ta lại thấy cơ thể vật bệnh sốt liên miên, thường hay sốt vào buổi chiều, ra mồi hôi nhiều và đó là những quy luật riêng.
Những quy luật riêng tạo nên những biến đổi trên cơ quan, tổ chức gọi là
quá trình bệnh lý điển hình và các quá trình này tạo nên bệnh tích điển hình.
Từ những quy luật đó khái quát lại và nêu lên quy luật hoạt động của từng
bệnh, tạo cơ sở lý luận cho các môn học lâm sàng tìm biện pháp khống chế.
2. NỘI DUNG MÔN HỌC Nội dung của môn sinh lý bệnh học được chia làm ba chương: Chương 1 : Các khái niệm và quy luật chung về bệnh Bao gồm: khái niệm về bệnh, nguyên nhân gây bệnh, sinh bệnh học, đặc
tính của cơ thể đối với sự phát bệnh (bệnh lý của quá trình miễn địch).
Chương 2: Sinh lý bệnh các quá trình bệnh lý chung Bao gồm: rối loạn tuần hoàn cục bộ, rối loạn chuyển hóa các chất, viêm, rối
loạn điều hoà thân nhiệt, quá trình bệnh lý của sự phát triển mô bào.
Chương 3: Sinh lý bệnh các cơ quan, hệ thống Nghiên cứu rối loạn chức năng của các cơ quan, hệ thống: hệ thống máu và cơ quan tạo máu, hệ tuần hoàn, hệ hô hấp, hệ tiêu hóa, hệ tiết niệu và hệ thống thần kinh.
1
Với những nội dung trên môn sinh lý bệnh học là môn học cơ sở của ngành thú y, có liên quan chặt chẽ với nhiều môn học khác như: sinh lý gia súc, sinh hóa
học, dược lý học, vi sinh vật học và các môn lâm sàng thú y như: bệnh nội khoa, chẩn đoán bệnh, bệnh ký sinh trùng, bệnh truyền nhiễm, bệnh sản khoa...
Đặc biệt sinh lý bệnh và giải phẫu bệnh là hai cấu thành của môn Bệnh lý học, là hai môn học có cùng chung một đối tượng nghiên cứu nhưng sinh lý bệnh chủ yếu nghiên cứu những biến đổi về cơ năng, còn giải phẫu bệnh thì nghiên cứu những biến đổi về hình thái trên cơ thể bệnh
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN SINH LÝ BỆNH THÚ Y Phương pháp nghiên cứu của môn sinh lý bệnh học là phương pháp thực nghiệm, một phương pháp rất khách quan và khoa học. Phương pháp này tiến hành gây bệnh nhân tạo trên cơ thể động vật, sau đó quan sát toàn bộ quá trình diễn biến của bệnh, cuối cùng phân tích và rút ra quy luật chung của quá trình bệnh lý. Trong phương pháp thực nghiệm, thường sử dụng hai phương pháp là phương pháp thực nghiệm cấp tính hay còn gọi là cấp diễn và phương pháp thực nghiệm mãn tính hay còn gọi là trường diễn.
3.1. Phương pháp thực nghiệm cấp tính (cấp diễn) Phương pháp này thường phân tích các chức năng của các cơ quan riêng biệt, có khi cô lập ra khỏi cơ thể để nghiên cứu, tức là làm nhanh có kết quả ngay để có thể nắm được các quy luật Người ta thường sử dụng phương pháp này trong một số trường hợp chẩn đoán nhanh và dùng để giảng dạy cho sinh viên.
Ví dụ: Người ta thường cô lập tim ếch hoặc cô lập một đoạn ruột để nghiên
cứu.
Ưu điểm: phương pháp này tương đối đơn giản, quan sát biến đổi về cơ
năng trong một thời gian ngắn.
Nhược điểm: Gây tổn thương trên cơ thể bệnh, kích thích từng cơ quan riêng biệt một cách nhân tạo, thậm chí còn tách rời một số cơ quan khỏi cơ thể hoặc tiến hành nghiên cứu dưới điều kiện gây mê. Trong những điều kiện thực nghiệm như vậy thì không thể biểu hiện được bản chất của bệnh một cách đầy đủ, kết quả thu được không sát so với khi con vật hoạt động bình thường.
3.2. Phương pháp thực nghiệm mãn tính (trường diễn) Phương pháp thực nghiệm mãn tính do Páp-lốp đề ra. Phương pháp này tiến hành trên con vật sau khi đã được phẫu thuật và hoàn toàn hồi phục, cơ thể con vật ở trạng thái tỉnh táo gần như bình thường.
Ví dụ: người ta làm một ống để hứng dịch vị dạ dầy, làm một ống để hứng
nước bọt.
Ưu điểm: Làm thí nghiệm trên con vật ở trạng thái bình thường nghiên cứu được lâu dài, chính xác hơn, có thể rút ra những quy luật biến đổi ở cơ thể bệnh một cách toàn diện trong suất quá trình bệnh lý, tốn ít động vật thí nghiệm.
Nhược điểm: Chỉ áp dụng nghiên cứu trong một số trường hợp có thời gian
nghiên cứu lâu dài.
Nhưng người ta thường kết hợp cả hai phương pháp trên để nghiên cứu quá
2
trình bệnh một cách toàn diện hơn.
3
Ngày nay có nhiều phương pháp nghiên cứu tiên tiến như: phương pháp nội soi, hoặc phương pháp cắt lát bộ óc để xem có u não không, phương pháp dùng máy siêu âm để kiểm tra hoạt động của thai... cũng được áp dụng trong nghiên cứu sinh lý bệnh. Ngoài ra sinh lý bệnh học còn ứng dụng những thành tựu và phương pháp mới nhất của khoa học như: miễn dịch học, sinh hóa học, phân tử học (nuôi cấy đen, cắt đen) để nghiên cứu các quá trình bệnh lý.
Chương 1
CÁC KHÁI NIỆM VÀ QUY LUẬT CHUNG VỀ BỆNH
1. KHÁI NIỆM VỀ BỆNH Kể từ thời nguyên thuỷ tới nay, qua bao ngàn năm, khái niệm về bệnh là bất
biến.
Điều đó không đúng mà nó thay đổi theo thời gian. Nói chung, sự thay đổi
này phụ thuộc chủ yếu vào hai yếu tố:
Trình độ văn minh của xã hội đương thời. Thế giới quan (bao gồm cả triết học) của mỗi thời đại. Trong một xã hội, có thể đồng thời xuất hiện nhiều khái niệm về bệnh, kể cả những khái niệm đối lập nhau. Đó là điều bình thường nói lên những quan điểm học thuật khác nhau có thể cùng tồn tại trong khi chờ đợi sự ngã ngũ. Tuy nhiên, trong lịch sử đã có những trường hợp quan điểm chính thống tìm cách đàn áp các quan điểm khác.
Một quan niệm về bệnh bao giờ cũng chi phối chặt chẽ các nguyên tắc chữa
bệnh, phòng bệnh. Do vậy nó có vai trò rất lớn trong thực tiễn.
4
1.1 Một số khái niệm trong lịch sử 1.1.1 Thời nguyên thuỷ Người nguyên thuỷ khi biết tư duy cho rằng bệnh là sự trừng phạt của các đấng siêu linh đối với con người và trần thế. Ở đây có sự lẫn lộn giữa bản chất của bệnh với nguyên nhân gây ra bệnh (trả lời câu hỏi "bệnh là gì" cũng giống câu hỏi "bệnh do đâu"). Không thể đòi hỏi một quan niệm tích cực hơn khi trình độ con người còn quá thấp kém, với thế giới quan coi bất cứ vật gì và hiện tượng nào cũng có các lực lượng siêu linh can thiệp vào. Đáng chú ý là quan niệm này bước sang thế kỷ 21 vẫn còn tồn tại ở những bộ tộc lạc hậu hoặc một số bộ phận dân cư trong các xã hội văn minh. Với quan niệm như vậy thì người xưa chữa bệnh chủ yếu bằng dùng lễ vật để cầu xin, có thể cầu xin trực tiếp, hoặc thông qua những người làm nghề mê tín dị đoan. Bao giờ cũng vậy, giá trị của vật lễ luôn luôn nhỏ hơn giá trị của điều cầu xin. Tuy nhiên, trên thực tế người nguyên thuỷ đã bắt đầu biết dùng thuốc, không phải chỉ phó mặc số phận cho thần linh. 1.1.2. Thời các nền văn minh cổ đại Trước công nguyên nhiều ngàn năm, một số vùng trên thế giới đã đạt trình độ văn minh rất cao so với mặt bằng chung. Ví dụ: Trung Quốc, Hy Lạp, La Mã, Ai
Cập hay Ấn Độ. Trong xã hội hồi đó đã xuất hiện tôn giáo, tín ngưỡng, văn học nghệ thuật, khoa học (gồm cả y học và triết học). Nền y học lúc đó ở một số nơi đã đạt được những thành tựu lớn về y lý cũng như về phương pháp chữa bệnh và đã đưa những quan niệm về bệnh của mình. 1.1.2.1. Trung Quốc cổ đại Khoảng hai hay ba ngàn năm trước công nguyên, y học chính thống Trung Quốc chịu ảnh hưởng lớn của triết học đương thời cho rằng vạn vật được cấu tạo từ năm nguyên tố (Ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ) tồn tại dưới hai mặt đối lập (âm và dương) trong quan hệ hỗ trợ hoặc át chế lẫn nhau (tương sinh hoặc tương khắc).
Các nhà y học cổ đại Trung Quốc cho rằng bệnh là sự mất cân bằng âm dương và sự rối loạn quan hệ tương sinh tương khắc của Ngũ hành trong cơ thể. Từ đó nguyên tắc chữa bệnh là điều chỉnh lại, kích thích mặt yếu (bổ), chế át mặt mạnh (tả).
Trong thời kỳ này quan niệm về bệnh ở đây là duy vật, các thế lực siêu linh bắt đầu bị loại trừ khỏi vai trò gây bệnh. Cố nhiên, đây mới chỉ là trình độ duy vật hết sức thô sơ (cho rằng vật chất chỉ gồm năm nguyên tố) và trong nhiều ngàn năm, quan niệm này tỏ ra bất biến, không hề vận dụng được các thành tựu vĩ đại của các ngành khoa học tự nhiên khác vào y học.
Y học Trung Quốc cổ đại khá phong phú và chặt chẽ, thực sự có vai trò hướng dẫn cho thực hành, đồng thời có thể tự hào về tính biện chứng sâu sắc. Tuy nhiên, trình độ biện chứng ở đây chỉ là rất chung chung, trừu tượng. Do vậy, y lý chỉ dừng lại ở mức độ lý thuyết (do quan sát và suy luận mà có) chưa thể gọi là đạt mức lý luận (dùng thực nghiệm kiểm tra và chứng minh mà có).
Học và y lý Trung Quốc cổ đại có những đóng góp rất lớn cho chẩn đoán và chữa bệnh. ảnh hưởng của nó lan cả sang phương Tây, xâm nhập cả vào y lý của một nền y học cổ ở châu âu. Người ta cho rằng chính lý thuyết về "bốn nguyên tố" của Pythagore và "bốn chất dịch" của Hippocrat cũng chịu ảnh hưởng rõ rệt của y lý Trung Quốc cổ đại.
Trải qua hàng ngàn năm tồn tại và phát triển, nền y học này đã có những đóng góp hết sức to lớn, với vô số bài thuốc phong phú và công hiệu. Tuy nhiên, cho đến khi chủ nghĩa tư bản châu âu bành trướng sang phương Đông để tìm thuộc địa đồng thời mang theo y học hiện đại sang châu Á - nó chỉ vẫn dừng ở mức y học cổ truyền mà chưa hề có yếu tố hiện đại nào.
5
Nguyên nhân do chế độ phong kiến Trung Quốc tồn tại quá lâu, với quan niệm "chết mà không toàn vẹn cơ thể" là điều hết sức đau khổ, nhục nhã cho cả người chết và thân nhân họ. Do vậy, môn giải phẫu không thể ra đời. Các nhà y học chỉ có thể dùng tưởng tượng và suy luận để mô tả cấu trúc cơ thể. Tiếp sau là một chuỗi dài những suy luận và suy diễn, mặc dù ít nhiều có đối chiếu với quan sát thực tiễn nhưng không sao tránh khỏi sai lầm (vì không có thực nghiệm chứng minh). Tuy nhiên, đây vẫn chỉ là những quan sát trực tiếp bằng các giác quan (dù
rất tỉ mỉ) mà không có trang thiết bị hỗ trợ nên chỉ có thể dừng lại ở hiện tượng và sau đó lại tiếp tục dùng suy luận để mong hiểu được bản chất.
1.1.2.2. Thời văn minh Hy Lạp và La Mã cổ đại Muộn hơn ở Trung Quốc hàng ngàn năm. Y học cổ đại của nhiều nước châu âu cũng chịu ảnh hưởng khá rõ của Trung Quốc, nổi bật nhất là ở Hy Lạp -La Mã cổ đại. Gồm hai trường phái lớn:
Trường phái Pythagore (600 năm trước công nguyên): dựa vào triết học đương thời cho rằng vạn vật do bốn nguyên tố tạo thành với bốn tính chất khác nhau: thổ (khô), khí (ẩm), hỏa (nóng), thuỷ (lạnh). Trong cơ thể, nếu bốn yếu tố đó phù hợp về tỷ lệ, tính chất và sự cân bằng sẽ tạo ra sức khoẻ; nếu ngược lại, sẽ sinh bệnh. Cách chữa bệnh cũng là điều chỉnh lại, bổ sung cái thiếu và yếu, loại bỏ cái mạnh và thừa.
Trường phái Hippocrat (500 năm trước công nguyên): không chỉ thuần tuý tiếp thu và vận dụng triết học như trường phái Pythagore mà tiến bộ và cụ thể hơn, đã quan sát trực tiếp trên cơ thể sống. Hippocrat cho rằng cơ thể có bốn dịch, tồn tại theo tỷ lệ riêng, có quan hệ cân bằng với nhau để tạo ra sức khoẻ, đó là:
Máu đỏ: do tim sản xuất, mang tính nóng; ông nhận xét rằng khi cơ thể lâm vào hoàn cảnh nóng (sốt) thì tim đập nhanh và mặt, da đều đỏ bừng. Đó là do tim tăng cường sản xuất máu đỏ.
Dịch nhầy: không màu, do não sản xuất, thể hiện tính lạnh; xuất phát từ nhận xét khi cơ thể bị lạnh thì dịch mũi chảy ra rất nhiều, ngược lại khi niêm dịch xuất tiết nhiều cũng là lúc cơ thể nhiễm lạnh.
Máu đen: do lách sản xuất, mang tính ẩm. Mật vàng: do gan sản xuất, mang tính khô. Bệnh là sự mất cân bằng về tỷ lệ và quan hệ giữa bốn dịch đó. Lý thuyết của Hippocrat có ảnh hưởng rất lớn đối với y học châu âu thời cổ đại. Bản thân Hippocrat là nhà y học cổ truyền vĩ đại, có công lao tất lớn; đã tách y học khỏi ảnh hưởng của tôn giáo, chủ trương chẩn đoán bằng phát hiện triệu chứng khách quan, đề cao đạo đức y học.
Thời kỳ này quan niệm về bệnh khá duy vật và biện chứng, tuy còn thô thiển. Có thể nói đây là đặc điểm dễ đạt được khi lý thuyết còn sơ sài, dừng lại ở trình độ chung chung và trừu tượng. Tuy nhiên, những quan sát trực tiếp của Hippocrat lại khá cụ thể như bốn chất dịch là có thật và cho phép kiểm chứng được. Nhờ vậy, các thế hệ sau có điều kiện kiểm tra, sửa đổi và phát triển nó, nhất là khi phương pháp thực nghiệm được áp dụng vào y học, đưa y học cổ truyền tiến lên hiện đại. Chính vì vậy, Hippocrat được thừa nhận là ông tổ của y học nói chung cả y học cổ truyền và hiện đại.
6
1.1.2.3. Các nền văn minh khác Cổ Ai Cập: Dựa vào thuyết Pneuma (sinh khí) cho rằng khí đem lại sinh lực cho cơ thể. Cơ thể phải thường xuyên hô hấp để đưa sinh khí vào. Bệnh là do hít phải khí xấu không trong sạch. Từ đó, các nhà y học đề ra những nguyên tắc chữa bệnh.
Cổ Ấn Độ: Y học chính thống chịu ảnh hưởng sâu sắc của triết học đạo Phật cho rằng cuộc sống là một vòng luân hồi (gồm nhiều kiếp), mỗi kiếp trải qua bốn giai đoạn: sinh, lão, bệnh, tử. Như vậy, bệnh là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, các nhà y học cổ đại ấn Độ vẫn sáng tạo được rất nhiều phương thuốc công hiệu để chữa bệnh. Đạo Phật còn cho rằng con người có linh hồn vĩnh viễn tồn tại, nếu nó còn ngự trị trong thể xác tồn tại tạm thời là sống, đe doạ thoát khỏi xác là bệnh, thoát hẳn khỏi thể xác là chết.
1.1.3. Thời kỳ Trung cổ Châu âu thời kỳ Trung cổ (thế kỷ 4-12) được coi là "đêm dài" vì diễn ra suốt 8 thế kỷ dưới sự thống trị tàn bạo và hà khắc của nhà thờ, tôn giáo và chế độ phong kiến. Nguyên nhân do sự cuồng tín vào những lý thuyết mang tính tôn giáo khiến các giáo sĩ dựa vào cường quyền sẵn sàng đàn áp khốc liệt các ý kiến đối lập. Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa hơn là tầng lớp giáo sĩ và phong kiến muốn bảo vệ lâu đài đặc quyền thống trị của họ.
Các quan niệm tiến bộ bị đàn áp nếu trái với những tín điều trong kinh thánh, khoa học lâm vào tình trạng trì trệ và thụt lùi. Các nhà khoa học tiến bộ bị khủng bố.
Quan niệm chính thống về bệnh tỏ ra rất mê muội, không coi trọng chữa bằng thuốc, thay bằng cầu xin, y lý phải tuân theo các giáo lý của nhà thờ, mỗi vị thánh trấn giữ một bộ phận trong cơ thể, một số giáo sĩ cấm đọc sách thuốc... Những nhà y học có quan điểm tiến bộ bị ngược đãi.
Tuy vậy, cuối thời Trung cổ vẫn lác đác có vài quan niệm duy vật nhưng rất sơ sài, PHracelsus (1493-1541) cho rằng lưu huỳnh có vai trò biểu hiện sức mạnh của linh hồn, trí tuệ, còn thuỷ ngân và muối có vai trò trong duy trì sức mạnh thể chất. Tuy vậy, các quan điểm này không được coi là chính thống nên ít ảnh hưởng trong giới y học.
1.1.4. Thời kỳ Phục hưng Thế kỷ 16-17, xã hội thoát khỏi thần quyền, văn học nghệ thuật và khoa học phục hưng lại nở rộ với nhiều tên tuổi như Newton, Descarte, Toricelli, Vesali, Harvey...
Giải phẫu học (Vesali, 1414-1564) và Sinh lý học (Harvey, 1578-1657) ra đời đặt nền móng vững chắc để y học từ cổ truyền tiến vào thời kỳ hiện đại. Nhiều thuyết tiến bộ về y học liên tiếp xuất hiện. Tính duy vật tuy còn thô sơ, tính biện chứng vẫn còn máy móc nhưng so với thời kỳ y học cổ truyền thì đã có những bước tiến nhảy vọt về chất.
Thời kỳ này có đặc điểm là: Mỗi thuyết đều cụ thể hơn trước, giảm mức độ trừu tượng, khiến có thể dùng thực nghiệm kiểm tra dễ dàng để thừa nhận hoặc bác bỏ; đồng thời có tác dụng giảm bớt tính nghệ thuật tăng thêm tính khoa học và tính chính xác trong hành nghề của người thầy thuốc.
Các thuyết đều cố vận dụng các thành tựu mới nhất của các khoa học khác
7
như co học, lý học, hóa học, sinh học, sinh lý, giải phẫu. Ví dụ:
Thuyết cơ học (Descarte): Coi cơ thể như một cỗ máy, ví tim như cái máy bơm, mạch máu là các ống dẫn; các xương như những đòn bẩy và hệ cơ như các lực. Bệnh được ví như trục trặc của máy móc...
Thuyết hóa học (Sylvius, 1614-1672): coi bệnh tật là do sự thay đổi tỷ lệ các
hóa chất trong cơ thể, hoặc sự rối loạn của các phản ứng hóa học.
Thuyết lực sống (Stalil, 1660-1734): Các nhà sinh học hồi đó cho rằng các sinh vật có những hoạt động sống và không bị thối rữa là nhờ trong chúng có cái gọi là lực sống. Lực sống cũng chi phối sức khoẻ và bệnh tật của cơ thể bằng lượng và chất của nó.
1.1.5. Thời kỳ thế kỷ 18 -19 Đây là thời kỳ phát triển của y học hiện đại với sự vững mạnh của hai môn Giải phẫu học và Sinh lý học. Nhiều môn y học và sinh học đã ra đời. Ở các nước phương Tây, y học cổ truyền hoàn toàn tiến sang thời y học hiện đại. Phương pháp thực nghiệm từ vật lý học được ứng dụng một cách phổ biến và có hệ thống vào y học đã mang lại rất nhiều thành tựu. Rất nhiều quan điểm về bệnh ra đời, với đặc điểm nổi bật dựa trên những kết quả đã được thực nghiệm kiểm tra và khẳng định.
Một số quan niệm chủ yếu về bệnh trong thời kỳ này là: Thuyết bệnh lý tế bào: Wirchow là người sáng lập môn Giải phẫu bệnh cho rằng bệnh là do các tế bào bị tổn thương, hoặc các tế bào tuy lành mạnh nhưng thay đổi về số lượng, vị trí và thời điểm xuất hiện.
Thuyết rối loạn hằng định nội môi: Claud Benard - nhà Sinh lý học thiên tài, người sáng lập môn y học thực nghiệm, tiền thân của môn Sinh lý bệnh - đã đưa thực nghiệm vào y học một cách hệ thống và sáng tạo, đã đề ra khái niệm "hằng định nội môi" cho rằng bệnh xuất hiện khi có rối loạn cân bằng này trong cơ thể.
Muộn hơn, sang thế kỷ 19-20, Frend (1856-1939) và môn đệ cho rằng bệnh là do rối loạn và mất cân bằng giữa ý thức, tiềm thức, bản năng. Môn đệ Páp-lốp đã lạm dụng quá mức các công trình của ông thì cho rằng bệnh là kết quả của sự rối loạn hoạt động phản xạ của thần kinh cao cấp. Các khái niệm này đã có đóng góp nhất định trong một phạm vi nào đó, đồng thời cũng biểu hiện những thiên lệch hiểu biết về bệnh.
1.1.6. Thời kỳ hiện đại (Thế kỷ 20) Thế kỷ này là thời kỳ của điện tử, của các chất cao phân tử và cũng là thời kỳ của sinh học. Một số ngành sinh học phát triển mạnh như: di truyền học, miễn dịch học, sinh học phân tử... có ảnh hưởng lớn tới y học, do đó cũng có nhiều khái niệm khác nhau về bệnh.
8
Riêng ở Nga, tiếp thu các công trình của các nhà khoa học như Sechenov, Botkin, Páp-lốp đã đề ra học thuyết thần kinh của bệnh. Theo thuyết này nội môi và ngoại cảnh là một khối thống nhất, trong đó hoạt động của thần kinh cao cấp đóng vai trò quyết định đối với khả năng thích ứng của cơ thể (tức nội môi) với những thay đổi bên ngoài. Sự kết hợp chặt chẽ giữa vỏ não và những đoạn dưới của hệ thần kinh, giữa hệ thống tín hiệu thứ nhất và thứ hai của người, giữa thần kinh và
nội tiết có tác động điều hoà chính xác và kịp thời mọi hoạt động của cơ thể, đảm bảo mối tương quan chính xác giữa nội môi và ngoại cảnh. Bệnh tật là do rối loạn hoạt động phản xạ của hệ thần kinh, rối loạn tương quan giữa các khu vực khác nhau của hệ thần kinh. Páp-lốp chỉ rõ: "trong người bệnh có hai quá trình tồn tại song song: quá trình bảo vệ sinh lý và quá trình huỷ hoại bệnh lý".
Qua các lý luận trên các nhà khoa học Nga đã nhìn nhận vấn đề bệnh tật một cách toàn diện hơn. Tuy nhiên vẫn chưa giải thích một cách hoàn hảo khái niệm về bệnh. Trong thời kỳ này, ngành hóa chất, nhất là sinh hóa phát triển mạnh mẽ, người ta đã nhận thấy tính chất tương đối ổn định của các thành phần hóa học trong cơ thể. Dựa vào đó Hens Selye đưa ra ý kiến "Bệnh là sự rối loạn các khả năng thích nghi". Nghiên cứu các tác động mạnh của ngoại cảnh (stress) thì Selye cho rằng bao giờ cơ thể cũng đáp lại bằng những thay đổi của hoạt động nội tiết và thần kinh. Theo Selye sự mất cân bằng và hiệp đồng giữa hạ não và thượng thận thì sinh ra bệnh gọi là bệnh thích nghi.
Theo tiến hóa luận khoa học thì mọi sinh vật đều bắt nguồn từ một đơn bào, sau đó phức tạp dần thành cơ quan, tổ chức khác nhau, có các hoạt động riêng nhưng nhằm mục đích chung là duy trì sự sống. Do đó, sự ngăn cách giữa các bộ phận (tế bào, cơ quan), giữa cơ thể trong cộng đồng, giữa cơ thể với thiên nhiên chỉ các tính chất tương đối, mà về thực chất có sự liên quan trao đổi mật thiết qua lại với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Giữa ngoại cảnh và cơ thể có sự thống nhất và có sự mâu thuẫn, ngoại cảnh thì luôn luôn thay đổi và cơ thể nhờ khả năng thích nghi của mình để mà duy trì hằng định nội môi một cách tương đối, để duy trì sự sống.
1.2. Quan niệm về bệnh hiện nay 1.2.1. Hiểu về bệnh qua quan niệm sức khoẻ Tổ chức Y tế thế giới (WHO - 1946) đưa ra định nghĩa: "Sức khoẻ là một tình trạng thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần và xã hội, chứ không chỉ đơn thuần là không có bệnh hay tật". Đây là định nghĩa mang tính mục tiêu xã hội, để phấn đâu, được chấp nhận rộng rãi.
Tuy nhiên dưới góc độ y học, cần có những định nghĩa phù hợp và chặt chẽ
hơn.
Các nhà y học cho rằng: "Sức khoẻ chức năng, cũng như khả năng điều hoà với sự thay đổi của hoàn cảnh". là tình trạng lành lặn của cơ thể về cấu trúc, giữ cân bằng nội môi, phù hợp và thích nghi
1.2.2. Những yếu tố để định nghĩa về bệnh Đa số các tác giả đều đưa vào khái niệm bệnh những yếu tố sau: Sự tổn thương, lệch lạc, rối loạn trong câu trúc và chức năng (từ mức phân
tử, tế bào, mô, cơ quan đến mức toàn cơ thể). ,
9
Do những nguyên nhân cụ thể, có hại; đã tìm ra hay chưa tìm ra. Cơ thể có quá trình phản ứng nhằm loại trừ các tác nhân gây bệnh, lập lại cân bằng, sửa chữa tổn thương. Trong cơ thể bị bệnh vẫn có sự duy trì cân bằng nào đó, mặc dù nó đã lệch ra khỏi giới hạn sinh lý. Hậu quả của bệnh tuỳ thuộc vào tương quan giữa quá trình rối loạn, tổn thương và quá trình phục hồi, sửa chữa.
Bệnh làm giảm khả năng thích nghi với ngoại cảnh. Với người, có tác giả đề nghị thêm: bệnh làm giảm khả năng lao động và
khả năng hoà nhập xã hội.
1.2.3. Một số định nghĩa về bệnh "Bệnh là tình trạng tổn thương hoặc rối loạn về cấu trúc và chức năng, dẫn
tới mất cân bằng nội môi và giảm khả năng thích nghi với ngoại cảnh".
"Bệnh là sử rối loạn các hoạt động sống của cơ thể và mối tương quan với
ngoại cảnh, dẫn đến giảm khả năng lao động".
"Bệnh là sự thay đổi về lượng và chất các hoạt động sống của cơ thể do tổn thương cấu trúc và rối loạn chức năng, gây ra do tác hại từ môi trường hoặc từ bên trong cơ thể".
"Bệnh là sự rối loạn đời sống bình thường của cơ thể sinh vật, do tác động của các yếu tố gây bệnh khác nhau, gây ra một quá trình đấu tranh phức tạp giữa hiện tượng tổn thương bệnh lý và hiện tượng phòng vệ sinh lý, làm hạn chế khả năng thích nghi của cơ thể đối với ngoại cảnh, làm cho khả năng sản xuất và giá trị kinh tế bị giảm sút".
“Bệnh là một điều kiện mà ở đó một cá thể chỉ ra sự sai khác về giải phẫu,
hóa học, sinh lý so với bình thường".
Định nghĩa "thế nào là một bệnh" hiện nay đang được sử dụng phổ biến là: "Bệnh là bất kỳ sự sai lệch hoặc tổn thương nào về cấu trúc và chức năng của bất kỳ bộ phận, cơ quan, hệ thống nào của cơ thể biểu hiện bằng các triệu chứng đặc trưng giúp cho thầy thuốc có thể chẩn đoán xác định và chẩn đoán phân biệt, mặc dù nhiều khi ta chưa rõ về nguyên nhân, về bệnh học và tiên lượng" (Từ điển y học Dorlands, 2000).
2. ĐẠI CƯƠNG VỀ BỆNH NGUYÊN HỌC
2.1. Định nghĩa Bệnh nguyên học (Etiology) hay nguyên nhân bệnh học là môn học nghiên cứu về nguyên nhân gây bệnh, bản chất của chúng, cơ chế mà chúng tác động, đồng thời nghiên cứu các điều kiện thuận lợi hay không thuận lợi để nguyên nhân trên phát huy tác dụng. Việc nghiên cứu nguyên nhân gây bệnh có ý nghĩa rất to lớn trong lý luận cũng như trong thực hành. Về lý luận nó biểu hiện một lập trường rõ rệt; về thực hành nó giúp cho việc phòng trị có hiệu quả. Páp-lốp đã nói: "Vấn đề phát hiện ra nguyên nhân gây bệnh là một vấn đề cơ bản của y học và chỉ khi nào biết rõ những nguyên nhân gây ra bệnh thì mới tiến hành điều trị được chính xác, hơn nữa mới ngăn chặn chúng đột nhập vào cơ thể và điều này là quan trọng bậc nhất".
10
2.2. Một số quan niệm sai lầm về bệnh nguyên học Để có được những quan điểm và khái niệm khoa học đúng đắn như hiện nay, bệnh nguyên học đã trải qua một quá trình nghiên cứu lâu dài và đấu tranh gay gắt
giữa các học thuyết khác nhau. Trong đó có một số học thuyết sai lầm về nguyên nhân bệnh học như:
Thuyết "nguyên nhân đơn thuần" (Pure Etiology) cho rằng vi khuẩn là nguyên nhân của mọi bệnh, hễ có vi khuẩn là có bệnh (tức là mọi bệnh đều do một nguyên nhân và chỉ khi nào có nguyên nhân thì mới có bệnh).
Với thái độ cực đoan, quá nhấn mạnh đến vai trò của một nguyên nhân gây ra bệnh là vi khuẩn, thuyết này đã bỏ qua vai trò và ảnh hưởng của những điều kiện khác thuận lợi cho sự phát sinh của bệnh, cũng không chú ý đến cơ chế bảo vệ của cơ thể chống lại sự đột nhập của các yếu tố gây bệnh và nó cũng không xét đến các ảnh hưởng khác trong bệnh nguyên học.
Thực tế cho thấy rằng, trong nhiều bệnh không phát hiện thấy vi khuẩn như bệnh cao huyết áp, các bệnh đo tác động của các yếu tố lý, hóa học gây nên và ngược lại, trong nhiều trường hợp có vi khuẩn nhưng lại không thấy bệnh xuất hiện, ví dụ: có tới 80-90% gà mang vi khuẩn PHsteurella ở trong đường hô hấp trên mà không gây bệnh tụ huyết trùng hoặc có tới gần 100% vi khuẩn E, còn sống trong ruột già của động vật và người mà không gây bệnh.
Một quan niệm sai lầm, phiến diện về bệnh nguyên học như trên, chỉ chú ý đến một nguyên nhân gây bệnh, tất nhiên cũng sẽ dẫn đến sai lầm trong công tác phòng bệnh và điều trị bệnh. Như ta đã biết việc chống lại yếu tố gây bệnh, nhất là vi khuẩn một cách tích cực cũng mới chỉ là một mặt trong công tác phòng bệnh và điều trị. Còn có những mặt khác cũng không kém phần quan trọng là tạo ra những điều kiện, những hoàn cảnh để yếu tố gây bệnh không phát huy được tác dụng như tăng cường sức đề kháng của cơ thể, v.v… Thuyết "điều kiện đơn thuần" (Pure Condition) cho rằng bệnh tật là do kết quả tác động tổng hợp của một số điều kiện và các điều kiện đó có thể gây bệnh mà không cán có nguyên nhân đặc hiệu. Quan niệm này là hoàn toàn sai lầm, bởi vì từng điều kiện tách riêng ra, cũng như nhiều điều kiện kết hợp lại không thể quyết định được sự phát sinh ra bệnh và tính đặc hiệu của bệnh, ví dụ: nếu không có vi khuẩn lao thì không có bệnh lao. Các điều kiện chỉ có tác dụng tạo nên cơ sở dễ dàng cho bệnh phát sinh khi có nguyên nhân gây bệnh tác động.
Học thuyết này mang tính chất tiêu cực: cùng một lúc đưa ra nhiều điều kiện đòi hỏi phải thoả mãn thì mới có thể giải quyết được vấn đề bệnh tật. Vì vậy nó gây trở ngại cho công tác phòng bệnh và trị bệnh. Nó đã không phân biệt nguyên nhân và điều kiện và cũng không chỉ rõ được vai trò của mỗi yếu tố trong quá trình gây bệnh.
Thuyết "thể tạng" (Constitution) cho rằng nguyên nhân gây bệnh không phải từ bên ngoài tới mà chính là do đặc điểm của cơ thể, do thể tạng của con vật mà ra. Đây là quan niệm của thuyết di truyền máy móc, nó không kể đến các yếu tố ngoại cảnh tác động đến quá trình phát triển và di truyền của sinh vật. Như vậy nó chống lại việc vệ sinh phòng dịch, bảo vệ sức khoẻ cho gia súc ngăn ngừa bệnh tật.
11
2.3. Quan niệm khoa học về bệnh nguyên học
Một số quan niệm đúng đắn về bệnh nguyên học là phải dựa vào phương pháp duy vật biện chứng để nêu lên được mối quan hệ đúng đắn giữa nguyên nhân và điều kiện gây bệnh.
2.3.1. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện gây bệnh Nguyên nhân có vai trò quyết định và điều kiện thì phát huy vai trò tác dụng của nguyên nhân. Nguyên nhân gây bệnh là yếu tố có hại, khi tác động lên cơ thể sẽ quyết định bệnh phát sinh và các đặc điểm của bệnh, ví dụ: Bốn bệnh đỏ của lợn (là bệnh phó thương hàn, tụ huyết trùng, đóng dấu, dịch tả) do bốn nguyên nhân khác nhau gây ra và phát sinh ra bệnh có biểu hiện riêng.
Những yếu tố gây bệnh đó khi vào cơ thể phải đạt cường độ nhất định (độc lực, liều lượng cao...). Đặc điểm của bệnh chính là do nguyên nhân quyết định và chính dựa vào những đặc điểm của bệnh mà ta có thể khám phá ra nguyên nhân để từ đó mà xác định phương pháp cần thiết để điều trị.
Song nguyên nhân gây bệnh chỉ có thể phát huy tác dụng trong những điều kiện cơ thể nhất định, ví dụ: Bệnh tụ huyết trùng gà phát triển dưới tác dụng của vi khuẩn PHsteurella nhưng phải ở cơ thể yếu, dinh dưỡng kém và đặc biệt là khi thời tiết thay đổi đột ngột. Ngược lại, khi có đầy đủ các điều kiện thuận lợi nhưng không có nguyên nhân thì bệnh không thể phát sinh và xảy ra được, nó chỉ phát sinh ra bệnh khác như suy dinh dưỡng, còi xương. Nguyên nhân và những điều kiện nhất định gây nên một bệnh được gọi chúng là những yếu tố bệnh nguyên.
Trong những điều kiện nhất định, nguyên nhân có thể trở thành điều kiện, nghĩa là trong những hoàn cảnh nào đó, một số yếu tố có thể là nguyên nhân nhưng trong hoàn cảnh khác nó có thể trở thành điều kiện. Ví dụ: nuôi dưỡng kém là nguyên nhân của suy dinh dưỡng, thiếu vitamin là nguyên nhân của bệnh thiếu vitamin, song có thể lại là điều kiện cho các bệnh nhiễm khuẩn phát triển. Hoặc bệnh ghép tụ huyết trùng-dịch tả lợn, dịch tả-tụ huyết trùng lợn.
Ví dụ: Khi khẩu phần ăn thiếu protein sẽ gây nên phù do protein trong huyết thanh giảm mà áp lực keo dựa vào nồng độ protein huyết thanh. Nếu protein huyết thanh giảm làm cho áp lực keo trong máu giảm từ đó làm cho nước bị đẩy từ động mạch ra ngoài gian bào gây ra hiện tượng phù (bệnh thận), hoặc khi thiếu vitamin B1 thì cũng gây ra phù.
2.3.2. Quy luật nhân quả trong bệnh nguyên học Mỗi bệnh (tức là hậu quả) đều có nguyên nhân nhất định gây ra và nguyên nhân bao giờ cũng có trước hậu quả. Nguyên nhân gây bệnh dù từ ngoài vào hay từ trong ra đều tác động lên cơ thể sinh ra hậu quả là bệnh. Bất cứ một bệnh nào cũng đều có nguyên nhân nhất định gây nên. Mặc dù hiện nay rất nhiều bệnh chưa tìm được nguyên nhân nhưng ai cũng tin rằng bất cứ bệnh nào cũng phải có nguyên nhân.
Có nguyên nhân nhưng không nhất thiết phát sinh ra hậu quả (tức bệnh) nếu
không có điều kiện thuận lợi.
12
Như trên ta đã nói về mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện, trong đó điều kiện phát huy tác dụng quyết định của nguyên nhân. Song cũng cần phải hiểu
rõ rằng, trong sinh học nói chung cũng như trong y học nói riêng, vì tính chất phức tạp của hiện tượng sống, phản ứng của sinh vật còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố mà trình độ khoa học, kỹ thuật hiện nay còn chưa phát hiện và kiểm soát được. Cho nên đáp ứng của sinh vật đối với yếu tố gây bệnh có thể thay đổi tuỳ theo điều kiện bên ngoài cũng như bên trong. Điều kiện bên ngoài thì muôn hình muôn vẻ, còn điều kiện bên trong thì vô cùng phức tạp cho nên tính phản ứng thường thay đổi theo từng cơ thể. Do vậy, cùng một nguyên nhân trong những điều kiện nhất định thì tác động gây nên bệnh nhưng ở những điều kiện khác thì lại không gây ra bệnh. Cùng một nguyên nhân, có thể có những hậu quả khác nhau tuỳ theo điều kiện, ví dụ: bệnh cúm ở người, khỉ điều kiện sống như nhau nhưng tuỳ thuộc vào từng cá thể mà có người bị nặng, có người bị nhẹ, có người không mắc bệnh. Cùng một nguyên nhân tuỳ nơi tác động và tuỳ theo đáp ứng của cơ thể mà hậu quả (là bệnh) có thể khác nhau, ví dụ: Tụ cầu khuẩn có thể gây nên áp xe khi vào da, gây nên ỉa lỏng khi vào ruột và gây nhiễm khuẩn huyết khi vào máu.
Một hậu quả (triệu chứng bệnh) có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra như viêm, sốt là những quá trình bệnh lý điển hình, trong đó các triệu chứng rất dễ dàng được xác định song lại do rất nhiều nguyên nhân gây nên: cảm lạnh cũng dẫn đến sốt; chấn thương cũng gây nên sốt. Chính đây là khó khăn thường gặp khi đi từ những triệu chứng tới xác định được bệnh và nguyên nhân gây bệnh, đời hỏi phải có phương pháp suy luận đúng đắn và logic để phân biệt giữa hiện tượng và bản chất.
Như vậy một quan niệm khoa học về bệnh nguyên học phải có tính chất toàn diện, nhìn nhận cả vai trò của nguyên nhân, điều kiện cũng như thề tạng. Song mỗi một yếu tố có tầm quan trọng và vị trí nhất định trong quá trình gây bệnh. Ngăn ngừa nguyên nhân, hạn chế tác dụng của điều kiện gây bệnh, tăng cường hoạt động tết của thể tạng, đó là những mặt hoạt động tích cực, là điều kiện quan trọng trong công tác điều trị và phòng bệnh. Điều trị không chỉ tìm ra được nguyên nhân mà còn phải thấy được cả những điều kiện trong đó bệnh cảnh diễn ra.
2.4. Phân loại các yếu tố bệnh nguyên 2.4.1. Yếu tố bệnh nguyên bên ngoài 2.4.1.1. Yếu tố cơ học Chủ yếu là chấn thương cho các mô bào và các cơ quan, hệ thống của cơ
thể.
Hậu quả tại chỗ bị tổn thương, mất máu, nhiễm khuẩn thứ phát...và hậu quả
toàn thân là cơ thể bị sốc.
2.4.1.2. Yếu tố lý học - Nhiệt độ: Nếu nhiệt độ quá 500C có thể gây biến tính các protein và men trong tế bào,
ảnh hưởng xấu tới chức năng hoặc gây chết tế bào.
13
Nếu nhiệt độ quá cao: gây viêm, bỏng hoặc cháy tại chỗ tiếp xúc; Nếu nhiệt độ đủ cao và tác đụng lên toàn thân: gây nhiễm nóng;
Nhiệt độ quá lạnh gây tê cóng, hoại tử tại chỗ tiếp xúc hoặc gây nhiễm lạnh
khi tác động lên toàn thân.
- Tia phóng xạ: Gây huỷ hoại các men tế bào, tác hại tương tự nhiệt độ trên 500C nhưng chủ yếu là tác hại lên ADN, nhất là khi tế bào đang phân chia (như tế bào non ở tuỷ xương). Cơ chế tác động: tia.xạ với năng lượng mang theo chúng tạo ra các sản phẩm ton hóa và các gốc tự do, gây rối loạn chuyển hóa cho tế bào, kể cả gây chết tế bào.
- Dòng điện: tuỳ thuộc diện tiếp xúc rộng hay hẹp và điện trở thấp hay cao. Tuỳ thuộc vào điện áp: điện áp càng cao thì càng nguy hiểm, nhất là từ
220V trở lên.
Tuỳ thuộc vào dòng điện: dòng một chiều tác dụng rất nhanh; dòng xoay
chiều: tần số 25-50 rất nguy hiểm.
Có thể gây bệnh tại chỗ (bỏng) hay toàn thân. Tuỳ thuộc cơ quan (nếu dòng điện qua tim, não gây nguy hiểm; qua cơ gây
co
cứng). Tuỳ thuộc vào khả năng điện ly của các dịch trong cơ thể. 2.4.1.3. Yếu tố hóa học và độc chất Tuỳ bản chất hóa học và liều lượng của hóa chất mà có thể gây bệnh tại chỗ
(nơi
tiếp xúc) hay toàn thân (khi xâm nhập vào cơ thể) với các cơ chế rất khác
nhau.
Hai cách tác động chủ yếu là gây tổn thương, phá huỷ (hoại tử, tan huyết...), hoặc gây rối loạn chuyển hóa, suy giảm hay kích thích quá mức chức năng cơ quan (ngộ độc, suy thận, suy gan, hôn mê, co giật...).
Các axit mạnh, kiềm mạnh và một số chất khác có thể gây bỏng, cháy, hoại
tử da và niêm mạc khi tiếp xúc.
Nhiều chất có tác dụng huỷ men trong tế bào, hoặc gây ngộ độc toàn thân do làm rối loạn chuyển hóa (với các cơ quan đích khác nhau nhất là các cơ quan tích luỹ và đào thải chúng như gan, thận) với mức độ, hậu quả khác nhau.
Các chất hóa học bao gồm: Chất vô cơ (chì, hợp chất thuỷ ngân, arsenic...); Các chất hữu cơ (benzen, phenylhydrazin, một số dược chất nếu quá liều...); + Một số sản phẩm của động vật hay thực vật (nọc rắn, nọc bò cạp, chất độc trong mật cá trắm, gan cóc, trong một số nấm độc, lá ngón, lá han...).
2.4.1.4. Yếu tố sinh học Bao gồm các loại sinh vật, vi khuẩn, vi rút, ký sinh trùng, côn trùng. Tuỳ
theo nguyên nhân gây bệnh mà người ta xếp vào hai loại bệnh đó là:
14
Bệnh truyền nhiễm Bệnh ký sinh trùng 2.4.2. Yếu tố bệnh nguyên bên trong
2.4.2.1. Yếu tố di truyền Đó là những biến đổi bệnh lý thông qua cơ chế di truyền từ thế hệ trước sang thế hệ sau qua tế bào sinh dục mang đến bệnh. Qua nghiên cứu người ta đã thấy, một số bệnh phát sinh là do thiếu một số tiền chỉ huy tổng hợp nên các loại men, mà thiếu các men ấy sẽ phát sinh ra bệnh. Ví dụ: Bệnh phenylxeton niệu là do thiếu men pHrahyđroxylaza nên phenylalanin không chuyển thành tyrôxin được mà phân huỷ thành phenylxeton và được đào thải ra ngoài qua nước tiểu.
Yếu tố di truyền có thể cũng là điều kiện để cho bệnh phát sinh. một số con giả súc cái ấy không biểu hiện ra bệnh nhưng mang gen lặn trong nhiễm sắc thể. Ví dụ trên lặn mang bệnh có ký hiệu là x+, đen không bệnh ký hiệu là x, con cái có ký. hiệu là Xx+, con đực không có bệnh có ký hiệu là XY. Ta có sơ đồ sau:
1/2 số con đực (x+Y) sinh ra mắc bệnh
Như vậy 1/2 số con cái (x+X) sinh ra mang gen bệnh Nếu cả con đực và cái mang đến bệnh thì khi chúng giao phối ta có sơ đồ
sau:
Như vậy ta thấy: 1/2 số con đực sinh ra mắc bệnh (x+Y) 112 số con cái sinh ra mắc bệnh (x+x+) 1/2 số con cái sinh ra mang đến bệnh (x+X) Tóm lại chỉ có 1/4 số con sinh ra là khoẻ mạnh và 3/4 số con khác là mắc
bệnh hoặc mang đến bệnh.
Lưu ý: Có một số trường hợp trước không bị bệnh nhưng do bị đột biến trên sau khi bị chất phóng xạ hoặc bị nhiễm độc hóa học đã trở thành người mang đến bệnh và di truyền được.
2.4.2.2. Yếu tố thể tạng Thể tạng có thể định nghĩa như là tổng hợp các đặc điểm chức năng và hình thái của cơ thệ. Những đặc điểm này khá bền vững, được hình thành trên cơ sở tính di truyền và quyết định những.phản ứng của cơ thể đối với tác nhân bên ngoài trong quá trình sống. Như vậy thể tạng có tính chất rất phức tạp trong đó yếu tố di truyền đóng vai trò chủ chốt, quyết định. Trước một yếu tố gây bệnh, những cơ thể có thể tạng khác nhau sẽ có đáp ứng khác nhau hay nói cách khác thể tạng là cơ sở vật chất của tính phản ứng và chịu ảnh hưởng của một số yếu tố nhất định như chủng loại, giới tính, tuổi tác, hoạt động của hệ thần kinh, nội tiết và môi trường mà trong đó con vật sinh sống. Cho nên thay đổi môi trường sống có thể làm thay đổi phản ứng tính của cơ thể và do đó làm thay đổi phần nào thể tạng.
Ví dụ: Bệnh chậm thể tạng giống như bệnh Eczema do cơ thể thích hợp với một loại nấm nào đó, cho nên không thể chữa được nhưng không lây lan sang người khác, mà nó được di truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.
15
3. ĐẠI CƯƠNG VỀ BỆNH SINH HỌC
3.1. Định nghĩa Bệnh sinh học hay sinh bệnh học (Pathogenesis) là môn khoa học nghiên cứu những quy luật cơ bản của sự phát sinh, phát triển, diễn biến và kết thúc của một quá trình bệnh lý hay cơ chế sinh bệnh.
Đối với mỗi một bệnh như ta đã biết đều có một nguyên nhân nhất định tác động và sau đó là sự phát sinh diễn biến của bệnh. Vì vậy nắm được cơ chế sinh bệnh là yêu cầu cơ bản trong công tác phòng trị bệnh, trên cơ sở đó có thể ngăn chặn sớm được những diễn biến xấu của bệnh, hạn chế được tác hại, đồng thời xác định những biện pháp tích cực để bảo vệ đàn vật nuôi.
3.2. Ảnh hưởng của bệnh nguyên tới quá trình bệnh sinh Cùng một yếu tố bệnh nguyên liều lượng, thời gian tác dụng và vị trí nhưng
bệnh sinh có thể thay đổi tuỳ theo cường độ, trí tác dụng của bệnh nguyên. 3.2.1. Ảnh hưởng của cường độ và đều lượng bệnh nguyên Có rất nhiều bằng chứng và ví dụ trong thực tiễn nói lên hai yếu tố này của
bệnh nguyên ảnh hưởng lớn tới quá trình bệnh sinh.
Cùng tác động vào một vị trí trên cơ thể nhưng cường độ dòng điện hoặc các tác nhân vật lý khác như nhiệt độ, tia xạ, ánh sáng, lực cơ học... mạnh hay yếu sẽ làm bệnh diễn ra rất khác nhau.
Cùng một chất độc, cùng một đường xâm nhập nhưng liều lượng khác nhau
(lớn hay nhỏ) sẽ gây ra những bệnh có diễn biến khác nhau.
Cùng một loại vi khuẩn, nếu độc lực hay số lượng khác nhau cũng làm bệnh
sinh diễn ra không giống nhau.
Các tác nhân hóa học và sinh học khác cũng có ảnh hưởng tương tự. Những yếu tố vốn không gây bệnh lại có thể gây bệnh nếu cường độ và số lượng đạt một ngưỡng nào đó. âm thanh có cường độ cao, hoặc không khí có áp lực quá ngưỡng đều trở thành những yếu tố bệnh nguyên rất hiệu quả.
3.2.2. Thời gian tác dụng của bệnh nguyên Những yếu tố bệnh nguyên có cường độ cao hay liều lượng lớn thường chỉ cần thời gian ngắn cũng đủ làm bệnh phát sinh. Nếu cường độ thấp hơn hoặc liều lượng nhỏ hơn thì thường cần thời gian tác động dài hơn. Nhưng điều đáng lưu ý là diễn biến của bệnh cũng thường thay đổi.
Ví dụ: khi ăn lạc bị mốc trong thời gian dài có thể dẫn tới mắc bệnh ung thư; tiếng ồn dù cường độ không cao nhưng nếu cứ tác động liên tục ngày đêm lên cơ quan thính giác sẽ gây bệnh và diễn biến của bệnh khác hẳn trường hợp cơ thể chịu một âm thanh cường độ quá cao (tiếng nổ).
Tương tự như vậy, tác dụng lặp đi lặp lại nhiều lần của một yếu tố bệnh
nguyên dù chưa đạt ngưỡng cũng có thể sinh bệnh (lượn, mất ngủ).
16
3.2.3. Vị trí tác dụng của bệnh nguyên Mỗi cơ quan của cơ thể phản ứng khác nhau với cùng một bệnh nguyên. Mặt khác, tầm quan trọng sinh học của mỗi cơ quan cũng không giống nhau. Do vậy, vị trí tác động của bệnh nguyên trên cơ thể ảnh hưởng rất rõ tới bệnh sinh.
Bệnh cảnh, diễn biến của bệnh lao rất khác nhau, tuỳ theo đó là lao phổi, lao
xương, lao thận hay lao màng não tuy bệnh nguyên là một.
Bệnh nguyên dù cùng một cường độ và liều lượng nhưng gây được bệnh hay không, nặng hay nhẹ, cấp tính hay mãn tính còn tuỳ thuộc vị trí tác động. ánh sáng chói chỉ gây được bệnh nếu chiếu vào võng mạc mà không phải vào đâu khác. Chấn thương vào đầu có bệnh cảnh khác hẳn vào cơ bắp hay vào xương. Dòng điện chạy qua tim hoặc qua não gây hậu quả khác hẳn qua các chi.
Ví dụ: Bệnh lậu ở người: khi cầu khuẩn lậu tác dụng ở đường sinh dục gây
viêm mãn tính, còn khi cầu khuẩn lậu ở giác mạc mắt gây viêm cấp tính. 3.2.4. Đường lây lan của nguyên nhân bệnh trong cơ thể Đường lây lan thường phụ thuộc vào tính chất của nguyên nhân bệnh và vị
trí sinh bệnh. Thông thường bệnh nguyên lan theo ba đường chính: ,
Lan theo tổ chức: từ nơi phát bệnh lan rộng ra vùng lân cận tiếp giáp. Lan theo dịch thể: thường các yếu tố bệnh nguyên là độc tố, vi khuẩn, vi rút
lan theo dịch lâm ba, máu đến toàn thân.
Lan theo thần kinh: các yếu tố bệnh nguyên còn là những xung động đau.
Các loại vi rút như vi rút bệnh dại, độc tố uốn ván lan theo thần kinh.
Trong thực tế khi bệnh phát sinh thì yếu tố bệnh nguyên có thể lan theo nhiều đường chứ không phải lan theo một đường riêng biệt, vì trong kết cấu tổ chức của cơ thể sinh vật nơi nào cũng có mặt các hệ thống mạch quản, thần kinh và mạch lâm ba. Vì vậy, chúng ta phải xem xét những bệnh nào lan theo đường nào là chủ yếu để biết và kịp thời ngăn chặn.
3.3. Quan hệ giữa cục bộ và toàn thân trong quá trình bệnh sinh Theo thuyết thần kinh của Páp-lốp thì cơ thể là một khối thống nhất, các cơ quan, mô bào đều có sự liên hệ chặt chẽ với nhau và chịu sự điều tiết chung của thần kinh. Bất cứ một cơ thể nào, hoạt động nào cũng đều chịu sự điều tiết chung của vỏ não. Vì vậy các quá trình bệnh lý dù xảy ra ở bộ phận cục bộ nào cũng phụ thuộc vào trạng thái chung của cơ thể và ngược lại thông qua cung phản xạ nó ảnh hưởng tới toàn thân.
3.3.1. Mối Liên hệ giữa toàn thân và cục bộ Toàn thân khoẻ mạnh thì sức đề kháng tại chỗ cũng sẽ tốt hơn, do đó yếu tố gây bệnh khó xâm nhập hoặc nếu có vào được thì cũng nhanh chóng bị tiêu diệt hoặc bị đào thải ra ngoài. Ngoài ra, ta thấy tuổi có liên quan đến sức đề kháng. Tuổi trưởng thành cơ thể khoẻ mạnh, vết thương mau lành, phản ứng nhanh, tuổi già dễ mắc bệnh, phản ứng kém, vết thương lâu lành.
17
3.3.2. Mối liên hệ giữa cục bộ và toàn thân Bất kỳ một tổn thương nào (viêm nhiễm) ở cục bộ cũng đều ảnh hưởng tới toàn thân, đầu tiên thấy đau, cơ thể mệt mỏi, các chất độc tại ổ viêm sẽ ngấm vào cơ thể gây trạng thái nhiễm độc. Thành phần của máu thay đổi, nếu bạch cầu đa nhân trung tính mà tăng lên thì nhất định sẽ bị viêm nhiễm ở một nơi nào đó và gây sốt toàn thân, đồng thời làm thay đổi hoạt động của hệ thống nước tiểu. Như vậy,
khi cục bộ bị tổn thương thì tất cả các cơ quan khác tăng cường hoạt động, cơ quan hô hấp thay đổi, cơ quan tiêu hóa giảm, tiết sữa giảm vì tất cả tập trung lực lượng vào đấu tranh bảo vệ cơ thể.
Vì vậy có thể nói bất kỳ một quá trình bệnh lý nào cũng biểu hiện tại chỗ
của tình trạng bệnh lý toàn thân.
Ý nghĩa: Nắm được điều này giúp ta chăm sóc hộ lý tốt hơn. 3.4. Vòng bệnh lý Bệnh diễn ra theo trình tự gồm các bước (gọi là các khâu) nối tiếp nhau theo cơ chế phản xạ, khâu trước là tiền đề tạo điều kiện cho khâu sau hình thành và phát triển, cho tới khi bệnh kết thúc.
Nhiều trường hợp, một khâu nào đó ở phía sau lại trở thành tiền đề (nuôi dưỡng) cho một khâu trước đó: từ đó hình thành một vòng bệnh lý, với đặc điểm là có khả năng tự duy trì. Vòng này có thể diễn biến cấp tính hoặc kéo dài. Trong đa số trường hợp, vòng bệnh lý làm cho quá trình bệnh sinh ngày càng nặng hơn, có thể quan sát dễ dàng qua các biểu hiện lâm sàng.
Thường thì vòng bệnh lý không tự mất đi mà cần có sự can thiệp. Khi phát
hiện vòng bệnh lý cần tìm cách cắt đứt nhiều khâu, nhất là khâu chính.
Sau đây là một vài ví dụ: Ở bệnh lợn đóng dấu mãn tính, vi khuẩn lợn đóng dấu gây viêm nội tâm mạc, loét sùi van tim, do đó ảnh hưởng tới tuần hoàn chung gây thiếu oxy. Từ thiếu oxy gây vrối loạn chuyển hóa rồi tác động trở lại gây phì đại tim dẫn đến suy tim. Khi suy tim dẫn đến thiếu oxy và lặp lại thành vòng kín.
Khi đột ngột mất đi 20% lượng máu, cơ thể sẽ huy động một loạt biện pháp do hệ giao cảm và hệ tim mạch chi phối nhằm bù đắp một phần khối lượng máu, duy trì huyết áp ở mức cần thiết tối thiểu, đảm bảo cơ bản về lưu lượng tuần hoàn và nhu cầu oxy cho các cơ quan quan trọng nhất. Cơ thể thích nghi dần, vòng bệnh lý sẽ không hình thành trong thời gian chờ đợi tuỷ xương sản xuất đủ lượng hồng cầu cần thiết. Nếu mất tới 40% lượng máu, các biện pháp trên chỉ giúp cơ thể thích nghi được một thời gian ngắn và mẫu thuẫn sẽ phát sinh, hệ tim mạch bị quá tải chức năng lại kém được nuôi dưỡng. Có thể thấy huyết áp tụt dần, mạch nhanh và yếu dần, kèm theo tình trạng lơ mơ, da lạnh, thể trạng xấu dần đi... Để ra khỏi tình trạng trên, hệ giao cảm và tuần hoàn lại càng phải tăng công suất. Như vậy vòng bệnh lý đã hình thành.
Ý nghĩa: Nắm được sự tiến triển của bệnh, ta có thể phát hiện được khâu chính trong quá trình sinh bệnh và có tác động cần thiết ngăn cản diễn biến xấu của vòng bệnh lý.
Qua đây thấy rằng khâu chăm sóc hộ lý nhằm cắt được vòng bệnh lý đi là
khâu vô cùng quan trọng.
18
3.5. Các hiện tượng bệnh lý Trong một cơ thể bị bệnh ta có thể nhìn thấy được nhiều hiện tượng bệnh lý khác nhau. Chúng ta cần phải phân biệt và xác định những hiện tượng đó một cách chính xác. Các hiện tượng đó là:
3.5.1. Phản ứng bệnh lý Phản ứng bệnh lý là phản ứng của tế bào, của tổ chức hay cơ quan đối với
tác nhân gây bệnh với cường độ và chất lượng vượt ra ngoài giới hạn bình thường.
Ví dụ: Khi bị lạnh, cơ thể phản ứng lại bằng cách co mạch giảm thải nhiệt, tăng sản nhiệt trong cơ thể, đó là phản ứng sinh lý. Nếu co mạch quá mức dẫn đến thiếu máu từ đó dẫn đến hoại tử cơ. Nhưng nếu trung tâm điều hoà nhiệt bị rối loạn dẫn đến hoạt động quá mức của cơ quan sinh nhiệt thì sinh ra sốt, còn trong một số bệnh khác thì biểu hiện ho, nôn... ve thực chất đó là phản ứng bảo vệ sinh lý nhưng nếu quá mức thì sẽ gây bệnh.
3.5.2. Quá trình bệnh lý Quá trình bệnh lý là một phức hợp gồm nhiều phản ứng bệnh lý. Ví dụ: Trong quá trình viêm người ta thấy có phản ứng vận mạch (co, giãn mạch), phản ứng tăng sinh tế bào, phản ứng của thần kinh... Trong quá trình sốt ngoài phản ứng tăng sản nhiệt còn có nhiều phản ứng nhằm giảm thải nhiệt.
Quan niệm về quá trình bệnh lý có tính chất động, nó bao gồm cả quá trình
diễn biến của bệnh.
3.5.3. Trạng thái bệnh lý Là một quá trình bệnh lý biến chuyển chậm, kéo dài thành cố tật. Ví dụ: Những người bị liệt, những người bị viêm khớp sau khi khỏi để lại vết viêm làm cho khớp không cử động được nữa hoặc là viêm vú làm cho tuyến vú teo đi không cho sữa.
3.6. Các giai đoạn phát triển của bệnh Trong quá trình phát triển của bệnh, cơ thể có những biến đổi khác với khi ở trạng thái bình thường. Đặc trưng cho những biến đổi đó là triệu chứng. Khi các nguyên nhân gây bệnh tác động gây những biến đổi trong cơ thể biểu hiện ra bên ngoài gọi là triệu chứng. Hoặc triệu chứng là những biểu hiện của động vật sống được quan sát và miêu tả như bỏ ăn, ỉa chảy, bồn chồn, mất nước... và là kết quả của những biến đổi tổ chức. Triệu chứng của bệnh thì muôn hình, muôn vẻ, nó bao gồm nhiều biến đổi về hoạt động, về chức năng, biến đổi về chuyển hóa vật chất, biến đổi về thân nhiệt, về hô hấp, về tim mạch đến những thay đổi về thành phần của máu, nước tiểu và cơ, sự biến đổi về hình thái của cơ quan hay tổ chức.
Triệu chứng thay đổi tuỳ theo các loại bệnh khác nhau, tuỳ theo từng giai đoạn phát triển của bệnh. Triệu chứng phụ thuộc vào đặc điểm cơ thể vào lứa tuổi vào quá trình phát triển của bệnh, phụ thuộc vào môi trường ngoại cảnh bên ngoài.
19
Nhìn chung quá trình phát triển của bệnh không những diễn biến theo những quy luật nhất định mà quá trình này còn có tính chất giai đoạn nhất định. Người ta thường chia ra bốn thời kỳ cơ bản trong quá trình phát triển của bệnh. Sự phân chia này có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu và giúp cho việc phòng trị bệnh được chính xác hơn. Tuy nhiên, việc định ra ranh giới các thời kỳ một cách rõ ràng chính xác là rất khó khăn, cho nên sự phân chia ra các thời kỳ cũng chỉ là tương đối trong quá trình phát triển liên tục của bệnh.
Dựa vào các triệu chứng người ta phân chia ra thành các thời kỳ phát triển
của bệnh như sau:
3.6.1. Thời kỳ nung bệnh (thời kỳ ủ bệnh) Thời kỳ nung bệnh được bắt đầu từ khi nguyên nhân bệnh xâm nhập vào cơ thể hoặc là nguyên nhân bệnh bắt đầu phát huy tác dụng cho đến khi mà cơ thể có những phản ứng đầu tiên. Lúc này nguyên nhân bệnh chưa đủ số lượng và độc lực để làm cho bệnh phát triển, đồng thời sức đề kháng của cơ thể còn mạnh, vì thế chưa có những phản ứng biểu hiện của bệnh. Cơ thể cũng có thể tiêu diệt nguyên nhân bệnh, bệnh không phát hoặc có thể tiến triển sang một giai đoạn khác. Thời kỳ này dài hay ngắn là phụ thuộc vào các yếu tố sau đây: Số lượng, độc lực và cường độ tác động của nguyên nhân bệnh. Trạng thái cơ thể và tính mẫn cảm của cơ thể đối với sự tác động của
nguyên nhân.
Vị trí mầm bệnh xâm nhập. Điều kiện ngoại cảnh (cả điều kiện bên ngoài: thời tiết khí hậu, chế độ dinh
dưỡng, chế độ chăm sóc quản lý...).
Ý nghĩa: Nắm được thời kỳ nung bệnh, chúng ta có biện pháp phòng bệnh bằng cách là cách ly các gia súc chưa biết được lý lịch của nó và nuôi cách ly trong khoảng thời gian một tháng để theo dõi tình hình bệnh.
3.6.2. Thời kỳ tiền phát (thời kỳ tiền chứng) Thời kỳ này bắt đầu từ khi cơ thể có những phản ứng đầu tiên đến khi bắt đầu xuất hiện những triệu chứng chủ yếu. Ở giai đoạn này, nguyên nhân bệnh tác động mạnh làm cho cơ thể thay đổi toàn bộ các phản ứng, khả năng thích nghi của con vật đã giảm sút, con vật có một số biểu hiện dấu hiệu của bệnh gọi là tiền chứng.
Ví dụ: Trạng thái con vật thay đổi ủ rũ, bỏ ăn, hay nằm, thậm chí nằm không yên, nếu đo nhịp tim có thể nhanh, hô hấp tăng, thân nhiệt cao, sung huyết ở niêm mạc...
Ý nghĩa: Căn cứ vào triệu chứng này ta có biện pháp hộ lý tốt hơn, chăm sóc tốt hơn và bước đầu chẩn đoán thăm dò, dựa vào dịch tễ học (mùa vụ, vùng, lứa tuổi...) bắt đầu sơ chẩn sau đó ta điều trị thăm dò. Giai đoạn này vô cùng quan trọng nên ta cần chú ý.
20
3.6.3. Thời kỳ toàn phát
Bắt đầu từ khi cơ thể có những triệu chứng rõ rệt, triệu chứng điển hình cho từng bệnh cho đến khi cơ thể có những chuyển biến nhất định. Ở thời kỳ này nguyên nhân bệnh phát triển cực độ, sức đề kháng của con vật giảm, cơ thể có những cơ năng rối loạn nghiêm trọng.
Ý nghĩa: Dựa vào các bệnh đã biết để có biện pháp đối phó với từng bệnh một theo truyền nhiễm học để xử lý, nếu với số lượng lớn phải báo ngay cho cơ quan chức năng cấp trên để có biện pháp phòng ngừa.
3.6.4. Thời kỳ kết thúc Thời kỳ này dài hay ngắn chủ yếu phụ thuộc vào từng loại bệnh và đặc biệt là có sự can thiệp của Bác sĩ Thú y. Cơ thể bệnh dần dần thuyên giảm, cường độ các triệu chứng giảm dần rồi mất hết hoặc nó có thể tiếp tục theo vòng bệnh lý và con vật có thể chết khi bị nặng hơn. Thời kỳ kết thúc của bệnh tuy phức tạp nhưng thường diễn biến dưới ba hình thức khác nhau:
3.6.4.1. Khỏi hoàn toàn Các nguyên nhân gây bệnh bị tiêu diệt hoàn toàn, các triệu chứng bệnh biến mất, rối loạn về cơ năng, tổn thương về hình thái tế bào, mô và các cơ quan được phục hồi, cơ thể trở lại trạng thái bình thường, khả năng lao động và năng suất được phục hồi hoàn toàn. Riêng đối với một số bệnh truyền nhiễm thì khả năng phản ứng của cơ thể thay đổi, phát sinh trạng thái miễn dịch đối với bệnh vừa mắc (bệnh đậu, bệnh tỵ thư).
3.6.4.2. Khỏi không hoàn toàn Bệnh không hết hẳn, các nguyên nhân bệnh bị tiêu diệt nhưng không hoàn toàn, nó có thể cư trú trong các tế bào, đặc biệt là trong các tế bào thực bào hoặc một khu vực nào đó mà không phát huy tác dụng. Ngoài ra, khỏi không hoàn toàn còn gồm: Để lại dị chứng: bệnh đã hết nhưng hậu quả về giải phẫu và chức năng thì vẫn còn lâu dài (sau viêm não trí khôn giảm sút; gãy xương đã liền nhưng có dị lệch, khó cử động, viêm nội tâm mạc đã hết nhưng để lại dị chứng hẹp van tim, xuất huyết não đưa đến liệt một chi,…).
Để lại trạng thái bệnh lý: diễn biến rất chậm và đôi khi có thể xấu đi, khó khắc phục. Ví dụ: do chấn thương, bị cắt cụt một ngón tay; vết thương còn để lại sẹo lớn...
3.6.4.3. Chết Chết là giai đoạn cuối cùng của sự sống, do rối loạn cao độ mà cơ thể không
thể thích ứng được với các điều kiện ngoại cảnh.
Chết có hai từ rìa hơn là chết sinh lý và chết bệnh lý. Chết sinh lý: do tiêu hóa năng lượng trong quá trình sống giảm dần theo tuổi tác, già cỗi, suy nhược đến một giai đoạn cơ thể không có khả năng thích ứng được với yếu tố ngoại cản
Chết bệnh lý: cơ thể phải trải qua một quá trình bệnh lý do các nguyên nhân
21
tác động gây những rối loạn nghiêm trọng không thể khôi phục được.
Chết là một quá trình, trong trường hợp điển hình gồm các giai đoạn sau: + Giai đoạn ngưng cuối cùng: tim và hô hấp ngừng tạm thời (trong vòng 0,5 - 1 ,5 phút), mất phản xạ mắt, đồng tử mở rộng, vỏ não bị ức chế, các hoạt động sống đều bị giới hạn.
Giai đoạn hấp hối: xuất hiện hô hấp trở lại - thở ngáp cá, tim đập yếu, phản xạ có thể xuất hiện trong thời kỳ này, hoạt động của tuỷ sống ở mức tối đa để duy trì các chức năng sinh lý, có thể kéo dài thời kỳ này từ một vài phút đến nửa giờ.
Giai đoạn chết lâm sàng: hoạt động của tim, phổi ngừng, thần kinh trung ương hoàn toàn bị ức chế. Thời gian chết lâm sàng có thể kéo dài 5-6 phút, trong thời gian đó có thể hồi phục được. Còn nếu không hồi phục được gọi là chết sinh vật.
Giai đoạn chết sinh vật: mọi khả năng hồi phục không còn nữa, rối loạn chủ yếu hệ thần kinh trung ương. Trong chết sinh vật, các cơ quan, tổ chức trong cơ thể không chết cùng một lúc mà trước tiên là hệ thần kinh cao cấp rồi đến tuần hoàn, hô hấp...
Những nguyên nhân chính dẫn đến chết: Ngừng hoạt động của tim như liệt tim, vỡ tim, tắc mạch. Ngừng hô hấp, liệt trung khu hô hấp do xuất huyết não, thiếu máu hành tuỷ,
bị ngộ độc.
3.7. Cơ chế phục hồi sức khoẻ Sau một quá trình bệnh lý thì cơ thể vật bệnh có thể phục hồi được sức khoẻ. Sức khoẻ chỉ được phục hồi sau khi nguyên nhân gây bệnh ngừng tác động, trạng thái cơ thể khi đó trở lại bình thường, tính hoàn chỉnh và giá trị kinh tế của nó được phục hồi. Khi yếu tố gây bệnh tác động thì cơ thể luôn luôn có phản ứng bảo vệ hay thích ứng. Cơ chế này có vai trò quan trọng trong sự phục hồi sức khoẻ.
Ví dụ: Yếu tố bệnh nguyên kích thích lên niêm mạc miệng, khi đó cơ thể có phản ứng tăng tiết nước bọt và dịch nhầy. Nếu yếu tố bệnh nguyên tác động vào niêm mạc mắt thì phản ứng tiết lệ được tăng cường; tác động vào đường hô hấp thì phản ứng ho, hắt hơi; tác động vào đường tiêu hóa sẽ gây nôn.
22
Trong cơ thể xuất hiện phản ứng miễn dịch khi bị nhiễm khuẩn, phản ứng lành vết thương, đông máu khi tổ chức bị tổn thương, rách nát. Cơ thể còn có phản ứng bù đắp những cơ quan có từng cặp như thận, phổi, mắt. Khi chức năng của một trong cặp cơ quan đó bị tổn thương thì chức năng của cơ quan kia sẽ tăng cường hoạt động nhằm bù đắp lại Riêng trong hệ thống tuần hoàn, khi bị mất máu huyết áp được khôi phục một cách nhanh chóng do phản ứng co huyết quản, tăng hút nước vào lòng mạch, tăng nhịp tim và hô hấp, tăng hoạt động của các cơ quan tạo máu, hoặc khi hàm lượng oxy trong máu giảm, gây rối loạn trao đổi chất dẫn tới sự ứ đọng các sản phẩm trao đổi trung gian, các sản phẩm này có toan tính nên làm giảm lượng kiềm dự trữ trong cơ thể, dẫn tới hiện tượng nhiễm axit, gây rối loạn hoạt động của hệ thống thần kinh trung ương, rối loạn chức năng của các cơ quan khác như tăng hô hấp để nhanh chóng đào thải axit hơi, tăng giữ muối kiềm tại thận để điều hoà axit - bazơ.
Cơ chế bảo vệ của cơ thể khi bị nhiễm khuẩn là tăng hoạt động của hệ thống lưới nội mạc, tăng cường việc tạo ra kháng thể, tăng hiện tượng thực bào của các bạch cầu. Qua các giai đoạn của bệnh, cường độ phản ứng bảo vệ cơ thể có thể khác nhau, có khi mức độ cao, không đồng bộ có hại cho cơ thể như hiện tượng sốt là phản ứng bảo vệ của cơ thể, nó làm tăng sinh kháng thể, tăng khả năng thực bào của bạch cầu nhưng nếu sốt quá cao có thể gây nguy hại đến chức năng của hệ thần kinh và hệ tuần hoàn.
Hệ thống thần kinh trung ương có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo vệ cơ thể và trong quá trình khôi phục sức khoẻ. Điều đó được chứng minh trong các thí nghiệm là khi gây mê ức chế vỏ não, các quá trình tăng sinh và tái sinh đều giảm, huyết áp khôi phục chậm sau khi mất máu, giảm phản ứng miễn dịch...
4. TÍNH PHẢN ỨNG CỦA CƠ THỂ VÀ BỆNH LÝ CỦA QUÁ TRÌNH
MIỄN DỊCH
4.1. Tính phản ứng của cơ thể 4.1.1. Khái niệm về tính phản ứng của cơ thể Trước tác động của một kích thích nào đó (gây bệnh, hoặc không gây bệnh), cơ thể động vật đáp ứng lại bằng một hay nhiều phản ứng. Trước một kích thích nhất định, có loại phản ứng là chung cho nhiều loài, ví dụ: đồng tử co nhỏ lại khi ánh sáng đủ cường độ chiếu vào võng mạc; tăng glucoza huyết khi đau đớn... Có loại phản ứng chỉ là chung cho các cá thể trong một loài; và có loại phản ứng của cá thể (không hoàn toàn giống nhau giữa các cá thể của một loài). Ví dụ, phản ứng chung của mọi người là tăng nhịp tim khi bị stress nhưng có người tăng quá nhiều (quá hồi hộp, lo lắng), ngược lại, có người lại tăng rất ít. Nếu nhiều cá thể có chung một phản ứng trước một kích thích, người ta xếp họ thành nhóm và thành kiểu phản ứng.
Đa số các phản ứng in đậm dấu vết di truyền mang tính bẩm sinh nhưng cũng có nhiều phản ứng hình thành trong quá trình sống, chịu ảnh hưởng của tuổi, giới tính, trạng thái thần kinh-nội tiết, môi trường, thời tiết,...
Vậy tính phản ứng là tập hợp các đặc điểm phản ứng của cơ thể trước các kích thích nói chung và trước bệnh nguyên nói riêng. Tính phản ứng khác nhau có thể làm quá trình bệnh sinh ở mỗi cá thể và mỗi nhóm không giống nhau, đưa lại các kết quả khác nhau (tết, xấu, nặng, nhẹ).
4.1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến tính phản ứng 4.1.2.1. Thần kinh - Trạng thái vỏ não: Nếu vỏ não ở trạng thái hưng phấn, thường tạo ra những phản ứng mạnh và nếu ức chế thì ngược lại. Con vật bị gây mê đáp ứng kém với các kích thích (tiêm adrenalin, mất máu,...) so với khi nó còn tỉnh.
Loại hình thần kinh: loại hình thần kinh mạnh cân bằng thì tính phản ứng mạnh, nhanh chóng; loại hình thần kinh mạnh không cân bằng thì tính phản ứng mạnh nhưng kéo dài; loại hình thần kinh yếu thì tính phản ứng yếu.
23
Vai trò thần kinh thực vật: nếu kích thích thần kinh giao cảm thấy tăng quá trình trao đổi chất và tăng tính phản ứng nói chung đối với protein lạ, vi khuẩn,
hormon. Còn nếu kích thích thần kinh phó giao cảm thì sẽ tăng cường việc tạo ra kháng thể, tăng phản ứng bạch cầu, tăng khả năng ngăn cản của gan và hệ thống bạch huyết.
4.1.2.2. Vai trò nội tiết Các tuyến nội tiết như: tuyến yên, tuyến thượng thận, tuyến giáp trạng, tuyến tuỵ đều ảnh hưởng đến tính phản ứng của cơ thể nhưng chủ yếu là tuyến yên và vỏ thượng thận.
Theo nhà bác học Hans Selye: Bất cứ một tác động mạnh nào tác động vào cơ thể đều gây ra một chuỗi phản ứng. Chuỗi phản ứng này kết hợp với nhau thành hội chứng chung mà cơ sở hoạt động của nó là các tuyến nội tiết. Cụ thể là hom lon của tuyến yên adrenocorticotropic hormon (ACTH) và vỏ thượng thận. Khi bị kích thích mạnh thì các trung tâm dưới thị tiết ra một số hom lon thần kinh (hay yếu tố giải phóng), các hormon này được dẫn tới tuyến yên bằng đường máu làm tăng tiết ACTH và cortisol và sau đó tiết STH dẫn đến kích thích tiết ra aldosteron.
Vai trò của ACTH và cortisol: có tác dụng chống hiện tượng viêm và chống dị ứng Chống hiện tượng viêm đặc hiệu hạn chế các phản ứng thực bào, ức chế phát triển các tổ chức liên kết, tổ chức hạt, giảm tính thấm của thành mao mạch, cho nên làm giảm hiện tượng phù nề và tiết dịch. Mặt khác người ta thấy nó hạn chế sự hình thành mao mạch tân tạo, giảm viêm đặc hiệu, làm thoái biến các tổ chức bạch huyết, làm tan vỡ các tương bào, lympho bào dẫn đến giảm kháng thể.
Vai trò của STH (Somatotropic hormon) và aldosteron: có tác dụng đối lập với hai nhóm hormon trên. STH làm tăng quá trình viêm, kích thích tổ chức liên kết tăng sinh qua đó chống nhiễm trùng, chống hoại tử tổ chức. STH làm tăng tổ chức bạch huyết, tăng tổng hợp globulin và kháng thể. Aldosteron chủ yếu điều hoà nước và điện giải, ngược lại của cortisol tăng tính viêm, tăng sinh các tổ chức xơ non của tổ chức hạt, phát triển mạnh mao mạch, tăng cường phản ứng thực bào, giữ lại ton kali và con natri. 4.1.2.3. Lứa tuổi Động vật non, hệ thần kinh đặc biệt là hệ thần kinh cao cấp chưa hoàn thiện cho nên phản ứng gây rối loạn điều hoà nhiệt rất mạnh, hàng rào miễn dịch chống nhiễm trùng ở niêm mạc, ở da chưa hoàn chỉnh. Động vật non không mẫn cảm với một số bệnh và nó được miễn dịch là do được mẹ truyền cho γ-globulin qua nhau thai hoặc qua sữa mẹ, phản ứng thực bào của động vật non yếu.
Động vật trưởng thành, tính phản ứng được tăng cường phát triển theo sự phát triển hoàn thiện tổ chức của cơ thể, đặc biệt là của hệ thần kinh và hàng rào bảo vệ của da, của niêm mạc. Khả năng sản xuất kháng thể mãnh liệt, tính phản ứng mạnh mẽ điển hình, nhiều khi dữ đội, vết thương mau lành, sức khoẻ nhanh hồi phục.
24
Động vật già yếu, tính phản ứng kém vì hệ thần kinh, hàng rào phòng ngự bị suy giảm, bệnh tiến triển không rõ rệt, không điển hình, phục hồi chậm, vết thương khó lành, tỷ lệ chết cao.
4.1.2.4. Yếu tố và môi trường bên ngoài Tiểu khí hậu chuồng nuôi nhiễm lạnh làm cho sức đề kháng của con vật
giảm dẫn đến bệnh nhiễm nẫng.
- Các hóa chất tác dụng lâu cũng gây thay đổi tính phản ứng. Ví dụ. Uống rượu nhiều gây hiện tượng xơ gan, viêm dạ dầy làm cho khả
năng phòng bệnh giảm, chống vi khuẩn kém.
Tia phóng xạ làm giảm sức đề kháng, chủ yếu là diệt tế bào gốc ở tuỷ
xương.
Dinh dưỡng: tình trạng dinh dưỡng có ảnh hưởng sâu sắc đến tính phản ứng
của cơ thể. Đói và bệnh dịch đi song song với nhau.
Protein là thành phần quan trọng trong khẩu phần ăn của động vật. Nếu thiếu protein làm phát sinh ổ nhiễm trùng, nếu thiếu nặng dẫn tới phù, dễ phát sinh bệnh lao.
Thiếu vitamin A làm giảm sức đề kháng của niêm mạc, giác mạc gây ra một
loạt các bệnh như viêm giác mạc, viêm họng, nứt nẻ da.
Thiếu vitamin B làm yếu các hoạt động thực bào, ảnh hưởng đến quá trình
oxy hóa của tế bào, làm cho con vật chậm lớn, giảm tạo máu sinh ra bệnh còi cọc.
Vitamin C đầy đủ tăng sức đề kháng, thiếu vitamin C làm giảm sức đề
kháng, đặc biệt là trong trường hợp nhiễm khuẩn trong bệnh truyền nhiễm.
Vitamin D ảnh hưởng tới sự mất cân bằng khoáng dẫn tới bệnh còi xương,
mềm xương.
Nói chung dinh dưỡng thiếu biểu hiện các triệu chứng sau: nhiệt độ không cao ngay cả khi bệnh cấp tính như cúm, viêm phổi, phản ứng bạch cầu yếu hoặc là không có. Hiệu giá ngưng kết của các phản ứng huyết thanh học yếu, có khi âm tính. Các triệu chứng lâm sàng bên ngoài yếu kém, có thể không nhìn thấy, bệnh tiến triển nặng kéo dài dai dẳng, tỷ lệ chết cao. Vì vậy chăm sóc hộ lý dinh dưỡng tết có tính quyết định tính phản ứng trong quá trình bệnh lý.
Ngoài ra yếu tố giới tính cũng ảnh hưởng đến cơ thể. Trong y học, đàn ông hay mắc bệnh dạ dày, loét hành tá tràng hơn là ở phụ nữ; đàn ông hay bị nhồi máu cơ tim, u độc ở phổi hơn là ở phụ nữ. Ở phụ nữ hay gặp viêm vú, túi mật, u độc ở vú.
25
4.2. Bệnh lý của quá trình miễn dịch 4.2.1. Khái niệm về miễn dịch bệnh lý Miễn dịch là trạng thái của động vật không mắc phải tác động có hại của vi sinh vật, trong khi vi sinh vật đó gây bệnh cho các loài vật khác hoặc cho con vật cùng loài, trong những điều kiện lây lan hay truyền bệnh tương tự. Miễn dịch là một khả năng đề kháng cũng giống như nhiều khả năng đề kháng khác (viêm, sếu của cơ thể, trong những trường hợp nhất định, phản ứng đề kháng có thể trở thành có hại cho cơ thể. Đó chính là miễn dịch bệnh lý. 4.2.2. Đại cương về đáp ứng miễn dịch Trước sự tấn công của các yếu tố gây bệnh bên ngoài, cơ thể sinh vật có một loạt những khả năng đề kháng không đặc hiệu và đặc hiệu. Khả năng đề kháng
không đặc hiệu là hàng rào vật chất ngăn cách bên ngoài và bên trong đó là da và niêm mạc, là các chất tiết như mồ hôi, dịch nhầy, là các tế bào chuyên trách bên trong cơ thể như các thực bào và các chất thoát đặc biệt gọi là kháng thể không đặc hiệu như bổ thể lizin, chất propecdin và opsonin.
Khả năng đề kháng đặc hiệu là những chất thoát gọi là kháng thể đặc hiệu do cơ thể tổng hợp sẵn hay nó được sản xuất ra dưới tác động của một số chất gọi là kháng nguyên.
4.2.2.1. Kháng nguyên a) Khái niệm Kháng nguyên là những dị chất đối với cơ thể như vi khuẩn, vi rút, độc tố...bên ngoài vào cơ thể động vật hoặc người thì kích thích cơ thể sản sinh ra những chất đặc biệt có phản ứng đối lập với chúng gọi là kháng thể. Kháng thể sinh ra sẽ kết hợp một cách đặc hiệu với kháng nguyên tương ứng.
b) Đặc tính của kháng nguyên Tính đặc hiệu: Đặc hiệu của kháng nguyên là đặc điểm nhờ đó kháng nguyên có thể phản ứng một cách đặc hiệu với kháng thể dịch thể hoặc kháng thể tế bào do kháng nguyên có nhóm quyết định. Nhóm quyết định kháng nguyên là phần bề mặt kháng nguyên có khả năng liên kết một cách đặc hiệu với phân tử kháng thể hoặc tế bào lympho đã mẫn cảm. Các axit quan được phân phối trên bề mặt của kháng nguyên hình thành các nhóm quyết định; các nhóm này chi phối các cơ quan sinh kháng thể, tạo loại kháng thể đặc hiệu ăn khớp với kháng nguyên đó.
Tính lạ của kháng nguyên: Kháng nguyên càng khác xa loài sinh vật nhận kháng nguyên bao nhiêu thì khả năng sinh kháng thể càng mạnh bấy nhiêu. Ví dụ: Lấy huyết thanh người mà tiêm cho bò thì có tính kháng nguyên mạnh hơn là khi lấy huyết thanh dê tiêm cho bò.
Kháng nguyên ở con vật hoàn toàn khác loài gọi là dị kháng nguyên - đó là kháng nguyên mạnh. Những sinh vật cùng một loài có những kháng nguyên khác nhau gọi là đồng kháng nguyên. Tuy nhiên, tính chất lạ của kháng nguyên cũng chỉ là tương đối vì nhiều kháng nguyên có đồng thời trong nhiều sinh vật khác nhau, ví dụ như kháng nguyên nhóm máu B có ở người và cả ở trong hạt đỗ đỏ nữa, hay kháng nguyên H có trên hồng cầu người và hồng cầu lươn.
Kháng nguyên có phân tử lượng cao: Thông thường các kháng nguyên có trọng lượng phân tử lớn và thường đào thải chậm làm tăng khả năng mẫn cảm của cơ thể. Ví dụ: protein của huyết thanh như albumin (TLPT: 60.000), IgG (TtPT: thuốc lá 160.000), IgM (TLPT: 90.000), Các phân tử cực lớn như vi rút (17.000.000) là những chất kháng nguyên mạnh.
26
Kháng nguyên phải là những chất mà cơ thể tiêu được nhưng lại tồn tại lâu trong cơ thể. Những chất trơ không tiêu được như methyxeluloza không sinh kháng thể có lẽ vì cơ thể không nhận diện được cấu trúc của chất này, cho nên không thông tin cho tổ chức có thẩm quyền tổng hợp kháng thể. Những chất tiêu quá
nhanh như chất có trọng lượng phân tử nhỏ cũng không có khả năng sinh kháng thể vì chúng được đào thải ra ngoài quá sớm cũng không kịp cho cơ thể nhận diện.
c) Số phận của kháng nguyên trong cơ thể vật chủ Kháng nguyên đưa vào cơ thể vật chủ bằng bất cứ đường nào, trước tiên xuất hiện trong máu rồi đến một số tế bào. Trong máu, kháng nguyên hoà tan trong máu (từ 10-15 phút) sau đó khuếch tán ra khoang gian bào, đậm độ kháng nguyên hạ nhanh trong máu và kéo dài vài ngày rồi tự phân huỷ từ từ và đột nhiên biến mất vì kháng thể đã bắt đầu xuất hiện. Sau đó thấy kháng nguyên ở tổ chức liên võng nội mạc trong những hạch gần đường xâm nhập của kháng nguyên nhất (ở các hạch bạch huyết ngoại vi nếu là tiêm bắp), rồi đến các nơi khác. Như vậy kháng nguyên đã được tế bào của tổ chức này ăn đi.
d) Những yếu tố ảnh hưởng đến tính sinh kháng thể của kháng nguyên Liều lượng: Trong miễn dịch vi khuẩn, người ta nhận thấy tiêm chủng liều nhỏ và nhiều lần tết hơn là tiêm một lần liều lớn. Trong gây miễn dịch ung thư thực nghiệm lại thấy là nếu đưa các tế bào ung thư vào hoặc quá nhiều hoặc quá ít thì đều không gây được miễn dịch.
Đường vào của kháng nguyên: kháng nguyên có thể được đưa vào bằng nhiều đường khác nhau mà vẫn có thể gây được miễn dịch nhưng nó không bị biến tính hoặc huỷ hoại trong khi xâm nhập vào cơ thể vật chủ. Các kháng nguyên ở dạng bụi, bột phấn hoa, khói, có thể qua đường hô hấp. Vi khuẩn, vi rút có thể qua da, niêm mạc hô hấp, tiêu hóa.
Vai trò của tá chất: Tính kháng nguyên của một chất có thể được tăng cường nếu kết hợp nó với một tá chất. Cơ chế tác dụng chưa rõ ràng nhưng có thể tá chất gây viêm tại chỗ tiêm làm cho kháng nguyên lâu tiêu và đặc biệt nó kích thích mạnh cơ quan sinh kháng thể. Tá chất thường là những chất trơ khó tiêu: dầu pHrafin, keo phèn...
4.2.2.2. Kháng thể Khái niệm: Kháng thể là những chất thuộc loại cầu đàn mạch (globulin) đặc biệt xuất hiện trong huyết thanh khi một kháng nguyên xâm nhập vào cơ thể, cơ thể phản ứng lại bằng cách sinh ra kháng thể chống lại kháng nguyên đó, làm cho kháng nguyên mất tác dụng gây bệnh. Tính chất đặc biệt của kháng thể là kết hợp với kháng nguyên đã sinh ra nó.
Trước sự xâm nhập của kháng nguyên vào cơ thể, vật chủ có 2 cách đáp ứng: - Đáp ứng miễn dịch dịch thể: bằng cách tổng hợp các kháng thể hoà tan trong huyết thanh.
Đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào tổng hợp nên kháng thể đặc hiệu, các kháng thể này liên kết chặt chẽ trên bề mặt của tế bào đã sản xuất ra nó, không hoà tan trong huyết thanh gọi là kháng thể cố định (kháng nguyên tế bào).
a) Kháng thể dịch thể Định nghĩa: Kháng thể dịch thể có thể hiểu như tất cả những chất dịch giúp
27
sinh vật chống lại các yếu tố có hại xâm nhập vào cơ thể.
Kháng thể tự nhiên (kháng thể không đặc hiệu) có sẵn trong huyết thanh: α,
β, lyzin, propecdin, hệ thống bổ thể (có 9 loại từ C1 đến C9) để diệt khuẩn.
Kháng thể đặc hiệu bản chất của nó chính là γ-globulin. Globulin miễn dịch "Ig" (Immunoglobulin) do quá trình miễn dịch tạo ra. Theo định nghĩa quốc tế OMS-1994 "Các globulin miễn dịch là tất cả các protein huyết thanh và protein nước tiểu có tính chất kháng nguyên và cấu trúc giống như globulin thì được ký hiệu viết tắt là Ig". Như vậy globulin miễn dịch bao gồm các loại kháng thể có những protein có cấu trúc giống như globulin miễn dịch mà đến nay chưa được biết rõ.
Cấu trúc kháng thể: Nhờ các phương pháp về điện di, sắc ký, chiết tách, siêu ly tâm, miễn dịch
hấp phụ cho đến nay người ta đã phân được 5 loại Ig trong kháng thể dịch thể.
1200-1400 mg% 100- 400 -
50-200 - - 3-14 0,1-0,14 -
TênTrọng lượng phân tử Đậm độ trong huyết thanh IgG hay γM 150.000 IgA hay γA 170.000 IgM - γM 900.000 IgD - γD 155.000 IgE - γE 195.000 Khi nghiên cứu sinh thái học thì cấu trúc của 5 loại này đều giống nhau, đều gồm 4 chuỗi đa peptit: 2 chuỗi nặng H và 2 chuỗi nhẹ L, nối lại với nhau bằng "cầu nối disunfua (s-s)" và người ta thấy rằng có từng chuỗi nặng riêng cho từng loại miễn dịch.
IgG
IgA IgM IgD
IgE
Chuỗi nặng Gamma Chuỗi nặng Alpha Chuỗi nặng Muy Chuỗi nặng Delta Chuỗi nặng Epsilon Vị trí kết hợp kháng thể với kháng nguyên nằm ở giữa chuỗi nặng và chuỗi nhẹ ở đầu tận cùng NH2. Như vậy, trên một phân tử globulin miễn dịch có hai vị trí kết hợp kháng nguyên. Thường khi kết hợp với kháng nguyên thì hai đầu tận cùng đó mở rộng ra như hai cánh tay để một đơn vị kháng thể có thể kết hợp với hai đơn vị kháng nguyên. Đó là trường hợp kháng thể hoàn toàn tức đa hóa trị (như IgM). Do kháng nguyên cũng có nhiều trung tâm hoạt động cho nên khi kết hợp này sẽ bắt vào nhau mà thành một màng lưới làm cho sự kết hợp dễ lắng đọng trong dung môi dưới hình thức lên bông, kết tủa, vẩn mây...
Khi hai cánh không mở rộng làm cho một đơn vị kháng thể chỉ có thể kết hợp với 1 đơn vị kháng nguyên thì gọi là kháng thể không hoàn toàn hay kháng thể đơn hóa trị. Cho nên kết hợp KN-KT sẽ không đủ lớn để lắng đọng.
- Đặc điểm và phân loại kháng thể Kháng thể hay globulin miễn dịch là những thành phần của thoát huyết
28
thanh nên dễ bị nhiệt độ (700C), các chất axit, kiềm và men phá huỷ.
IgG: Phấn lớn kháng thể là IgG, chúng có hoạt động hữu ích là trung hoà độc tố, tạo phản ứng ngưng kết khi gặp kháng nguyên tương ứng, phản ứng opsonin hóa và khi kết hợp với bổ thể thì làm tan vi khuẩn. Hoạt động gây tổn thương cho sinh vật là tạo phức hợp kháng nguyên-kháng thể và đọng lại tại các tổ chức và gây tổn thương tại nơi đó.
IgA: chủ yếu nằm trong thành phần của các dịch tiết như sữa đầu, nước bọt, dịch ruột, vì các hạch ngoại tiết chứa rất nhiều tương bào sản xuất IgA. Kháng thể này có khả năng trung hoà độc tố, tạo phản ứng ngưng kết và opsonin hóa, giúp cơ thể chống lại các kháng nguyên có ở bề mặt các niêm mạc và giữ một vai trò đáng kể trong miễn dịch tại chỗ.
IgM: là loại kháng thể hình thành sớm, thường có tỷ lệ cao khi IgG thấp.
Loại kháng thể này có hoạt động hữu ích và gây tổn thương gần giống như IgG.
IgE: là loại kháng thể thấy tăng trong các bệnh quá mẫn như hen, nổi mề đay... Kháng thể này tác động làm thay đổi tính thấm của thành mao mạch. IgD: cho đến nay chưa biết rõ tác dụng và đang được tiếp tục nghiên cứu. b) Kháng thể cố định (kháng thể tế bào)
Kháng thể cố định là những kháng thể được gắn ngay trên bề mặt tế bào lympho T sản xuất ra chúng. Những tế bào lympho đi từ tuỷ xương đến tuyến ức được huấn luyện thành tế bào lympho T. Hiện nay người ta chưa thể tách loại kháng thể này ra khỏi tế bào nên chưa biết được cấu trúc của nó.
Khi gây mẫn cảm cho động vật bằng kháng nguyên tạo miễn dịch cố định (như mảnh da ghép, vi khuẩn lao) thì một nhóm tế bào mới sinh sản từ tế bào tuyến ức (T) được hình thành - người ta gọi chúng là tế bào effector. Sau khi mẫn cảm kháng nguyên 1 -2 ngày, các tế bào này xuất hiện ở vùng tuyến ức và các cơ quan 1ympho ngoại biên như lách, hạch (đặc biệt tập trung nhiều ở vùng tuỷ đỏ của lách) - đó là những effector đặc hiệu.
Mặt khác trong quá trình miễn dịch, một số thành phần của kháng thể và bổ thể cũng có tác dụng hoạt hóa một số tế bào đơn nhân, đại thực bào, tế bào Kuppfer. Các tế bào này cũng trở thành hoạt động nhưng không do sự kích thích của kháng nguyên, người ta gọi chúng là nhóm tế bào effector không đặc hiệu.
c) Hệ thống tổng hợp kháng thể và sự hình thành kháng thể - Hệ thống
miễn dịch
Hiện nay, người ta biết rõ là mọi tế bào tổ chức lympho đều bắt nguồn từ loại tế bào gốc của tuỷ xương gọi là tế bào M. Trong thời kỳ bào thai, những tế bào gốc M (muclocyte) sẽ đến trú ngụ tại hai tuyến ngoại vi: tuyến ức và tuyến Bursa Fabricius ở gia cầm (còn ở các động vật có vú thì có lẽ ở những tuyến tương đương như mảng Peyer ở ruột và ruột thừa, amidan...)
29
Loại tế bào ở tuyến ức đi ra sẽ đến cư trú tại vùng cận vỏ của các hạch ngoại vi: đó là những tế bào T vì chúng phụ thuộc vào tuyến ức. Nếu cắt bỏ tuyến đó, quần thể tế bào T này sẽ giảm rất rõ rệt (Miller, 1961) và mọi đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào sẽ mất hết (như phản ứng loại mảnh ghép dị đen). Nếu đem
tuyến ức đồng tiền ghép lại cho con vật đã cắt bỏ tuyến ấy thì số lượng tế bào T lại trở lại như cũ cũng như các đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào.
Các tế bào lympho T (chữ T là chữ viết tắt của chữ Thymus có nghĩa là tuyến ức) trong khi di hành trong máu, nếu gặp kháng nguyên trực tiếp hoặc qua đại thực bào trình diện kháng nguyên thì nó sẽ trở thành quần thể tế bào lymphô T mẫn cảm và khi trở về hạch lân cận gần nhất sẽ biệt hóa thành các nguyên bào lớn, phân chia thành một quần thể lympno mới, đó là những tế bào lympho có hoạt tính miễn dịch. Một số tế bào lympho này lại có thể rời hạch đầu tiên này để đến các hạch khác trong cơ thể và ở đó lại sinh ra những quần thể tế bào lympho có hoạt tính miễn dịch nữa. Sau cùng, một số tế bào lympho có hoạt tính miễn dịch sẽ lưu hành trong máu ngoại vi, sẽ đến chỗ có kháng nguyên nếu còn, để tạo nên đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào. Tại chỗ đó, sự kết hợp kháng nguyên với tế bào T có hoạt tính miễn dịch sẽ dẫn đến sự tiêu diệt kháng nguyên nhờ một loạt những chất do các tế bào T này tiết ra, tên chung gọi là lymphôkin đóng vai trò quan trọng trong hiện tượng di ứng chậm.
Loại tế bào ở túi Fabricius vào máu ngoại vi thì đến khu trú tại vỏ của hạch và gọi chung là tế bào B (B là chữ viết tắt của chữ Bursa có nghĩa là túi) vì nó phụ thuộc vào túi Fabricius. Ở gia cầm, nếu cắt bỏ túi này, lượng tế bào B sẽ giảm mất, vùng vỏ hạch không có tế bào và kháng thể dịch thể trong huyết thanh giảm rõ rệt, đáp ứng miễn dịch dịch thể không có (Gạch, 1953). Kháng nguyên khi xâm nhập vào cơ thể, bị tế bào đại thực bào ăn, rồi di chuyển đến hạch gần nhất, ở đây các tế bào lympho B vây lấy, tăng sinh phát triển thành những tế bào ưa pyronin và tương bào. Sự phát triển tổ chức này mạnh nhất khi kháng thể được sản xuất cao nhất.
Như vậy là rõ ràng những tế bào lympho B và hình thái biệt hóa cao nhất của chúng là những tương bào, là loại tế bào tổng hợp kháng thể dịch thể và chịu trách nhiệm về đáp ứng miễn dịch dịch thể. Ngoài ra, hệ thống tế bào lympho T ít nhiều đóng vai trò hỗ trợ cho hệ thống B, vì trong thí nghiệm cắt tuyến ức, không những dòng T tuyệt sản mà cả dòng B cũng giảm sút hoạt động. Kháng thể dịch thể khi gặp kháng nguyên sẽ sinh ra phức hợp kháng nguyên-kháng thể có tác dụng trung hoà kháng nguyên, tiêu diệt nó và đồng thời kích thích một số tế bào khác như mastocyte, bạch cầu ái kiềm tiết ra các hóa chất trung gian như histamin, serotonin... tạo nên những phản ứng thấy trong đáp ứng miễn dịch dịch thể (phản vệ...).
- Sự hình thành kháng thể Trước tác dụng kích thích của kháng nguyên, cơ thể sản xuất kháng thể ngay sau mũi tiêm đầu tiên. Người ta có thể thấy được kháng thể dịch thể xuất hiện trong máu vào ngày thứ 4-5 sau khi tiêm kháng nguyên. Đối với đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào thì theo đa số các tác giả, phản ứng xuất hiện sớm hơn, là vào ngày thứ 3.
30
Tỷ lệ kháng thể tăng dần vào tuần thứ ba, sau đó đậm độ kháng thể không tăng và có thể giảm dần. Nồng độ kháng thể trong máu giảm dần thay đổi tuỳ theo
loại kháng nguyên. Nếu sau ba tuần lại dùng kháng nguyên đó kích thích lại thì kháng thể được tổng hợp nhanh hơn và số lượng cao hơn.
d) Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp kháng thể Ngoài những yếu tố thuộc về kháng nguyên đã kể trên (liều lượng, đường vào, tá chất), có một số yếu tố sau đây ảnh hưởng rõ rệt đến việc tổng hợp kháng thể: Phản ứng thứ phát (hồi tưởng hay nhớ)
Tiêm nhắc lại kháng nguyên cho một con vật đã tiêm một lần kháng nguyên đó rồi thì tỷ lệ kháng thể sẽ tăng sớm và nhiều hơn là lần đầu (có thể gấp đến hơn 100 lần).
Cường độ của phản ứng lần hai tăng theo thời gian kể từ mũi tiêm thứ nhất, đến thời hạn tối đa là khoảng 30 ngày trên thỏ và chuột. Phản ứng kéo dài từ 100 đến 300 ngày. Phản ứng nhớ này có thể tồn tại nhiều năm sau mũi tiêm thứ nhất. Đó là nhờ ở những tế bào lympho T hoặc B, sau khi tiếp xúc với kháng nguyên, trở thành những tế bào ký ức để khi kháng nguyên vào lần sau thì sẽ lập tức tăng sinh thành dòng tế bào có hoạt tính miễn dịch đông đảo gây nên phản ứng nhớ ấy.
- Mẫn cảm với nhiều kháng nguyên Nếu tiêm nhiều kháng nguyên đồng thời thì nhiều loại kháng thể tương ứng cũng đồng thời được tạo ra với mức độ ngang bằng hoặc nhiều hơn khi tiêm kháng nguyên từng loại. Đó là lý do của việc dùng những vacxin đa giá. Tuy nhiên, nếu cùng một lúc tiêm kháng nguyên liều mạnh với kháng nguyên khác liều nhẹ thì có thể chỉ có kháng thể tương ứng với kháng nguyên mạnh mà thôi (cạnh tranh kháng nguyên). Hiện tượng ức chế này thường xảy ra nếu tính hóa học của các kháng nguyên gần nhau.
- Dinh dưỡng và thần kinh nội tiết Sự tổng hợp thoát nói chung và kháng thể nói riêng, bị giảm sút khi thiếu thoát trong chế độ ăn như đói lâu ngày, trong rối loạn hấp thu... Trong thực nghiệm thấy thiếu vitamin B và C cũng làm giảm kháng thể.
Như trên đã nói, tính phản ứng của con vật quyết định sự hình thành kháng thể nhiều hay ít, lâu hay chóng, mạnh hay yếu; mà nói đến tính phản ứng là nói một cách tổng hợp về hoạt động thần kinh nội tiết và tính di truyền của sinh vật. Riêng về nội tiết thì đến nay, người ta biết khá rõ về vai trò ức chế miễn dịch của trục tuyến yên-thượng thận Hon non corticoit tác động lên tế bào đang sinh sản như tế bào lympho T, nó có ảnh hưởng làm ngừng quá trình sinh tổng hợp kháng thể, làm ngừng quá trình phóng thích ra chất lymphokin.
Trái lại aldosteron kích thích đồng hóa protein tăng sản xuất ra kháng thể, mà người ta thấy phản ứng sinh miễn dịch là phản ứng sinh học có liên quan đến tính di truyền. Cho nên trong thực nghiệm cũng có thể tạo được những gia súc sinh kháng thể mạnh bằng cách chọn lọc những gia súc có khả năng sinh miễn dịch cao để làm giống.
- Những yếu tố bên ngoài khác Những chất thuốc chống ung thư như thuốc chống phân bào, thuốc alkyl hóa,
31
tia phóng xạ... đều có tác dụng ức chế miễn dịch làm giảm tổng hợp kháng thể
Hiện nay người ta thấy có một số loại vi rút chống lại sự miễn dịch như vi rút HIV người, vi rút IBD gây bệnh Gumboro ở gia cầm. Ngoài ra, người ta cũng thấy chất Prostaglandin ức chế tế bào lympho T và B tổng hợp kháng thể.
Bên cạnh đó, một số chất gây ức chế tổ chức liên võng nội mô như các chất màu trung tính, cacbon keo... cũng có tác dụng kìm hãm quá trình tổng hợp kháng thể, có lẽ thông qua việc ức chế các đại thực bào.
Những giả thuyết về sinh tổng hợp kháng thể Thuyết thông tin hay thuyết khuôn Do Breinl và Haurowitz (1930) đề xướng và nhiều nhà nghiên cứu về sau phát triển thêm như Alexander (1931), Mudd (1932), PHuling (1940), Bumett và Fenner (1949), cho rằng kháng nguyên có tác dụng đối với các tế bào có hoạt tính miễn dịch như là một cái khuôn và các kháng thể sẽ được sản xuất theo kiểu cách của khuôn đó.
Ban đầu, giả thuyết "khuôn trực tiếp" được đề ra cho rằng kháng nguyên vào nằm trong tế bào lymphô như là một cái khuôn mà phân tử globulin phải đến lấy mẫu ở đó. Song giả thuyết đó không giải thích được nhiều hiện tượng như phản ứng nhớ, dung thứ và tê liệt miễn dịch. cho nên năm 1949, Bumett và Fenner lần đầu tiên đưa ra thuyết khuôn gián tiếp cho rằng kháng nguyên là một yếu tố bên ngoài gây nên sự tổng hợp một enzym thích nghi, enzym sẽ xúc tác sự hình thành các phân tử kháng thể theo khuôn khổ của kháng nguyên.
- Thuyết chọn lọc Cho rằng kháng thể đã sẵn có trong cơ thể sinh vật đối với bất kỳ kháng nguyên nào có trong thiên nhiên hay do con người sau này tổng hợp ra và khi kháng nguyên đột nhập vào trong cơ thể thì sẽ kết hợp với kháng thể tương ứng làm tăng cường quá trình sinh tổng hợp kháng thể đã có sẵn.
Năm 1964, Bumett đưa ra giả thuyết "chọn lọc dòng tế bào" cho rằng trong mô tuyến ức gồm hơn 10.000 tế bào khác nhau, mỗi tế bào tượng trưng cho một dòng về sau này và có khả năng tiềm tàng đổi thành tương bào sản xuất ra một loại kháng thể. Số dòng đủ để sinh ra mọi loại kháng thể đối với mọi loại kháng nguyên có thể có (tự kháng nguyên, đồng kháng nguyên và dị kháng nguyên). Riêng đối với kháng nguyên luôn luôn có mặt với một đậm độ cao như các kháng nguyên của bản thân thì chúng sẽ phá huỷ hay ức chế các tế bào tương ứng ngay từ khi còn là bào thai, cho nên cơ thể bình thường không sinh kháng thể chống các tự kháng nguyên. Những dòng tế bào ấy được mệnh danh là những dòng cấm. Thuyết chọn lọc dòng giải thích được nhiều hiện tượng miễn dịch như dung thứ miễn dịch, bệnh tự miễn dịch, không có gamma-globulin trong máu... Song vô lý ở chỗ không thiên nhiên nào có thể dự đoán được hết những kháng nguyên mà con người đã tổng hợp nên.
32
Sau này Szilard cho rằng ADN trong mỗi tế bào có khả năng tạo ra mọi loại thoát (khoảng 30 vạn loại), mỗi thoát được ký hiệu trên một đen của chuỗi ADN gồm một bộ phận điều hoà, một bộ phận ức chế. Mỗi kháng nguyên khi vào trong
tế bào có tác dụng giải ức chế cho một đến tương ứng và đen được tự do ấy sẽ quyết định tổng hợp kháng thể đặc hiệu tương ứng.
Gần đây những thành tựu nghiên cứu về cấu trúc globulin miễn dịch cho thấy, trong các chuỗi đa peptit hình thành chuỗi nặng cũng như chuỗi nhẹ đềưcó một phần tận cùng NH2 rất thay đổi về trình tự các axit quan, phần còn lại ít thay đổi, đặc biệt chính phần hay thay đổi này lại là chỗ kháng thể kết hợp đặc hiệu với kháng nguyên. Do đó, nhiều tác giả đã cho rằng những tế bào sinh kháng thể đều mang hai hoặc ba đến ấn định chương trình tổng hợp một kiểu globulin miễn dịch nào đó nhất định. ADN của các đen đó bền vững và không bị kháng nguyên làm biến đổi. Nhưng trong quá trình phân bào, các đen có thể xảy ra những biến đổi bản thân. Những biến đổi ở các giai đoạn nucleotit ấy do trao đổi chéo gây nên, có thể tạo nên những thay đổi thứ tự các axit quan trong phần thay đổi của các chuỗi. Như vậy có thể nói, tế bào mầm nguyên thuỷ chỉ được ấn định chương trình để sản xuất globulin miễn dịch theo một quá trình bình thường như sản xuất các loại protein khác mà thôi nhưng sự trao đổi chéo giữa các bên trong phân bào ở thời kỳ phôi sinh đã sản xuất ra rất nhiều các tế bào lympho có khả năng tổng hợp những globulin miễn dịch tương tự, chỉ khác là ở chỗ có những đoạn axit quản không giống nhau đã được thích nghi với những kháng nguyên khác nhau.
4.2.2.3. Bổ thể Dù không phải do đáp ứng miễn dịch sinh ra nhưng bồ thể giữ vai trò quan trọng trong phản ứng miễn dịch, vì nó kết hợp với nhiều hệ thống kháng nguyên-kháng thể và giúp cho việc tiêu diệt kháng nguyên tốt hơn, nhanh hơn. Ký hiệu bổ thể là C, bổ thể là một phức hợp dịch thể không đặc hiệu, có tự nhiên trong cơ thể. Đó là một hệ thống gồm chín thứ men từ C1 đến C9, tác dụng dây truyền theo thứ tự 1-2-3-4-5-6-7-8-9.
Khi bổ thể liên kết với phức hợp kháng nguyên-kháng thể thì phát huy một
loạt những tác dụng sinh học của nó:
Tiêu kháng nguyên đã bị gán kháng thể đặc hiệu, nhất là nếu kháng nguyên đó là tế bào. Lần đầu tiên, người ta phát hiện tác dụng này đối với hồng cầu. Khi trộn hồng cầu cừu với kháng thể chống hồng cầu cừu (còn gọi là dung huyết lố) thì chỉ có hiện tượng ngưng kết mà không có tan máu. Nhưng nếu đem cho thêm bổ thể vào thì màng hồng cầu sẽ bị bổ thể chọc thủng, huyết sắc tố chảy ra ngoài.
Chuẩn bị cho hiện tượng thực bào: một phức hợp kháng nguyên-kháng thể kết hợp bổ thể dễ được các tế bào như bạch cầu đa nhân trung tính, đại thực bào... ăn đi hơn là không có bổ thể. Ngoài ra, sự hoạt hóa hệ thống bổ thể kéo theo hoạt hóa những hệ thống đông máu và hệ thống khăn huyết tương làm tăng cường hoạt động thực bào.
Sự kết hợp bổ thể vào kháng thể làm tăng cường quá trình liên hợp một số kháng nguyên tức là đẩy mạnh sự liên kết kháng nguyên-kháng thể còn tự do trong môi trường, đặc biệt hiện tượng kết dính miễn dịch được tăng cường.
33
4.2.2.4. Sự kết hợp kháng nguyên và kháng thể Nó là phản ứng cơ bản của quá trình miễn dịch.
Cơ chế kết hợp: khi đem kháng thể trộn cùng với kháng nguyên đặc hiệu tương ứng thì hai thứ sẽ kết hợp với nhau, nhiều khi có thể nhìn thấy được bằng một thường dưới hình thức những hiện tượng như lên bông, kết tủa, ngưng kết.
Trong trường hợp khi kháng nguyên-kháng thể kết hợp rồi mà nó lại hoà tan thì có thể dùng những biện pháp gián tiếp như theo dõi sự tiêu thụ bổ thể, hay hấp thu kháng nguyên hoặc kháng thể, trên mặt những hạt nhỏ (hồng cầu, hạt colodion...) lúc đó kháng thể hoặc kháng nguyên sẽ ngưng tụ những hạt này. Còn đối với kháng thể cố định thì người ta có thể phát hiện được bằng phản ứng quá mẫn: phản ứng quá mẫn nội bì.
Kết quả của sự kết hợp kháng nguyên-kháng thể thực chất nó là một phản ứng bảo vệ bởi vì do phản ứng này mà kháng nguyên mất tính chất lý hóa và sinh vật của nó.
Nếu kháng nguyên là vi khuẩn, vi rút thì kháng thể sẽ ngưng tụ nó lại làm cho nó không sinh sôi nẩy nở hoặc làm cho nó bị dung giải bởi tác động của bổ thể hoặc nó bị tiêu diệt bởi đại thực bào.
Nếu kháng nguyên là độc tố hay thoát lạ thì kháng thể sẽ kết tủa chúng lại làm mất tác dụng độc, chất tủa bị tiêu diệt. Do mặt tốt này mà con người đã ứng dụng phản ứng miễn dịch trong công tác phòng và chữa bệnh.
Nhưng phản ứng kết hợp kháng nguyên-kháng thể đôi khi nó làm xuất hiện
một loạt các phản ứng khác gậy hại cho cơ thể.
Ví dụ: viêm đặc hiệu, rối loạn vận mạch, co thắt cơ trơn, tăng sinh tế bào. Những phản ứng này về cơ bản mang tính chất bảo vệ nhưng đôi khi quá mạnh lại trở lên có hại cho cơ thể.
Phản ứng kết hợp kháng nguyên-kháng thể nó cũng phóng thích ra các chất trung gian có hoạt tính sinh lý, tuỳ theo kháng thể kết hợp với kháng nguyên là kháng thể dịch thể hay kháng thể cố định.
Các chất trung gian của kháng thể dịch thể: Khi kháng nguyên kết hợp với kháng thể dịch thể đầu tiên là nó phóng thích ra một men tiêu đạm diamin-oxydaza, men này làm cho một số chất trong tế bào phóng thích vào cơ thể gây ra hiện tượng bệnh lý: Histamin được tế bào mastocyte và bạch cầu ái kiềm tiết ra có tác dụng tăng tính thấm mao mạch và co cơ trơn. Serotonin do tiểu cầu tiết ra làm co cơ trơn, tăng tính thấm mao quản.
SRS-A (Slow reacting substance of anaphylaxis) do các tổ chức phổi tiết ra
có tác dụng như histamin nhưng chậm hơn
Các khăn huyết tương chủ yếu là bradykinin, kallikinin do các men tiêu đạm như plasmin, trypsin chuyển từ các globulin huyết tương thành. Chúng có tác dụng làm tăng sức thấm mao quản tức giãn mạch
34
Các chất trung gian của kháng thể cố định: khi kháng nguyên gây đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào thì các kháng thể được sản xuất ra nằm ngay trên bề mặt của tế hào lympho T đó là các kháng thể cố định. Nếu những kháng thể cố định này gặp những kháng nguyên lần sau thì phản ứng kết hợp kháng nguyên-kháng thể xảy ra và xảy ra ngay trên bề mặt của tế bào rồi nó giải phóng ra
một số chất có hoạt tính sinh lý gọi chung là lymphôkin mà có thể kể một số chính sau: Chất chuyển dạng lympho bào LTF (lymphoblastic transforming factor) làm cho tế bào lympho nhỏ thành nguyên bào và sinh sôi nẩy nở thêm ra. Chất ức chế đại thực bào MIF (macrophage inhibitor factor) làm cho đại thực bào không đi ra khỏi được chỗ kết hợp kháng nguyên-kháng thể. Chất hoạt hóa đại thực bào MAF (macrophage activator factor) kích thích tế bào đại thực bào tăng hoạt động. Những hóa chất trung gian của kháng thể dịch thể cũng như lymphokin, bản thân làm tăng tuần hoàn tại chỗ và tập trung tại đó các khả năng bảo vệ cơ thể (đại thực bào, đông máu...) nhằm nhanh chóng tiêu và loại kháng nguyên ra khỏi cơ thể. Song phản ứng bảo vệ đó nhiều khi cũng làm cho cơ thể khó chịu, đôi khi nguy hiểm nữa.
4.2.3. Miễn dịch bệnh lý đại cương Miễn dịch bệnh lý bao gồm những biểu hiện bệnh lý của kết hợp kháng nguyên-kháng thể (còn gọi là dị ứng học) và những rối loạn quá trình sản xuất kháng thể.
4.2.3.1. Biểu hiện bệnh lý của kết hợp kháng nguồn - kháng thể (hiện
tượng quá mẫn)
Trong phản ứng kết hợp kháng nguyên-kháng thể không phải luôn luôn mang tính chất bảo vệ mà nhiều khi còn biểu hiện có hại là chính. Trạng thái đó được gọi là trạng thái quá mẫn.
Trong thực nghiệm cũng như trong lâm sàng, trạng thái quá mẫn thường
thông qua các giai đoạn:
- Giai đoạn mẫn cảm: tức là lúc cơ thể nhận liều mẫn cảm cho đến lúc cơ thể
nhận liều phát hiện; thường từ ngày thứ bảy trở đi sau khi nhận liều mẫn cảm.
Giai đoạn quá mẫn: Sau khi nhận liều phát hiện có thể xảy ra ngay gọi là quá mẫn nhanh khi là kháng thể dịch thể, có thể xảy ra chậm sau 2-3 ngày gọi là quá mẫn chậm khi là kháng thể cố định.
Giai đoạn 3 : gọi là giai đoạn giải mẫn cảm, là lúc kháng nguyên mất tác
dụng gây rối loạn.
a) Quá mẫn tức khắc Tuỳ theo loại kháng thể dịch thể mà có thể có những hiện tượng quá mẫn khác nhau đi từ phản ứng cục bộ đến những biểu hiện toàn thân. Các tổn thương ở tổ chức cũng có nhiều kiểu khác nhau tuỳ thuộc vào bản chất lý học của kháng thể và vào nơi xảy ra phản ứng. Kết hợp kháng nguyên-kháng thể dịch thể tạo nên phản ứng quá mẫn nhanh đều có một số những đặc điểm chung sau đây:
Phản ứng xảy ra nhanh sau khi tiêm liều kháng nguyên phát hiện (thời gian
có thể tính bằng giây hay phút).
Kết hợp kháng nguyên-kháng thể phóng thích ra các hóa chất trung gian có
hoạt tính sinh học như histamin, serotonin, SRS-A...
Phản ứng quá mẫn nhanh thường xảy ra ở những bộ phận có nhiều cơ trơn
như phế quản, thành mạch, thành ruột...
35
Có thể có những hiện tượng quá mẫn nhanh như sau: * Hiện tượng Arthus (sốc phản vệ cục bộ)
Đó là phản vệ nhanh tại chỗ do Arthus tìm ra (1905), biểu hiện viêm các tiểu động mạch (vasculitis), trong phản ứng này kháng thể lưu động chủ yếu là IgE và IgM và nó cũng có sự tham gia của bổ thể.
Trong thực nghiệm: nếu đem tiêm huyết thanh ngựa cho thỏ dưới da nhiều lần, cách nhau 5-6 ngày thì từ mũi tiêm thứ bốn, chỉ sau 15 phút đến vài giờ là bắt đầu có phản ứng tại chỗ tiêm như viêm đỏ, phù nề, nhiều khi có kèm theo xuất huyết và hoại tử. Về mặt giải phẫu bệnh thì có viêm huyết quản, thâm nhiễm bạch cầu đa nhân trung tính. Cơ chế sinh bệnh của hiện tượng này là do kháng nguyên có trọng lượng phân tử lớn chưa khuếch tán vào trong lòng mạch kịp đã gặp kháng thể ngay trong gian bào; phức hợp kháng nguyên-kháng thể này hoạt hóa yếu tố C3 của bổ thể làm cho hệ thống đông máu và hệ thống khăn hoạt động tạo nên một ổ viêm. Bạch cầu đa nhân do viêm sẽ phóng thích ra các men gây nên tổn thương huyết quản.
* Sốc phản vệ, bệnh huyết thanh và các trạng thái quá mẫn khác Sốc phản vệ có thể tạo thành trong thực nghiệm khi người ta tiêm tĩnh mạch cho động vật một loại protein lạ (lòng trắng trứng, huyết thanh khác loại) gây cho con vật chết. Sốc phản vệ được nhà khoa học Portier và Richet mô tả năm 1902 khi tiêm tinh chất của một con hến biển cho chó lần hai, sau lần tiêm thứ nhất khoảng 14-15 ngày thì gây chết chứ không bảo vệ được.
Biểu hiện của sốc phản vệ là có sự khác nhau ở nhiều loài động vật, mà
phản ứng cơ bản của sốc là sự co thắt cơ trơn ở các bộ phận nội tạng.
Ví dụ: ở chuột lang thì thấy con vật khó thở, xanh tím, giẫy giụa rồi chết, khi mổ thấy nhu mô phổi không xẹp do phế quản bị co thắt. Ở chó co thắt cơ trơn Ở tĩnh mạch đặc biệt là tĩnh mạch gan, cho nên chó đau, tụ máu ở gan, giảm huyết áp ở các cơ quan khác dẫn tới chết. Còn ở ngựa, mèo, chuột nhắt biểu hiện giống chuột lang. Ở chuột cống tăng tính thấm thành mạch dẫn tới xuất huyết, ở thỏ tụ máu ở động mạch phổi giãn tâm thất phải.
Khi quan sát trên kính hiển vi các phức hợp kháng nguyên - kháng thể lắng đọng trên mao mạch phổi, kéo theo sự tụ tập các bạch cầu, các tiểu cầu làm tăng huyết áp phổi hình thành các huyết khối làm cho máu không lưu thông được và ứ lại dẫn tới lấp quản và chết.
người có một trạng thái bệnh lý tương tự gọi là bệnh huyết thanh, gặp khi tiêm huyết thanh điều trị dị loại (huyết thanh ngựa chống uốn ván, chống bạch hầu...). Tất nhiên bệnh huyết thanh điển hình xảy ra ở những người đã dùng huyết thanh điều trị dị loại một lần trước rồi, trong cơ thể đã sẵn có kháng thể chống lại. Triệu chứng xảy ra mạnh, rất cấp tính và bệnh nhân có thể chết do sốc. Nhưng có loại bệnh huyết thanh xảy ra ngay khi tiêm huyết thanh điều trị lần đầu tiên, triệu chứng thường xuất hiện vào ngày thứ 6 sau khi tiêm với nổi mẩn, phát ban, đau khớp, đái ra albumin.
36
Dị ứng nhanh là hiện tượng quá mẫn tức khắc, thường chỉ xảy ra trên người một cách bất thường. Kháng nguyên là loại yếu và xâm nhập theo đường tự nhiên
(hô hấp, tiêu hóa...) và từ từ. Biểu hiện bệnh lý thường co thắt cơ trơn và hội chứng viêm.
Về lâm sàng, dị ứng nhanh bao gồm rất nhiều bệnh ở các cơ quan khác nhau.
Có thể kể một số trường hợp sau:
Ở mắt: phù mi mắt dị ứng, phù võng mạc, viêm giác mạc dị ứng. Ở mũi: viêm mũi dị ứng có phù niêm mạc tiết dịch chứa nhiều bạch cầu ưa
axit, niêm mạc quá sản, sần sùi, nếu có nhiễm khuẩn phụ thì sẽ chảy mủ.
Ở tai: viêm tai, viêm tiền đình dị ứng. Ở phổi: hen phế quản (co thắt phế quản, phù và tiết dịch làm hẹp thêm lòng
phế quản gây tiếng rên, khó thở, xanh tím, thường xảy ra sớm trước 20 tuổi).
Ở da: viêm da dị ứng, nổi mề đay, lở sơn. Ở đường tiêu hóa: viêm mồm, viêm dạ dầy, ruột, nôn theo chu kỳ. Ở khớp: viêm phù khớp, các thể thoái hóa khớp. Ở thần kinh: nhức đầu kiểu bán thiên đầu thống, co giật thể động kinh, sốt mùa (sốt theo mùa vì có lẽ kháng nguyên là phấn hoa, phù niêm mạc mắt, mũi, thâm nhiễm bạch cầu ưa axit, tăng tiết dịch).
Ở máu: ban xuất huyết, giảm tiểu cầu, bạch cầu. Về cơ chế của sốc phản vệ cũng như bệnh huyết thành hay các trạng thái dị ứng nhanh là do kết hợp kháng nguyên-kháng thể (IgG, IgM và IgE). Tuỳ theo loại kháng thể nào 'à chủ yếu mà ta có thể có bệnh cảnh lâm sàng khác nhau. IgE có ái tính mạnh với tế bào nên thường bám vào các tế bào chung quanh các cơ trơn cho nên nếu kháng thể này chiếm địa vị trội thì các phản ứng xảy ra ở mặt tế bào và các biểu hiện có tính chất phản vệ rõ rệt (co thắt cơ trơn, tăng tiết dịch...). Nếu là các kháng thể IgG, IgM thì chủ yếu hình thành những phức hợp miễn dịch tuần hoàn trong máu rồi lắng đọng ở một tổ chức, cơ quan nào đó tạo nên một trạng thái bệnh lý mà hiện này các tác giả gọi là "bệnh các phức hợp miễn dịch". Các phức hợp này lắng đọng ở đâu sẽ kẻo các tế bào lymphô đến đó và tiết ra lymphôkin, phức hợp còn hoạt hóa C3 của bổ thể theo con đường tắt, từ đó có thể gây tan tế bào, kẻo các bạch cầu đa nhân trung tính tiết các men tiêu đạm, hoạt hóa hệ thống đông máu, gây đọng fibrin tại chỗ và phóng thích các khăn huyết tương. Tất cả những thay đổi này sẽ gây viêm tại chỗ.
Dị ứng thuốc: một số thuốc khi vào cơ thể có khả năng gắn với protein của cơ thể tạo thành một kháng nguyên hoàn toàn, kích thích cơ thể sinh kháng thể dịch thể hay tế bào.
Ví dụ: thuốc penicilin khi vào cơ thể thoái hóa thành nhóm penicilloyl gây
37
dị ứng nhanh có thể làm chết người. b) Quá mẫn chậm trễ Hiện tượng quá mẫn chậm trễ cũng nằm trong miễn dịch qua trung gian tế bào. Đó là phản ứng đặc biệt ở da, xảy ra 24-48 giờ sau khi cơ thể mẫn cảm có tiếp xúc với kháng nguyên đặc hiệu. Trong máu của cơ thể bị quá mẫn chậm trễ không phát hiện được kháng thể dịch thể cho nên không truyền thụ động bằng huyết thanh được. Những kháng nguyên gây ra quá mẫn chậm trễ rất khác nhau nhưng thường
là những kháng nguyên không hoà tan, ít có khả năng khuếch tán trong toàn cơ thể vật chủ, ví dụ như những kháng nguyên tế bào.
Sau đây là liệt kê một số kháng nguyên gây quá mẫn chậm trễ hay gặp: Kháng nguyên vi sinh vật: Tuberculin (lao); typhoidin (thương hàn); độc tố bạch hầu trong phản ứng Schick; Vi rút đậu; kháng nguyên nấm: histoplasmin, coccidiomicin; kháng nguyên đơn bào (bệnh do leishmania).
Kháng nguyên côn trùng: dịch tiết của muỗi, ong. Kháng nguyên tổ chức dị loại (trong phản ứng loại thải mảnh ghép). Bán kháng nguyên gây dị ứng do tiếp xúc như hóa chất. Một số tự kháng nguyên trong bệnh tự miễn. Điển hình trong dị ứng chậm là phản ứng tuberculin. Sau 48 giờ khi tiêm nội bì 0,1ml tuberculin thì nếu có phản ứng, vật chủ có thể sốt nhẹ, chỗ tiêm sẽ viêm đỏ, cứng; về mặt giải phẫu bệnh lý thì có thâm nhiễm tế bào lymphô quanh và bên trong các mao quản. Phản ứng này cũng có thể truyền thụ động bằng hỗn dịch tế bào lymphô đã mẫn cam.
Dị ứng chậm do hóa chất xảy ra khi tiếp xúc nhiều lần với hóa chất như thuốc, chất dẻo, cao su, xà phòng thì bị nổi mẩn, sung huyết, nổi phồng gây hiện tượng viêm kiểu eczema. Tại chỗ viêm có tổn thương nội bì, phù tế bào và thâm nhiễm bạch cầu đơn nhân.
Cơ chế sinh bệnh của phản ứng dị ứng chậm: Kháng nguyên khi gặp tế bào
lymphô đã mẫn cảm thì sinh ra hai kết quả:
Kết hợp kháng nguyên-kháng thể hoạt hóa bổ thể kéo theo hoạt hóa hệ thống đông máu và khán huyết tương như trong kết hợp kháng nguyên với kháng thể dịch thể.
Kết hợp đó làm tế bào lymphô tiết ra những lymphôkin tạo nên một loạt các
phản ứng tế bào (ức chế dị tản, hoạt hóa đại thực bào, chuyển dạng lymphô bào...).
Phản ứng loại thải mảnh ghép: Trên cơ thể động vật khi tiến hành ghép các tổ chức mà các tổ chức đó là dị đen thì sẽ xảy ra phản ứng loại thải tổ chức ghép ra khỏi vật chủ, hiện tượng đó gọi là hiện tượng loại thải mảnh ghép.
Trong quá trình thực hiện khi ghép một tổ chức cho vật chủ mà khác trên người ta nhận thấy sau 1 -2 ngày mảnh ghép liền và chung sống với vật chủ nhưng mà kéo dài 1 -2 tuần chỗ ghép thâm nhiễm các tế bào lympho T, các đại thực bào, làm các mạch quản tại chỗ ghép có hiện tượng đông máu, hình thành các huyết khối gây tắc mạch, phù, mảnh ghép không được nuôi dưỡng hoại tử và bong khỏi vật chủ, nếu tiếp tục ghép lại thì mảnh ghép lại bong nhanh hơn.
38
Hiện nay người ta có thể ghép da, ghép thận cho các cá thể và mảnh ghép chính là của cá thể đó hoặc mảnh ghép đồng tiền với vật chủ (ghép của hai vật sinh đôi cùng trứng). Việc ghép da, ghép thận phải có kỹ thuật tiên tiến, dùng các phương pháp ức chế miễn dịch bằng các hóa chất, các tia phóng xạ thì mảnh ghép tồn tại được lâu hơn.
4.2.3.2. Rối loạn quá trình sản xuất kháng thể
a) Thiểu năng miễn dịch Là trạng thái bệnh lý trong đó đáp ứng miễn địch của cơ thể giảm sút hoặc không có. Sự thiếu hụt này có thể toàn bộ hay bộ phận đối với miễn dịch dịch thể hoặc đối với miễn dịch qua trung gian tế bào thôi. Nó có thể là bẩm sinh hay mắc phải, hay là thiếu hụt không đặc hiệu như thiếu bổ thể.
- Suy giảm miễn địch bẩm sinh: Cơ thể động vật sinh ra thiếu tế bào M hoặc là tế bào này có rất ừ, nó giảm toàn bộ cả hai loại tế bào lympho B và T. Trong cơ thể hầu như hoàn toàn không có tổ chức dạng lymphô, trong máu không có globulin miễn dịch. Các phản ứng đáp ứng miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào đều không thấy có. Cho nên con vật dễ bị chết vì nhiễm trùng.
Thiếu tế bào lympho T: không có tuyến hay có mà không có tiểu thể Hassal nên hệ thống lymphô T không có, những phản ứng miễn dịch qua trung gian tế bào không có, những phản ứng miễn dịch dịch thể vẫn còn. Con vật cũng hay bị nhiễm khuẩn mà chết.
Thiếu tế bào lympho B: Biểu hiện ngay trong huyết thanh thiếu gamma globulin. Bệnh này người ta thấy cũng có thể do di truyền mà thiếu B lympho bào, từ đó người ta thấy bốn loại kháng thể IgM, IgA, IgD, IgE không có, còn IgG có ít bằng 10% bình thường dẫn đến không có đáp ứng miễn dịch dịch thể, làm cơ thể luôn nhiễm bệnh, nếu có bổ sung y-globulin cũng chỉ kéo dài trong vài tháng.
- Suy giảm miễn dịch do tác động từ bên ngoài Do nhiễm các vi rút mà nó xâm nhiễm vào hệ thống miễn dịch (ở người nhiễm virus HIV - Human Immunodeficiency Virus) gây bệnh AIDS (Acquired lmmunodeficiency Syndrome).
Vi rút: IBD virus (Infectious Bursal Disease), vi rút leuko, vi rút Marek tấn
công túi fabricius.
39
Ngoài ra một số vi rút không tấn công vào hệ thống miễn dịch nhưng đóng vai trò tòng phạm như vi rút Ca rê ở chó, vi rút dịch tả lợn, vi rút dịch tả trâu bò làm giảm sức đề kháng của cơ thể.
Suy giảm hệ thống miễn dịch còn do các hạch ung thư như u ác tính dòng
lympho, u tuỷ xương.
Các hóa chất độc vô cơ và hữu cơ đều tác động làm diệt tế bào, chống phân
bào, chống chuyển hóa.
Các chất phóng xạ với liều lớn: tia X, tia γ. Dinh dưỡng: đói, hư thận, ỉa chảy mạnh, xơ gan cổ chướng... đều có khả
năng làm suy giảm miễn dịch.
b) Dung nạp miễn dịch Tức là hiện tượng không có miễn dịch đặc hiệu đối với một số kháng nguyên, mà các kháng nguyên này đã xâm nhập vào cơ thể vật chủ từ lúc miễn dịch chưa trưởng thành: ở giai đoạn bào thai, sơ sinh; lần sau xâm nhập vào cơ thể vật chủ thì vật chủ không sản xuất ra kháng thể để chống lại kháng nguyên đó.
Trong tự nhiên hiện tượng dung nạp miễn dịch xảy ra ở hai trẻ hoặc hai vật
sinh đôi đồng tiền cùng trưng do Owen tìm ra năm 1950.
Trong thực nghiệm nhà khoa học Medawar (1951) đã lấy tế bào lách, tuỷ, hạch của giống chuột CBA có màu lông nâu tiêm vào thai 7 ngày của giống chuột A có màu lông trắng. Sau đó khi chuột A ra đời và trưởng thành được hai tháng thì ông lấy da chuột CBA nâu ghép lên trên những con chuột A trắng đã được chuẩn bị này. Việc ghép đã thành công; trái lại nhóm đối chứng gồm những con chuột A không chuẩn bị thì mảnh ghép bị loại thải như ghép dị loại khác.
Người ta có thể đưa kháng nguyên cùng với các chất ức chế miễn dịch thì có hiện tượng dung nạp miễn dịch không lâu. Còn nếu đưa kháng nguyên quá ít hoặc quá cao thì cơ thể không sản sinh ra kháng thể gọi là hiện tượng ức chế miễn dịch.
Cơ chế của hiện tượng dung nạp miễn dịch: Nhiều tác giả đã cho rằng: khi đưa một kháng nguyên vào cơ thể trong thời kỳ bào thai (miễn dịch chưa trưởng thành) cho nên khi tiếp xúc với kháng nguyên nó không thể phân biệt được đó là kháng nguyên của bản thân hay của cơ thể khác, do đó không sản sinh ra kháng thể mà còn coi đó là thành phần của bản thân mình, do vậy khi đưa kháng nguyên đó vào cơ thể đã không sản sinh ra kháng thể mà dung nạp kháng nguyên đó.
c) Suy giảm bổ thể (Complement deficiencies) Chỉ thấy ở người, chuột lang, chuột nhắt và thỏ. Ở người trong thành phần thiếu C5, C3 do tái nhiễm khuẩn nhiều lần và hiện tượng này chỉ thấy ở một số cơ thể; ở chuột nhắt thấy thiếu C5; chuột lang thấy thiếu C4; ở thỏ thấy thiếu CO, biểu hiện là tăng độ nhiễm trùng, giảm sức đề kháng.
Giảm chức năng thực bào của đại thực bào (Macrophage) và tiểu thực bào
(Microphage).
Chủ yếu là do thiếu men NADPH oxydaza trong các tế bào thực bào làm
cho các chức năng tiêu tế bào của tế bào thực bào giảm (thấy xuất hiện ở người).
40
e) Rối loạn sản xuất kháng thể. Bệnh tự miễn dịch: là hiện tượng đặc biệt của cơ thể sản xuất ra kháng thể hoặc sản xuất ra các tế bào lympho T miễn dịch để chống lại mô bào hay là các cơ quan là thành phần của chính mình. một số bệnh: viêm cầu thận do cơ thể sản xuất
ra kháng thể chống lại màng cơ bản gây viêm thận, hoặc bệnh viêm tinh hoàn vô tinh trùng hoặc viêm khớp dạng thấp. Và người ta có thể gây bệnh thực nghiệm bằng cách (ông Mansugi) dùng huyết thanh vịt có kháng thể chống thận thỏ tiêm cho thỏ dẫn đến làm viêm thận thỏ. Còn ông Cavelti dùng thận thỏ cộng với độc tố của liên cầu khuẩn tiêm cho thỏ gây viêm thận thỏ.
Về cơ chế, có nhiều giả thuyết đã giải thích hiện tượng này như: Kháng nguyên lạ cùng có cấu trúc với kháng nguyên của bản thân hoặc là có cấu trúc gần giống cho nên cơ thể sản sinh ra kháng thể chống lại kháng nguyên lạ, đồng thời dẫn tới chống lại chính bản thân nó.
Có sự giải ức chế dòng lympho bị cấm cũng là do nhiễm khuẩn, mà các
dòng lympho bị cấm tự sinh ra kháng thể.
Hiện nay người ta giải thích có thể do yếu tố di truyền có liên quan đến bệnh sinh tự mẫn cảm. Còn gần đây người ta lại cho rằng có sự rối loạn cân bằng giữa lympho bào T và lympho bào B sinh ra kháng thể chống lại bản thân.
Rối loạn globulin miễn địch là bệnh ác tính mà nó sản xuất ra globulin đặc biệt (in đặc biệt) có cấu trúc gần giống IgA, IgE, IgG, IgD, IgM nhưng không có khả năng đáp ứng miễn dịch, vì thế cơ thể dễ bị nhiễm khuẩn (thường gặp ở những người già mà phát hiện ra bằng phương pháp điện di).
Chương 2
SINH LÝ BỆNH CÁC QUÁ TRÌNH BỆNH LÝ CHUNG
1. RỐI LOẠN TUẦN HOÀN CỤC BỘ
Tuần hoàn trong các cơ quan và trong các tổ chức cũng có thể thay đổi trong những điều kiện sinh lý khác nhau. Khi một cơ quan nào đó tăng hoạt động thì tuần hoàn nơi đó cũng tăng cường. Ví dụ: Khi cơ bắp làm việc nhiều thì lượng máu tới các cơ tăng lên gấp bội hoặc khi tiêu hóa thức ăn ở dạ dầy thì máu tới dạ dầy tăng lên.
41
Tuần hoàn cục bộ ở mỗi cơ quan và tổ chức liên quan chặt chẽ tới tuần hoàn chung của toàn cơ thể. Nếu lượng máu tăng ở cơ quan tổ chức nào đó thì lượng máu ở nơi khác sẽ giảm đi. Cho nên trong trường hợp sinh lý bình thường sự thay đổi chỉ nằm trong lĩnh vực dao động sinh lý bình thường và nhanh chóng hồi phục trở lại bình thường. Trong trường hợp bệnh lý sự thay đổi, rối loạn tuần hoàn phải do nguyên nhân hoặc bên trong hoặc bên ngoài kích thích. Rối loạn tuần hoàn cục bộ có thể biểu hiện qua rối loạn tuần hoàn chung của hệ tim mạch và ngược lại rối
loạn tuần hoàn chung cũng có thể dẫn tới những biến đổi tuần hoàn của từng cơ quan hay bộ phận nào đó trong cơ thể.
Sự điều khiển tuần hoàn, trương lực mạch quản gián tiếp là hệ thần kinh thông qua dịch thể đó là tiết tố của tuyến thượng thận, tuyến yên. Vì vậy rối loạn tuần hoàn cục bộ có thể xảy ra do rối loạn chức năng của bán cầu đại não, của các trung khu thực vật và các đầu mút thần kinh thực vật ngoại vi nằm trên các mạch quản.
Các chất có hoạt tính sinh lý trong cơ thể tiết ra trong quá trình miễn dịch, quá trình viêm như: axetylcholin, các quan như: histamin, typHmin, adenosin triphosphat, axit lactic... các chất này tác động lên mạch quản thông qua cung phản xạ hoặc gián tiếp tác động lên thần kinh co cơ ở mạch quản ảnh hưởng đến trương lực mạch quản.
Ví dụ: histamin gây co các tiểu động mạch, giãn các mao mạch; axetylcholin gây giãn tiểu động mạch; adrenalin gây co mạch ở da và giãn mạch vành.
Rối loạn tuần hoàn cục bộ có thể xuất hiện do thay đổi thành phần các chất điện giải, nồng độ axit, đặc biệt là nồng độ của con H+. Khi tăng độ axit động mạch giãn, còn khi tăng độ kiềm động mạch co, với tĩnh mạch thì ngược lại tăng độ axit co mạch, tăng độ kiềm giãn mạch. Rối loạn tuần hoàn cục bộ thường mang những đặc tính khác nhau, thường biểu hiện một số hiện tượng sau đây:
1.1. Sung huyết cục bộ (local Hypercmia) Sung huyết là hiện tượng tăng lượng máu ở cơ quan, tổ chức cục bộ trong cơ
thể. Có hai loại sung huyết: sung huyết động mạch và sung huyết tĩnh mạnh
1.1.1. Sung huyết động mạch (Artenal Hyperemia) 1.1.1.1. Khái niệm Máu ở động mạch ứ đầy ở cơ quan, bộ phận nào đó trong cơ thể do các tiểu động mạch, mao mạch giãn ra máu dồn vào nhiều, trong khi đó dòng máu chuyển đi (về tim) vẫn bình thường.
Ví dụ: viêm đỏ, đi nắng mặt đỏ, xấu hổ mặt đỏ, bỏng, xoa dầu nóng, ngâm
chân vào nước nóng... do sung huyết động mạch.
1.1.1.2. Nguyên nhân gây sung huyết động mạch Do những kích thích như: cơ học (khi ở một bộ phận nào đó trong cơ thể bị tác động bởi một lực cơ học thì tại nơi đó sẽ bị sung huyết động mạch), hóa học, lý học (các tia phóng xạ tác động; trong cơ thể nơi nào bị kiềm hoặc a xít mạnh tác động thì nơi đó bị sung huyết động mạch), sinh vật học (do tác động của độc tố vi khuẩn);
Do tăng độ mẫn cảm của mạch quản đối với kích thích bình thường (mẫn
cảm dị ứng mẫn cảm với ánh sáng);
Do tác động trực tiếp lên thần kinh điều khiển mạch quản, trung khu vận
mạch hoặc thần kinh thực vật.
42
1.1.1.3. Biểu hiện bên ngoài của sung huyết động mạch
Nơi sung huyết có màu đỏ xuất hiện do tăng hàm lượng máu ở động mạch,
mà máu động mạch mang nhiều oxy nên máu đỏ tươi;
Các động mạch, tiểu động mạch, tiểu mao mạch giãn rất rộng; Tăng số lượng mạch quản có thể nhìn thấy; Bắt được mạch từ các động mạch nhỏ do máu chứa đầy trong mạch quản và
huyết áp tăng;
- Tăng nhiệt độ nơi sung huyết do tăng dòng máu đến và tăng quá trình trao đổi - Vùng sung huyết hơi sưng do giãn mạch tăng tạo lâm ba, có khi cả đau do thần kinh cảm giác bị kích thích.
1.1.1.4. Cơ chế sung huyết động mạch Cơ chế phản xạ thần kinh: sung huyết phát sinh do tác động kích thích vào cơ quan nhận cảm, các yếu tố lý hóa học tác động nên bộ phận nội ngoại cảm thụ thông qua cung phản xạ điều khiển thần kinh co giãn mạch, làm giãn các tiểu động mạch, mao mạch, ức chế thần kinh co mạch. Kích thích lâu có thể gây liệt các cơ co mạch.
Cơ chế tổn thương thần kinh: do thần kinh co mạch bị tổn thương như liệt thần kinh co mạch ngoại vi hay tổn thương trung khu, trong thực nghiệm nếu cắt thần kinh giao cảm ở cổ thỏ hoặc cắt bỏ hạch giao cảm ở cổ gây sung huyết một nửa đầu tương ứng biểu hiện ở tai thỏ.
1.1.1.5. Hậu quả Hậu quả tốt: Nơi sung huyết lượng máu được dồn đến nhiều từ đó tăng cường quá trình trao đổi chất, lượng oxy được tăng và chất dinh dưỡng cũng tăng hơn bình thường từ đó cơ năng hoạt động của tổ chức cũng được tăng cường. Bên cạnh đó nó còn tăng cường chống độc và thải chất độc. Trong trường hợp cơ thể bị bệnh lý thì sung huyết động mạnh là phản ứng thích ứng của cơ thể đối với quá trình bệnh, đặc biệt nó có ý nghĩa lớn trong việc thành lập tuần hoàn nhánh bên, do đó có thể cung cấp đủ lượng máu cho cơ quan bị bệnh.
Hậu quả xấu: Nếu sung huyết lâu gây hiện tượng xuất huyết, mà đặc biệt nếu xuất huyết não dễ gây hiện tượng tử vong. Sung huyết chèn ép cơ năng của các cơ quan khác. Sung huyết lan rộng thì gây bần huyết ở một số cơ quan khác. Nếu sung huyết động mạch kéo dài gây sung huyết tĩnh mạch.
1.1.2. Sung huyết tĩnh mạch (Venous Hyperemia hay Congestion) Hiện tượng sung huyết tĩnh mạch có thể xảy ra ở bất cứ bộ phận nào trong
cơ thể, có thể biểu hiện cấp tính hay mãn tính.
1.1.2.1. Khái niệm Sung huyết tĩnh mạch là hiện tượng xảy ra khi các dòng máu chảy về tim bị
trở ngại nhưng lượng máu động mạch tới vẫn không thay đổi.
Khi sung huyết tĩnh mạch biểu hiện giãn mạch quản đến cực độ và hay phù do máu dồn ở tĩnh mạch nhiều, do áp lực thuỷ tĩnh có xu thế tác động vào thành mạch quản, oxy đến nuôi dưỡng tĩnh mạch kém dẫn tới tế bào bị tổn thương làm cho tổ chức liên kết, tế bào giãn ra làm thoát nước ra ngoài.
43
1.1.2.2. Nguyên nhân gây sung huyết tĩnh mạch
Cản trở dòng máu về tim do huyết khối trong lòng tĩnh mạch hoặc tắc mạch
do lấp quản;
Tĩnh mạch bị chèn ép do u sẹo, do thai nghén, do trói buộc...; Do tăng tính thấm thành mạch, nước trong lòng mạch quản ra ngoài nhiều
(trong viêm, trong ngộ độc);
Bệnh tim trong trường hợp tổn thương tâm thất phải dòng máu chảy về tim
chậm, ứ máu trong các tĩnh mạch ở chi phần thấp của cơ thể;
Rối loạn chức năng của phổi kết hợp với sự thay đổi áp suất trong cản trở
máu về tĩnh mạch chủ gây sung huyết tĩnh mạch ở các phần thấp của cơ thể.
1.1.2.3. Biểu hiện bên ngoài của sung huyết tĩnh mạch Nơi sung huyết tĩnh mạch có màu xanh tím (cyanosis) do máu ứ đọng thiếu
oxy, cacbonhemoglobin tăng cao trong máu.
Nhiệt độ nơi sung huyết hạ do chuyển hóa kém dẫn đến tạo nhiệt kém, mạch
quản giãn làm tăng thải nhiệt, rối loạn trao đổi chất, giảm tạo nhiệt.
Thể tích cơ quan bị sung huyết tăng lên, mạch quản giãn hết mức lại chứa đầy máu, trong tổ chức dịch thẩm xuất và các thành phần của máu thấm ra gây phù nề, mất tính đàn hồi nên ấn tay vào để lại vết lõm.
1.1.2.4. Hậu quả Từ sung huyết tĩnh mạch có thể dẫn tới ứ máu ở tĩnh mạch (venous stasis) từ đó dẫn tới rối loạn dinh dưỡng tổ chức, rối loạn các quá trình oxy hóa, ứ trệ các sản phẩm độc gây nhiễm độc và dẫn tới quá trình hoại tử tổ chức, các tế bào nhu mô bì chèn ép gây rối loạn dinh dưỡng dẫn tới teo (atrophy), phát triển tổ chức xơ làm cho cơ quan đó dầy lên và cứng (như ở gan, phổi thận).
Đặc biệt rối loạn hoạt động của hệ thống tim mạch dẫn tới tắc các tĩnh mạch lớn, huyết khối tĩnh mạch cửa, tĩnh mạch cửa có thể giãn khối lượng máu lớn dồn vào xuất hiện sung huyết tĩnh mạch ở xoang bụng, làm giảm huyết áp động mạch gây rối loạn hoạt động của tim phổi và các cơ quan khác do thiếu máu. Đặc biệt thiếu máu ở vỏ não có thể dẫn tới gây liệt hô hấp gây tử vong.
Tuy nhiên trong một trường mực nào đó sung huyết tĩnh mạch cũng có những ảnh hưởng tết, ví dụ: Làm chậm quá trình nhiễm khuẩn bằng cách tạo nên một sung huyết tĩnh mạch ở một bộ phận nào đó gây bất lợi cho sự phát triển của vi sinh vật.
1.2. Ứ huyết (Stasis) 1.2.1. Khái niệm Ứ huyết là dòng máu ngừng chảy ứ lại trong các mao quản, tiểu động mạch và tĩnh mạch nhỏ cùng với hiện tượng giãn mạch quá mức, chứa đầy các tế bào máu đặc biệt là các hồng cầu kết dính lại với nhau thành từng chuỗi.
44
1.2.2. Cơ chế Khi ứ máu các tổ chức nơi ứ máu rối loạn trao đổi chất nghiêm trọng, các sản phẩm chuyển hóa trung gian tích tụ (axit hữu cơ, các chất có hoạt tính sinh lý: histamin). Một mặt làm giảm trương lực mạch quản gây giãn mạch, mặt khác làm tổn thương thành mạch, nước thoát ra ngoài làm máu cô đặc và mặt nữa các chất
mang tính chất toan tính tác động làm cho tế bào nội mạc huyết quản trương to, nước ra ngoài làm mạch quản xẹp dẫn tới ứ máu.
1.2.3. Hậu quả Nếu ứ máu trong thời gian ngắn, thành mạch và các thành phần của máu chùn biến đổi nghiêm trọng, tuần hoàn có thể hồi phục lại được thì dần dần các dịch thẩm xuất ra ngoài được hấp thu, máu lại được lưu thông.
Còn nếu như rối loạn trầm trọng về dinh dưỡng và nghiêm trọng về chức năng thì dẫn đến xuất hiện hoại tử tổ chức. Nếu ứ máu ở các cơ quan quan trọng như não, tim thì dễ tử vong.
1 3. Thiếu máu cục bộ (Ischemia) 1.3.1. Khái niệm Là hiện tượng giảm hay hoàn toàn đình chỉ lượng máu động mạch tới một cơ quan hay một bộ phận nào đó trong cơ thể. Cũng có trường hợp là thiếu máu toàn thân thể hiện ở cục bộ. 1.3.2. Nguyên nhân Nó có thể xuất hiện do các động mạch bị chèn ép hoặc bị tắc do huyết khối, lấp quản, đo co thắt động mạch, hoặc do xơ cứng động mạch hoặc là kích thích thần kinh co mạch phát sinh một co thắt trong lòng mạch quản hẹp máu ít dồn vào hoặc do tăng kích tố như vasopressin hay còn gọi là ADH (antidiuretic hormon) và adrenalin cũng gây co mạch dẫn đến thiếu máu...
1.3.3. Biểu hiện của thiếu máu cục bộ Thường các cơ quan, tổ chức thiếu máu bị nhợt nhạt do các mạch quản và các mao mạch nhỏ co lại. Gia súc biểu hiện rõ nhất là ở mắt, mũi, mồm, niêm mạc.
Nhiệt độ hạ do trao đổi chất giảm. Giảm thể tích của các cơ quan vì thiếu lượng máu và lượng lympho. Cảm giác đau tê, các đầu mút thần kinh bị kích thích, do rối loạn dinh dưỡng
tích tụ sản phẩm trao đổi trung gian.
Giảm hoạt động của cơ quan do thiếu máu, thiếu dinh dưỡng dẫn đến rối loạn dinh dưỡng tế bào và có thể dẫn tới liệt, đặc biệt cơ tim và các cơ quan ở xoang bụng. Trường hợp thiếu máu ở vỏ não dẫn tới liệt hô hấp và nếu thiếu máu nhiều dẫn đến tử vong.
1.3.4. Hậu quả của thiếu máu cục bộ Phụ thuộc vào các yếu tố sau: Tốc độ gây thiếu máu hoặc thời gian gây thiếu máu càng nhanh thì hậu quả càng xấu bởi lẽ các tuần hoàn nhánh bên chưa kịp thành lập dẫn đến dễ gây hoại tử tổ chức.
45
Tuần hoàn nhánh bên có được thành lập hay không: thường các động mạch ở các cơ quan như não, tim thì ít có tuần hoàn nhánh bên cho nên khi thiếu máu rất nguy hiểm có thể gây tử vong. Những nơi khác: mông và các chi thì động mạch có nhiều nhánh bên, do đó khi xảy ra thiếu máu cục bộ, tuần hoàn nhánh bên sẽ phát triển và thường không gây nguy hiểm lắm.
Trạng thái của thành mạch quản có ảnh hưởng lớn bởi vì khi động mạch có bệnh biến như xơ cứng động mạch làm mất tính đàn hồi, do vậy khi xảy ra thiếu máu những nơi đó khó thành lập tuần hoàn nhành bên.
Do tính mẫn cảm của tổ chức: Trong cơ thể thì thần kinh mẫn cảm nhất với
sự thiếu máu sau đó đến các cơ quan nội tạng rồi đến các cơ quan khác.
1.4. Nhồi huyết (Infarction) 1.4.1. Khái niệm Nhồi huyết là hiện tượng hoại tử tổ chức ở một vùng nào đó do mạch quản bị tắc nghẽn mà tuần hoàn nhánh bên không hồi phục lại được (trong trường hợp do huyết khối lấp quản, hay co mạch trong một thời gian dài)
Ví dụ: Bệnh dịch tả lợn lách nhồi huyết hình răng cưa. 1.4..2. Cơ chế phát sinh nhồi huyết Phát sinh nhồi huyết đó là do sự thiếu máu, thiếu oxy tổ chức bị hoại tử. Nhồi huyết thường có hai dạng: nhồi huyết trắng (nhồi huyết do thiếu máu) và nhồi huyết đỏ (nhồi huyết do xuất huyết).
Nhồi huyết trắng thường xuất hiện ở thận, lách, tim, não, ở những nơi mà tuần hoàn nhánh bên phát triển ít, nơi hoại tử có màu trắng xám thường do thiếu máu, các mạch quản co thắt máu bị đẩy khỏi vùng hoại tử ra các tổ chức xung quanh.
Nhồi huyết đỏ thường gặp ở phổi, ruột cũng đôi khi thấy ở não, nó được tạo ra do sự xâm nhập của máu vào vùng hoại tử theo tuần hoàn nhánh bên, cũng có trường hợp là do tăng huyết áp ở tĩnh mạch, máu theo đường mao tĩnh mạch dồn tới nhưng tuần hoàn nhánh bên không đủ để khôi phục được mà trái lại bị tác động lên thành mạch do rối loạn dinh dưỡng làm cho tính thấm thành mạch tăng, hồng cầu và các thành phần của máu từ lòng mạch thoát ra vùng hoại tử và nhuộm đỏ vùng hoại tử.
1.4.3. Hậu quả Nhồi huyết dẫn tới rối loạn chức năng của cơ quan hay tổ chức. Thường dưới tác động của các men, nếu nhồi huyết nhỏ có thể tan ra tạo thành sẹo hoặc nếu bị nhiễm khuẩn tạo thành ổ mủ.
1.5. Xuất huyết (Hemorrhage) 1.5.1. Khái niệm Máu phải chảy ra ngoài huyết quản hay tim vào tổ chức xung quanh gọi là xuất huyết hay chảy máu. Nếu chảy máu ra ngoài cơ thể gọi là xuất huyết ngoại, nếu chảy máu vào trong cơ thể gọi là xuất huyết nội, nếu xuất huyết nội ở não gây nên biến chứng chèn ép vào não rất nguy hiểm.
Có nhiều loại xuất huyết: xuất huyết động mạch, xuất huyết tĩnh mạch, xuất huyết mao mạch, xuất huyết nhu mô. Xuất huyết tĩnh mạch đặc biệt hay mất sự cân bằng của máu, nó cũng dẫn đến thiếu máu toàn bộ cơ thể.
46
1.5.2. Nguyên nhân gây xuất huyết Nguyên nhân sinh lý: gặp trong hành kinh Nguyên nhân bệnh lý:
Những tác động cơ học làm đứt hoặc rách thành mạch quản. Hoại tử hoặc sự phá huỷ thành mạch máu gây xuất huyết. Viêm loét thành mạch quản (viêm loét thành dạ dầy có thể dẫn tới viêm loét thành mạch gây xuất huyết), bệnh truyền nhiễm như lao, tỵ thư, ưng thư... Ngoài ra, các mao mạch bị vi khuẩn tác động vào thành mạch làm vỡ các thành mạch gây xuất huyết, ví dụ gặp trong bệnh dịch tả lợn.
Độc tố gây tổn thương biểu mô mao mạch gây xuất huyết gồm các độc tố a sen, phối pho tác động làm tăng tính thấm thành mạch dẫn tới rách mạch làm xuất huyết; độc tố sinh ra bởi nhiễm trùng huyết như trong bệnh dịch tả, bệnh tụ huyết trùng, bệnh ung khí thán; nhiễm độc cây dương xỉ diều hâu; thiếu vitamin C. Rối loạn quá trình đông máu là nguyên nhân thứ phát gây xuất huyết. Những biến đổi bệnh lý ở thành mạch như xơ cứng, thoái hóa có thể đút
rách gây xuất huyết.
Rối loạn hoạt động cung cấp máu cho mạch quản dẫn tới rối loạn dinh
dưỡng tăng tính thấm thành mạch.
Xuất huyết còn có thể xuất hiện do rối loạn thần kinh và nội tiết như tăng
huyết áp từ đó gây tăng tính thấm thành mạch và có thể dẫn tới xuất huyết.
1.5.3. Hậu quả Nếu xuất huyết nội đặc biệt là xuất huyết ở những cơ quan trọng yếu: tim,
não thì dễ dẫn đến tử vong.
Phụ thuộc vào khối lượng máu mất, nếu mất từ 40-80% tổng lượng máu của
cơ thể thì dẫn đến chết.
Phụ thuộc vào tốc độ máu chảy, nếu tốc độ mất máu càng nhanh thì càng nguy hiểm, nếu mất khoảng một phần tư tổng lượng máu trong cơ thể trong thời gian ngắn thì rất nguy hiểm có thể sẽ bị chết.
1.5.4. Các kiểu xuất huyết Xuất huyết lấm tấm (Petechial hemonhage): xuất hiện giống như những đầu
đinh ghim nhỏ li ti và kích thước từ 1-2 mm.
Xuất huyết thành vệt (Ecchymotic hemonhage): xuất hiện ở trên những bề
mặt lớn hơn và kích thước từ 2-3 cái.
Xuất huyết dạng bàn chải (Phim brush hemonhage): là dạng xuất huyết
thành vệt rộng và nhìn giống như những vết sơn đỏ trên tổ chức.
1.6. Huyết khối (Thrombosis) 1.6.1. Khái niệm Là một quá trình mà lòng mạch quản hay trong xoang tim ở một cơ thể sống các thành phần của máu kết hợp lại với nhau thành một khối đặc làm trở ngại quá trình lưu thông máu.
47
1.6.2. Điều kiện hình thành huyết khối Sự hình thành huyết khối cần có 3 điều kiện: Tổn thương thành mạch và tế bào nội mạc huyết quản làm cho mặt trong của thành mạch trở nên thô nhám, làm cho các thành phần của máu dễ sa lắng, làm dính các tiểu cầu, bạch cầu. Thành mạch có thể bị tổn thương do nhiều nguyên
nhân như yếu tố cơ học, lý học, nhiễm trùng, nhiễm độc, xơ cứng mạch, do ứ huyết, do viêm, do dị ứng. Mặt trong của mạch quản chứa một lớp fibrin, màng fibrin này có tác dụng làm giảm độ nhớt của máu, làm ướt các tế bào nội mạc huyết quản bằng huyết tương và chống sự đông máu. Người ta thấy lớp fibrin này tăng lên trong lòng mạch quản có tính chất chống đông máu nhưng đồng thời tăng độ ướt thành mạch, kết quả là tăng áp lực bề mặt keo giữa các tế bào nội mạc với các thành phần của máu.
Thay đổi huyết động học và tính chất dòng chảy: Thay đổi tốc độ dòng máu như khi mạch quản bị chèn ép làm cho máu ứ lại, tốc độ chảy chậm lại hoặc làm mất sự chảy êm đềm. Chảy cuộn làm cho các bạch cầu, tiểu cầu bị cuộn lại dội vào thành mạch có thể gây tổn thương ở thành mạch và phá vỡ bạch cầu, tiểu cầu, hoặc đường kính lòng mạch thay đổi, hướng máu chảy thay đổi đều là những yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi huyết động học và các tính chất chảy của dòng máu, tạo điều kiện cho huyết khối hình thành.
Thay đổi tính chất của máu có thể là nhân tố ban đầu hay là nhân tố dẫn dắt đến huyết khối: men trong máu tăng lên, trong thực nghiệm tiêm đe, men pepsin, pepton, gelatin thì sự hình thành huyết khối rất nhanh.
Ví dụ: ở ngựa gặp bệnh thrombosis Colic do kí sinh trùng di hành gây tổn thương động mạch trước màng treo (Strongylus vulgaris) gây bệnh đau bụng dẫn đến chết, hoặc là què chân do huyết khối ở động mạch chi trước.
1.6.3. Hậu quả của huyết khối Gây trở ngại tuần hoàn từ đó ảnh hưởng tới dinh dưỡng của tổ chức, vì vậy
những huyết khối ở những huyết quản càng lớn thì hậu quả càng nghiêm trọng.
Huyết khối ở tĩnh mạch hay gây ứ máu, phù và có thể gây co mạch phản xạ. Nếu như huyết khối xảy ra ở' các huyết quản cung cấp máu cho các cơ quan
quan trọng như não thì dễ dẫn đến tử vong.
Huyết khối hình thành nhanh, tuần hoàn nhánh bên chưa kịp thành lập thì sẽ
gây rối loạn tuần hoàn cục bộ.
Huyết khối có thể rời thành mạch di chuyển đi nơi khác vá gây hiện tượng
lấp quản.
Nếu như phần huyết khối bị nhiễm trùng sẽ làm cho cơ thể bị nhiễm trùng
và có thể nhiễm trùng toàn thân.
* Tuy nhiên hậu quả của huyết khối còn phụ thuộc vào các yếu tố sau: Huyết quản hình thành nên huyết khối: nếu huyết quản hình thành nên huyết
khối ở những nơi quan trọng (tim, não) thì hậu quả rất xấu dễ gây tử vong.
Tốc độ hình thành huyết khối: nếu tốc độ này càng nhanh thì hậu quả càng
xấu bởi vì tuần hoàn nhánh bên chưa kịp thành lập.
Huyết khối này có trở thành vật lấp (lấp quản) hay không. 1.7. Lấp quản (Embolism) 1.7.1. Khái niệm Khi huyết quản hoặc lâm ba quản bị bịt lại bởi một vật mà bình thường
48
không có thì người ta gọi đó là lấp quản.
1.7.2. Nguyên nhân gây lấp quản 1.7.2.1. Nguyên nhân bên trong Lấp quản do huyết khối: Dạng lấp quản này thường do huyết khối được hình
thành ở các van tim và nhất là van hai lá.
Lấp quản do tế bào mỡ: Trường hợp này xảy ra thường do bị gãy xương ống hoặc tổ chức mỡ bị tổn thương các tế bào mỡ di chuyển trong máu và gây lấp quản. Lấp quản do tế bào thường là tế bào ở những nơi bị tổn thương đi vào động
mạch, được máu đưa đi đến các mao quản và gây lấp quản.
Trong thực tế nguyên nhân bên trong này ít gây ra hiện tượng lấp quản. 1.7.2.2. Nguyên nhân bên ngoài Lấp quản do bọt khí: Trường hợp này do quá trình tiêm tĩnh mạch không đẩy hết bọt khí ra ngoài mà tiêm cả bọt khí vào máu. Do mạch máu bị rách nhưng vẫn phồng lên không xẹp xuống, không khí sẽ lọt vào hình thành các bọt khí và di chuyển theo máu gây lấp quản, thường gây lấp quản ở động mạch phổi hoặc các nhánh nhỏ ở động mạch phổi.
Lấp quản do vi khuẩn: khối của những tế bào vi khuẩn thỉnh thoảng được tách rời ra đi vào trong dòng chảy tĩnh mạch từ tổ chức nhiễm nặng mầm bệnh và trở thành vật lấp ở các mao mạch.
- Lấp quản do sự di căn của ấu trùng ký sinh trùng: nguyên nhân này ít. 1.7.3. Phân loại lấp quản Căn cứ vào phương hướng di chuyển của vật lấp mà người ta chia lấp quản
thành 3 loại chính:
Lấp quản ở hệ tiểu tuần hoàn: loại này hiện tượng lấp xuất phát từ tĩnh mạch cửa hoặc từ tim. Lấp quản loại này gây rối loạn tuần hoàn và hô hấp, nếu như lấp quản ở động mạch phổi thì lúc đầu tim đập nhanh, giai đoạn sau giảm, huyết áp hạ, hô hấp chậm lại và cuối cùng tuần hoàn cũng dừng và con vật chết.
Lấp quản ở hệ đại tuần hoàn: loại lấp quản này thường được xuất phát từ tim trái, từ hệ thống động mạch, đôi khi từ tĩnh mạch phổi chuyển sang. Nhìn chung lấp quản ở dạng này tương đối nguy hiểm.
Lấp quản tĩnh mạch cửa: ở dạng này thì vật lấp xuất phát từ nhánh của tĩnh mạch cửa, thường loại này rất ít gặp và nếu đã gặp thì rất nguy hiểm vì máu ứ lại ở tĩnh mạch cửa, cho nên máu về tim ít dẫn đến huyết áp hạ, thiếu máu não, hô hấp nhanh sau đó hô hấp ngừng và con vật cũng chết rất nhanh.
49
1.7.4. Hậu quả Phụ thuộc vào các yếu tố sau: Nơi phát sinh lấp quản: nếu lấp quản mà phát sinh ở những nơi quan trọng (như tim, não) thì hậu quả xấu dễ tử vong. Lấp quản mà phát sinh ở vùng chi thì ít nguy hiểm. Hình thành tuần hoàn nhánh bên: nếu như tuần hoàn nhánh bên mà phát triển thì hậu quả ít nguy hiểm.
Phụ thuộc vào tính chất vật lấp: nếu như vật lấp là tế bào ung thư, là ký sinh trùng hay vi trùng thì không những gây hiện tượng lấp quản mà con gây bệnh thứ phát.
Tính chất của từng cơ quan: nếu cơ quan nào có tính cảm thụ mạnh khi sinh
lấp quản sẽ rất nguy hiểm (tim, não, thận).
Lấp quản có thể dẫn đến thiếu máu, nhồi huyết dẫn đến hoại tử.
2. RỐI LOẠN CHUYỂN HÓA CÁC CHẤT Chuyển hóa các chất bao gồm tất cả các quá trình lý hóa xảy ra trong cơ thể để thực hiện hai quá trình đồng hóa và dị hóa mà cơ thể phải lấy năng lượng và nguyên liệu từ bên ngoài để điều chỉnh và tái tạo giúp cho sự sống tồn tại và phát triển. Sự mất cân bằng giữa hai quá trình đồng hóa và dị hóa chính là sự rối loạn chuyển hóa các chất.
2.1. Rối loạn chuyển hóa gluxit 2.1.1. Đại cương 2.1.1.1. Vai trò của gluxit đối với cơ thể Gluxit là nguồn năng lượng chủ yếu và trực tiếp cho mọi hoạt động của mọi tế bào, mô và cơ quan của cơ thể. Gluxit cũng là nguồn năng lượng dự trữ quan trọng nhất để sử dụng ngay của cơ thể dưới dạng glycogen người và động vật cao cấp, gluxit tồn tại dưới ba dạng chủ yếu:
Dạng dự trữ: glycogen tập trung nhiều ở gan và cơ Dạng vận chuyển: glucoza trong máu và các dịch gian bào Dạng tham gia cấu tạo tế bào và các chất khác: Pentoza trong thành phần axit nucleic (ADN, ARN), gluxit phức tạp tham gia cấu tạo màng tế bào, màng các bào quan (glucoprotein, glycolipit). Axit hyaluronic là một disaccarit có trong dịch thuỷ tinh thể của mắt, trong cuống rau, có tác dụng ngăn chặn sự xâm nhập của các chất độc hại. Heparin là một mucopolysaccarit có tác dụng chống đông máu. Condroitin là một mucopolysaccarit axit có nhiều trong sụn, các mô liên kết của da, gân, van tim, thành động mạch...
Chuyển hóa gluxit cung cấp nhiều sản phẩm trung gian quan trọng, liên quan chặt chẽ với chuyển hóa các chất khác, là nguồn tạo lipit và một số axit quan của cơ thể.
50
2.1.1.2. Đường đi của glulxit trong cơ thể Tất cả các loại gluxit đều được chuyển hóa thành đường đơn trong ống tiêu hóa và được hấp thu vào máu với những tốc độ khác nhau (theo thứ tự galactoza, glucoza, fructoza, pentoza). Riêng động vật ăn cỏ đặc biệt là loài nhai lại đại bộ phận đường được hấp thu ở dạng axit béo bay hơi. Các đường đơn (monosaccarit) được hấp thụ ngay ở đoạn đầu của ruột non theo hai cơ chế: (1) Khuếch tán thụ động: Do sự chênh lệch nồng độ của các monosaccarit có trong lòng ruột so với trong tế bào của màng ruột. (2) Vận chuyển tích cực: ở ruột non, glucoza, galactoza được hấp thu rất nhanh qua màng của tế bào thành ruột. Tốc độ hấp thu phụ thuộc
vào sự có mặt của ion natri. Năng lượng cung cấp cho sự vận chuyển tích cực này, chính là năng lượng vận chuyển ion natri qua màng đáy tế bào để nồng độ trong tế bào luôn luôn thấp.
Sau khi hấp thu, các đường đơn theo hệ thống tĩnh mạch cửa đến gan và phần lớn được giữ lại ở đây để chuyển thành dạng cao phân tử: glycogen dự trữ. Gan là cơ quan dự trữ gluxit quan trọng nhất của cơ thể để duy trì cân bằng đường huyết.
Glucoza máu khuếch tán tự do qua thành mạch vào gian bào. Một số tế bào như hồng cầu, tế bào gan, tế bào não, glucoza thấm vào một cách dễ dàng, không cần sự có mặt của insulin. Hầu hết các tế bào khác, muốn thu nhận được glucoza đòi hỏi phải có insulin. Trong tế bào, glucoza được chuyển ngay thành glucoza-6-phosphat nhờ men hexokinaza và sau đó biến thành năng lượng (ATP) để sử dụng cho hoạt động của tế bào. Từ đó glucoza đi vào chu trình chuyển hóa các chất. Các đường đơn khác fructoza, galactoza cũng đều phải chuyển hóa thành glucoza-6-phosphat (G-6-P) nhờ men hexokinaza.
Tuỳ theo nhu cầu, tuỳ loại tế bào mà glocoza-6-phosphat có thể đi theo các
con đường khác nhau:
Tổng hợp thành glycogen dự trữ: chủ yếu ở gan và cơ. Khử phosphat cung cấp lại glucoza cho máu: xảy ra ở gan. Thoái biến thành axit pyruvic rồi axetyl CoA đi vào chu trình Krebs cho
năng lượng, CO2 và H2O: Xảy ra ở ty lạp thể của mọi tế bào.
Tham gia chu trình pentoza tạo ra axit béo: xẩy ra ở gan và mô mỡ với sự hỗ
51
trợ của insulin.
2.1.1.3. Điều hoà cân bằng glucoza máy Mức glucoza huyết phản ánh sự cung cấp và tiêu thụ cũng như phản ánh sự điều hoà của thần kinh và nội tiết. Bất cứ một loài gia súc nào hay người cũng có hàm lượng glucoza huyết hằng định. Mức glucoza huyết tương đối hằng định dao động trong khoảng 100-160 mít%, riêng bò cái tiết sữa dao động trong khoảng 40-60 mịt (nguồn gốc glucoza huyết của loài nhai lại chủ yếu từ axit béo bay hơi do lên men xenluloza tạo thành). Tuy vậy, loài nhai lại vẫn đảm bảo được năng lượng cần thiết cho cơ thể bởi vì axit axetic hấp thu ở dạ cỏ có thể trực tiếp oxy hóa cho ra năng lượng. Sự cân bằng glucoza máu phụ thuộc vào hai nguồn: ,
a) Nguồn bổ sung
Gluxit thức ăn: sau bữa ăn glucoza huyết tăng lên trong máu. Glycogen ở gan là nguồn bổ sung trực tiếp. Glycogen ở cơ là nguồn bổ sung gián tiếp vì glycogen ở cơ còn phải chuyển thành axit lactic sau đó đưa về gan chuyển thành glycogen gan và trở thành nguồn bổ sung.
52
b) Nguồn tiêu thụ Glucoza đi vào chu trình Krebs phân huỷ cho ra năng lượng. Glucoza phân huỷ để tổng hợp nên các chất khác: protein, mỡ khi thừa.
Nếu glucoza quá cao trong máu trong thời gian ngắn thì nó bị đào thải theo
đường niệu.
c) Sự điều hoà của thần kinh và nội tiết Vai trò điều hoà của nội tiết: Một số nội tiết tố có tác dụng lên một số men chuyển hóa gluxit nên ảnh hưởng đến mức glucoza máu. Có hai nhóm đối lập: một bên là insulin làm giảm gucoza máu và một bên là một tập hợp gồm nhiều nội tiết tố và một số chất khác có tác dụng làm tăng glucoza máu.
Insulin: do tế bào beta của đảo tuỵ tiết ra có tác dụng làm giảm glucoza máu nhanh và mạnh. Insulin làm glucoza nhanh chóng vào tế bào và nhanh chóng được sử dụng như thoái hóa cho năng lượng, tổng hợp glycogen, tổng hợp protien, axit amin. Chức năng của insulin bao gồm:
Hoat hóa hexokinaza làm glucoza nhanh chóng vào tế bào. Tăng khả năng thấm ion kali và phosphat vô cơ vào tế bào, tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình phosphoryl hóa và sử dụng glucoza.
Trực tiếp chuyển glycogen synteraza từ dạng không hoạt động sang dạng
hoạt động để tổng hợp glycogen từ glucoza.
Ức chế một số enzym xúc tác tân tạo đường như pyruvat cacboxylaza. Gắn với thụ thể đặc hiệu trên màng tế bào đích tạo nên chất trung gian là
oligoglycopeptit có tác dụng vận chuyển glucoza vào tế bào.
Làm giảm thoái hóa các chất có khả năng tạo ra glucoza như: glycogen, lúm,
thoát.
Hệ đối kháng với insulin: Có tác dụng làm tăng glucoza máu. Adrenalin: kích thích tạo adenosin monophosphat (AMP) vòng của tế bào đích, tăng hoạt hóa men phosphorylaza ở gan làm tăng thoái hóa glycogen tạo glucoza.
Glucagon là hormone do tế bào alpha ở đảo tuỵ tiết ra, có tác dụng tương tự như adrenalin nhưng mạnh hơn và kéo dài hơn. Glucagon còn kích thích phân huỷ mỡ do men lipaza được hoạt hóa bởi AMP vòng (AMPc).
Glucocorticoit: ngăn cản glucoza thấm vào tế bào (trừ tế bào não). Tăng hoạt hóa glucoza-6-phosphataza làm tăng giải phóng glucoza ở gan vào máu. Tăng tân tạo glucoza từ protein.
Tyroxin: tăng hấp thu đường ở ruột, tăng phân huỷ glycogen. Growth hormon (GH): tăng thoái hóa glycogen bằng cách ức chế men
hexokinaza.
GH còn hoạt hóa insulinaza. Insulinaza và kháng thể chống insulin: trực tiếp phân huỷ insulin. * Sự điều hòa của thần kinh: Thí nghiệm cổ điển của Claude Bemard: ông châm vào não thiếu bốn đã gây tăng đường huyết. Beykov gây được tăng đường huyết thùng phản xạ có điều kiện.
Đường huyết tăng trong một số trường hợp mang phấn vỏ não và hệ giao
53
cảm (hồi hộp, xúc động, stress).
Vai trò của vùng dưới đồi: đến nay người ta dã phát hiện được hai trung tâm
(A và B) ở vùng dưới đồi tham gia điều hoà đường huyết thông qua nội tiết.
Trung tâm A: gồm.những tế bào thần kinh, không có mặt insulin vẫn thu nhận được glucoza từ máu. Trung. tâm này đại diện cho các tế bào không cần insuhn vẫn thu nhận được glucoza như: tế bào não, gan, hồng cầu. Khi glucoza máu giảm xuống thì trung tâm A bị kích thích. làm tăng tiết glucagon, adrenalin, ACTH (Adenocorticotropic hormon), LMH (Lipid mobilising hormon) để tăng tạo glucoza.
Trung tâm B: đại diện cho tất cả các tế bào ( còn lại của cơ thể phải có insulin mới thu nhận được glucoza. Các tế bào này sử dụng đi xộc thể xe ton như là một nguồn bổ sung quan trọng. Khi thiếu. insulin, trung tâm B sẽ huy động mọi cơ chế nội tiết làm glucoza máu tăng cao, đủ thấm vào tế bào nhờ sự chênh lệch lớn về nồng độ glucoza trong và ngoài tế bào. 2.1.2. Rối loạn cần hóa gluxit 2.1.2.1. Rối loạn glucoza máu a) Giảm glucoza máu Tuỳ theo từng tài gia súc (mức glucoza máu ở từng loài khác nhau) lượng glucoza máu phải giảm dưới mức bình thường tức là dưới mức 100-160 mô và ở bò cái phải dưới mức 40-60 mg% thì có biểu hiện của giảm glucoza máu.
Nguyên nhân: Giảm nguồn bồ sung từ ruột do thức ăn đưa vào là loại thức ăn kém phẩm chất, khẩu phần không đảm bảo đủ lượng gluxit (đói ăn), do các bệnh đường tiêu hóa mà thức ăn không hấp thu qua niêm mạc ruột.
Do rối loạn dự trữ ở gan ảnh hưởng tới nguồn bồ sung trực tiếp glycogen do các bệnh ở gần như xơ gan, viêm gan, teo gan. thoái hóa nhu mô gan. Do ứ đọng glycogen tại gan vì thức ăn thiếu men phosphorylaza làm chủ glycogen không chuyển hóa ra khỏi gan được. Do thiếu men amylo 1-6- glucosidaza gây ứ đọng glycngen ở gan làm cho gan bị suy, gan to.
Do tăng mức tiêu thụ: sau một quá trình tiêu thụ glucoza huyết: co cơ mạnh, rung cơ sốt cao dai dẳng, bệnh ác tính như ung thư… do rối loạn quá trình phosphoryl hóa ở ống thận làm cho thận không tái hấp thu được đường.
Do rối loạn điều hoà thần kinh và nội tiết: ức chế phó giao cảm giảm tiết
glucagon, adrenalin, tăng tiết insulin.
Hậu quả: Kích thích gây cảm giác đói do thiếu glucoza-6-phosphat trong tế bào. Kích thích giao cảm gây tim đập nhanh, run rẩy chân tay, vã mồ hôi. Ruột tăng co bóp, dạ dầy tăng tiết dịch, mắt hoa, rã rời chân tay, có thể bị
xỉu.
Khi glucoza máu giảm nặng, các tế bào thiếu năng lượng, các chức phận bị rối loạn, nhất là tế bào não, tim... con vật có thể bị hôn mê. Trường hợp giảm glucoza máu nặng và đột ngột, có thể bị co giật, hôn mê, chết.
54
b) Tăng glucoza máu
Do glucoza tăng quá mức bình thường. Nguyên nhân: thường ngược với tình trạng giảm glucoza máu ở trên. Xảy ra trong và sau bữa ăn nhất là khi ăn nhiều disaccarit và monosaccarit. Giảm tiêu thụ: trường hợp thiếu oxy (ngạt, gây mê). Thiếu vitamin Bl: Bl là coenzym của nhiều enzym khử cacboxyl oxy hóa axit pyruvic và axit alpha cetoglutaric. Thiếu B1 gây ứ trệ axit pyruvic.
Hưng phấn thần kinh nhất là hệ giao cảm (tức giận, hồi hộp) U não, trung tâm B kém nhạy cảm với insulin. Bệnh nội tiết: giảm tiết insulin, tăng tiết các hormon đối lập, tăng hoạt tính
insulinaza, có kháng thể chống insulin.
Hậu quả: Tăng glucoza máu nói chung không có gì độc cho tế bào nhưng nó làm tăng áp lực thẩm thấu gây đái nhiều, mất Na và K và đặc biệt khi lượng glucoza quá cao vượt quá ngưỡng hấp thu của thận sẽ gây ra glucoza niệu. Tăng glucoza máu do rối loạn nội tiết, nhất là rối loạn bài tiết insulin của tế bào be ta đảo tuỵ thì rối loạn chuyển hóa gluxit rất trầm trọng, thường gặp trong bệnh tiểu đường.
2.2. Rối loạn chuyển hóa lipit 2.2.1. Đại cương 2.2.1.1. Vai trò của lipit trong cơ thể Lipit là nguồn năng lượng trực tiếp cũng như nguồn năng lượng dự trữ lớn nhất của cơ thể. Tuỳ theo loài động vật mà lượng lipit dự trữ trong cơ thể nó khác nhau. Ví dụ: ở lợn lượng lipit dự trữ rất nhiều so với loài nhai lại.
Lipit tham gia vào cấu trúc tế bào, tham gia vào quá trình sinh lý trong cơ
thể, hoà tan một số vitamin (A, D, E, K).
Mỡ còn tham gia giữ nhiệt, nhất là lớp mỡ dưới da. Mỡ còn cung cấp nước cho cơ thể. Ví dụ: khi chuyển hóa 100 gam mỡ cho
ta 107 gam nước.
2.2.1.2. Quá trình chuyển hóa bình thường của lipit Lipit trong cơ thể gồm có ba nhóm chính: Triglyxerit, Phospholipit và
Cholesterol.
a) Hấp thụ lipit Lipit do thức ăn cung cấp sẽ được hấp thu tại ruột và hấp thu chủ yếu là phần trên của ruột non. Lipit thức ăn được tiêu hóa ngay từ tá tràng: lipHza của tuỵ và ruột làm đứt toàn bộ hay một phần số dây nối este (tách axit béo thành dạng tự do) để hấp thu vào cơ thể theo tĩnh mạch cửa (qua gan). Tuy nhiên, phần quan trọng nhất lipit được hấp thu nhờ muối mật: có tác dụng biến lipit thành dạng nhũ tương với đường kính hạt 0,4 micron (gọi là chylomicron) có thể hấp thu theo đường mạch bạch huyết ruột vào tuần hoàn chung (không qua gan).
55
b)Tổ chức mỡ Các tế bào mỡ tập hợp lại thành tổ chức mỡ nằm rải rác tại nhiều chỗ trong cơ thể tuỳ theo từng loài động vật: ở lợn mỡ nằm ở dưới da, trong xoang bụng; ở gia cầm mỡ nằm chủ yếu trong xoang bụng. Mỡ của mỗi loài động vật có một đặc điểm riêng, thành phần của nó khác nhau, độ nóng chảy của nó cũng khác nhau.
Ví dụ: Mỡ bò nóng chảy ở 42 - 490C; mỡ dê, cừu. nóng chảy ở 44 - 500C;
mỡ lợn nóng chảy ở 36 - 460C; mỡ ngỗng nóng chảy ở 26 - 340C.
Lượng mỡ trong thành phần tế bào tương đối không thay đổi nhưng lượng mỡ dự trữ có thể thay đổi nhiều phụ thuộc vào dinh dưỡng, tính biệt, tuổi, giống và thể chất của động vật.
Trước kia người ta quan niệm mỡ nằm trong kho dự trữ không có sự chuyển hóa, hiện nay người ta nghiên cứu bằng cách đánh dấu với phóng xạ đồng vị và thấy rằng mỡ chuyển hóa rất mạnh. Ở người nặng 60 kg mỗi ngày thay đồi chừng 1,5 kg mỡ. trong khi đó chỉ ăn vào có 60g mỡ và 400g gluxit (400g gluxit tương đương với 150g mỡ). Như vậy chứng tỏ 90% mỡ thay đổi trong ngày là do máu đưa đến và lại trở về máu. Loài nhai lại lợi dụng axit axetic và một phần axit butyric để tổng hợp mỡ, bò sử dụng axit béo bay hơi để tổng hợp mỡ sữa.
c) Lipit trong máu Lipit máu phản ánh một vận chuyển rất mạnh mẽ lipit từ nhiều nguồn khác nhau. Lipit hấp thu từ ống tiêu hóa (triglyxerit), lipit điều từ kho dự trữ ra (Free Fatty Acids = FFA) và lipit mới sinh ra (phospholipit, cholesterol). Khi vào trong máu lipit kết hợp với protein của huyết tương thành phức hợp lipoprotein, chủ yếu là FFA đi với albumin, phospholipit với a-globulin, cholesterol với β-globulin và lipit trung tính với γ -globulin.
d) Chuyển hóa lipit Lipit trong máu được oxy hóa tại các cơ quan, tổ chức sử dụng như cơ, thận, nhất là gan. Axit béo và phospholipit được cắt dần thành những mẩu 2C, rồi kết hợp với CoA thành axetyl-CoA từ đó, hoặc đi vào chu trình Krebs, hoặc hình thành thể xe ton để rồi tiếp tục phân giải thành CO2 và H2O. Cho nên thiếu hoặc rối loạn chuyển hóa gluxỉt sẽ hình thành quá nhiều thể xe ton dẫn đến tình trạng cơ thể nhiễm độc axit.
e) Điều hoà cân bằng chuyển hóa mỡ Bình thường lượng mỡ trong cơ thể thay đổi ít nếu như ta vẫn giữ khẩu phần ăn cũng như chế độ sinh hoạt, hoạt động bình thường thì lượng mỡ không thay đổi mấy vì có sự cân bàng. Sự cân bằng này gồm hai hệ thống:
* Hệ thống sinh mỡ Hệ thống này hoàn toàn phụ thuộc vào insulin. Khi insulin tác động thì tăng cường tổng hợp mỡ từ gluxit, insulin còn ức chế các quá trình thuỷ phân mỡ đặc biệt là triglyxerit. Lipocain cũng có tác dụng giống insulin.
* Hệ thống tiêu mỡ Hormon catecolamin tác động chủ yếu là hoạt hóa men lipaza trong tế bào,
làm tăng thuỷ phân mỡ, đồng thời nó ức chế tổng hợp axit béo.
Cortisol và hormon tyroxin có tác dụng giống catecolamin. Tuyến yên có hormon ACTH và GH có tác dụng làm giảm tổ chức mỡ, tăng
mỡ huyết thúc..đẩy quá trình oxy hóa mỡ làm mỡ dưới da giảm.
Yếu tố điều mỡ có tác dụng tăng mỡ ở gan và các thể xeton, giảm glucoza
56
máu và giảm trọng lượng cơ thể.
Glucag(m có tác dụng tương tự như catecolamin tăng hoạt tính của lipHza,
giảm axit béo.
2.2.2. Rồi hoạn chuyển hóa lipit 2.2.2.1. Rối loạn cân bằng lipit a) Béo phì Là sự tích luỹ quế nhiều mỡ so với mức bình thường trong.tổ -chức mỡ, có
'thể phát sinh do một trong ba cú tố bệnh lý sau:
Do ăn quá nhiều. Do giảm huy động. Do tăng tổng hợp mỡ.từ gluxit. Trong chăn nuôi do ý muốn của con người, người ta có thể tác động lên gia súc để gây tình trạng béo như thiến hoạn, giảm vận động, tăng khẩu phần để vỗ béo.
Đối với người. sau một số trạng thái bệnh lý có liên quan đến nào như viêm não, chấn thương vùng hạ khâu não... bệnh nhân tự nhiên ăn uống rất nhiều, tăng cân nhanh, tích mỡ khắp nơi trong cơ thể nhưng hoạt động thần kinh, trí tuệ lại kém đi.
Hậu quả của béo phì: Khả năng lao động sẽ giảm, mỡ bọc quanh phủ tạng,
nhất là tim, làm suy yếu các cơ quan, con vật dễ bị xơ mỡ mạch, tiểu đường.
b) Gầy Mỡ không tích lại được trong cơ thể nguyên nhân do: Do thiếu cưng cấp mà chủ yếu là đói ăn Do tăng sử đụng như trong sốt, nhiễm trùng kéo dài, ung thư vào giai đoạn
cuối, ỉa chảy, các bệnh ký sinh trùng.
Rối loạn hoạt động của thần kinh và nội tiết. Thần kinh luôn luôn căng thẳng bị kích thích mạnh gây một cảm giác lo
lắng, bồn chồn, khó ngủ, tiêu hao năng lượng quá mức.
Nội tiết như bệnh ưu năng tuyết giáp (bệnh Basedow hay Graves), tăng cường chuyển hóa cơ bản như ăn nhiều, uống nhiều nhưng cơ thể vẫn gầy. Do thiểu năng tuyến yên cũng gây cho con vật gầy còm.
Hậu quả của gầy dẫn tới suy kiệt, giảm năng lượng dự trữ, kém sức chịu
đựng, sức đề kháng kém, khả năng lao động giảm.
c) Tăng lipit máu Khi hàm lượng mỡ trung tính trong máu tăng lên quá mức bình thường gọi
là tăng lipit máu.
57
- Tăng lipit máu do ăn uống: Sau khi ăn 2 giờ thì lipit bắt đầu tăng, cao nhất sau 4-giờ, trở lại bình thường sau 7-8 giờ, trong đó triglyxerit tăng sớm và cao nhất, sau đó là phospholipit và cuối cùng là cholesterol. Lipit máu tăng còn phụ thuộc vào:Loài động vật: ở động vật ăn cỏ lipit máu tăng chậm nhưng kéo dài. Loại mỡ trong thành phần thức ăn đưa vào: mỡ thực vật tăng nhanh (vì hấp thu nhanh) hơn là mỡ động vật.
Tăng lipit máu do huy động: Mỡ từ các kho dữ trữ được huy động nhiều ra máu, hoặc được tăng tổng hợp từ gluxit, vượt quá khả năng tiêu thụ của tổ chức ứ lại trong máu.
Tăng lipit máu do rối loạn trao đổi gluxit: khi rối loạn trao đổi gluxit (trong bệnh tiểu đường), đói gluxit hưng phấn thần kinh, ưu năng tuyến yên, tuyến giáp, tuyết thượng thận.
Tăng lipit máu còn do giảm chuyển vận hoặc sử dụng vì lipHza bị ức chế, viêm gai cấp tính vàng da do tắc mật, ngộ độc rượu, thuốc mê, phospho, tetraclorua cacbon.
d) Mỡ hóa gan Đó là tình trạng tế bào gan bị tích đọng một lượng lipit lớn và kéo dài, ảnh
hưởnl xấu tới chức năng chung của gan.
Gan là cơ quan đứng hàng đầu cơ thể trong việc tổng hợp và oxy hóa lipit (gồm các axit béo, glyxerit, phospholipit, cholesterol, các lipoprotein, thể xe ton...). Lipit ăn vào hoặc điều động từ mô mỡ hoặc tân tạo từ gluxit... đều có mặt ở tế bào gan và được đưa ra ngoài (đến nơi sử dụng) dưới dạng lipo-protein hoặc thể xetonic. Nếu mất cân bằng giữa lượng lipit vào tế bào gan và lượng lipit điều ra khỏi gan thì mỡ sẽ tích lại trong tế bào gan.
Nếu lượng mỡ tích lại ở gan nhưng chưa ảnh hưởng đến chức năng của gan gọi là thâm nhiễm mỡ (infiltration): tạm thời, có thể phục hồi hoàn toàn; còn nếu mỡ ở gan lâu chèn ép tế bào gan làm cho gan mất khả năng hoạt động, tế bào gan thoái hóa biến thành mỡ gọi là thoái hóa mỡ (degeneration), xu hướng tiến tới xơ gan. Mỡ hóa gan màu sắc thay đổi: màu hơi vàng, phồng và bóng, khi dùng dao cắt ta thấy có hạt mỡ dính vào dao.
Có hai nguyên nhân làm mỡ hóa gan: Do rối loạn chuyển hóa gluxit, làm tăng cường trao đổi lipit vì vậy mỡ được
huy động quá nhiều ứ lại trong gan.
Trong cơ thể thiếu các chất hướng mỡ methionin, choán, betain làm trở ngại
tổng hợp lipo-protein để chuyển mỡ ra khỏi gan.
Mặt khác khi bị ngộ độc hoặc thiếu oxy tại gan thì nó ức chế quá trình
chuyển hóa mỡ tại gan làm mỡ ứ lại.
e) Rối loạn chuyển hóa cholesterol Trong cơ thể có hai loại cholesterol: cholesterol tự do và cholesterol este hóa, tỷ lệ giữa chúng là 1/3. Gan là nơi chủ yếu thực hiện các phản ứng este hóa này, vì vậy cholesterol este hóa trong máu biểu hiện chức phận của gan.
động vật ăn cỏ, cholesterol được tổng hợp trong cơ thể, ở động vật ăn thịt,
58
ngoài cholesterol được tổng hợp trong cơ thể còn có cholesterol có trong thức ăn. Cholesterol tham gia vào quá trình hình thành các steroit và axit mật. Tăng cholesterol máu có thể gặp: Sau khi ăn thức ăn giầu cholesterol như trong trứng, dầu gan cá, gan... Do kém đào thải, ứ lại trong cơ thể: vàng da tắc mật
Tăng huy động: tăng cùng với lipit máu gặp trong bệnh tiểu đường, tuỵ, hội
chứng thận hư.
Do thoái biến chậm: thiểu năng tuyến giáp, tích đọng glycogen trong tế bào
gan.
Hậu quả: Cholesterol máu tăng cao và kéo dài sẽ xâm nhập vào các tế bào làm rối loạn chức phận của các tế bào các cơ quan gây bệnh u vàng, xơ gan và nặng nhất là xơ vữa động mạch
Giảm cholesterol máu thường gặp trong trường hợp cholesterol bị đào thải quá nhiều, giảm hấp thu (trong bệnh lỵ amip giai đoạn đầu, bệnh viêm ruột già, thiếu máu, bệnh basedow...)
2.3. Rối loạn chuyển hóa protid 2.3.1. Đại cương 2.3.1.1. Vai trò của protid trong cơ thể Protit là chất tạo hình không thể thay thế của cơ thể. Quá trình sống là sự thoái hóa và tân tạo thường xuyên của protid. Protit có mặt trong mọi thành phần của tất cả các tế bào, các mô, các cơ quan, các dịch thể của cơ thể. Do vậy, thoát có vai trò hết sức quan trọng trong các hoạt động sinh lý cũng như trong các quá trình bệnh lý. Có thể nói mỗi protein trong cơ thể thực hiện một chức năng nhất định: cấu trúc, điều hoà, xúc tác, vận chuyển...
Chức năng cấu trúc: Protit là chất tạo nên nhân, nguyên sinh chất và màng tế bào, xây dựng các mô, các cơ quan, giúp cơ thể vận động và chống đỡ cơ học. Co cơ được thực hiện bởi sự chuyển động của hai sợi thoát: actm và miosm. Da, cơ, xương, gân, dây chằng được cấu tạo bởi nhiều loại thoát sợi như: collagen, eslatin, keratin giúp cơ thể chống đỡ các tác nhân cơ học.
Chức năng điều hoà, cân bằng nội môi: tất cả các phản ứng hóa học cũng như các quá trình sinh học: đông máu, chảy máu, hoạt động của hệ thống bổ thể, hệ thống khăn...xảy ra trong cơ thể đều được hoạt hóa và điều hoà bởi các thoát đặc biệt gọi là enzym. Các hormon tham gia vào tính phản ứng của cơ thể, điều chỉnh chức năng của nhiều cơ quan cũng là thoát. Protit tham gia kiểm soát thông tin di truyền, giúp cho các tế bào trưởng thành và biệt hóa.
Chức năng vận chuyển các chất: Hemoglobin vận chuyển O2, CO2; lipo-protein vận chuyển lipit; albumin vận chuyển bilirubin, axit béo; transferin vận chuyển sắt; seruloplasmin vận chuyển Cu...
Chức năng bảo vệ: kháng thể cũng là protein chống các kháng nguyên gây
bệnh.
Protit cũng có vai trò là nguồn năng lượng cho cơ thể khi không đủ lipit và gluxit. Tất cả các loại thoát đều được tạo nên do sự kết hợp khác nhau của 22 axit quân cơ bản. Đặc điểm của thoát mang tính chất đặc trưng của từng loài, từng giống, thậm chí ở từng loại cơ thể mà biểu hiện rõ trong phản ứng miễn dịch.
59
2.3.1.2. Đường đi của protid trong cơ thể Protit trong ống tiêu hóa được các men phân giải thành các axit quán từ đó được hấp thu vào máu. Trong cơ thể phần lớn axit quan được sử dụng tại gan và ở
tuỷ xương, ngoài ra protein của bản thân cũng tự phân huỷ đi để cho ra các axit quan để sử dụng.
Trao đổi protein được biểu hiện bằng cân bằng dương, khi lượng protein ăn vào cơ thể bằng lượng protein mà cơ thể thải ra ngoài gọi là cân bằng đều về protein. Nếu lượng protein lấy vào từ thức ăn nhiều hơn lượng protein thải ra ngoài gọi là cân bằng dương về dương (ở gia súc non, hoặc con vật đang có chửa, động vật sau một quá trình ốm khỏi đang phục hồi sức khoẻ). Cân bằng âm thể hiện khi lượng protein thải ra ngoài nhiều hơn lượng protein ăn vào cơ thể (ở người ốm không ăn được, bệnh đường ruột).
Vậy muốn duy trì cân bằng nào cần có một mức protein tối thiểu nhất định, mức protein tối thiểu này khác nhau tuỳ loại gia súc: ở cừu, lợn là 1 gam; ngựa 0,7 - 0,8 gam; bò 0,6 protein trên một kilogam thể trọng trong một ngày đêm.
2.3.1.3. Sự điều hoà của thần kinh và nội tiết Tác dụng điều hoà chuyển hóa protein liên quan chặt chẽ với chuyển hóa
gluxit và lipit.
Insulin có tác dụng ức chế hình thành gluxit từ protein nên hormon này có
tác dụng giảm phân huỷ protein.
Hormon tuyến giáp gây tăng chuyển hóa tổ chức ngoại vi, tăng nhu cầu về năng lượng, cho nên nếu tăng gluxit trong thức ăn thì giảm phân huỷ protein, nếu như trong khẩu phần thức ăn thiếu gluxit thì sự phân huỷ protein được tăng cường.
Hormon thượng thận tăng phân hủy protein và tạo glycogen tại gan và tất
nhiên ACTH có tác dụng tương tự.
STH tăng tổng hợp thoát, giảm axit quan và mê trong máu, giảm thải nhờ làm cho cân bằng chất này dương tính. Do cơ thể tích luỹ nhiều protein mà phát triển nhanh chóng.
60
Androgen tăng tổng hợp protein nhất là ở cơ (do đó giảm thải creatinin).
2.3.2. Rối loạn chuyển hóa protid Các sản phẩm chuyển hóa của protein thường được đổ vào máu, cho nên protein huyết tương phản ánh khá trung thực protein của toàn cơ thể. Rối loạn chuyển hóa protein bao gồm rối loạn tổng hợp số lượng, các thành phần protein và rối loạn tổng hợp về chất.
2.3.2.1. Rối loạn tổng hợp số lượng protid a) Tăng tổng hợp chung Biểu hiện tăng sự đồng hóa axit amin mạnh hơn quá trình dị hóa, cân bằng dương tính, cơ thể phát triển. Gặp trong thời kỳ trưởng thành, đang tập luyện, thời kỳ bình phục bệnh. Trong quá trình bệnh lý: gặp khi cường tuyến yên.
b) Tăng tổng hợp tại chỗ Gặp trong phì đại cơ quan, trong sinh lý gặp ở người tập thể hình, tập tạ;
trong bệnh lý: ung thư, phì đại tim do suy tim. Phì đại tim có hai loại: Phì đại tim sinh lý: tim phát triển cân đối với phát triển cơ thể. Phì đại tim bệnh lý: do thiếu oxy mất cân đối. Vì vậy phì đại cơ quan trong cục bộ cũng có thể cân bằng ngơ trong cơ thể
âm tính.
61
c) Giảm tổng hợp chung Gặp khi cơ thể bị đói lâu ngày, suy dinh dưỡng, hoặc gặp trong các bệnh đường tiêu hóa mãn tính hoặc bệnh tiểu đường, trường hợp bỏng, lỗ dò có mủ. Trong sinh lý: tuổi già cân bằng âm tính.
d) Giảm tổng hợp cục bộ Cơ quan không phát triển: teo cơ, suy tuỷ, tắc mạch, hoại tử cơ quan... 2.3.2.2. Rối loạn thoát huyết tương Protit huyết tương có nguồn gốc chủ yếu từ gan (95% albumin, 85% globulin), sau đó là hệ nội mạc võng mô ngoài gan (globulin) và từ một số tổ chức khác (men, hormon, kích tố...). Cho nên thành phần protein huyết tương rất phức tạp (khoảng 30 thành phần khác nhau).
a) Vai trò của protein huyết tương: Cung cấp axit amin cho cơ thể: protein huyết tương cũng bị giảm hóa trong ống tiêu hóa, các axit amin trở về máu để cơ thể tái sử dụng. Vì vậy, lượng protein huyết tương biểu thị cho lượng protein toàn cơ thể.
Tạo áp lực keo, có tác dụng giữ nước, do đó tham gia vào chuyển hóa nước
và điện giải.
Tham gia vận chuyển các nội tiết tố, sản phẩm và nguyên liệu chuyển hóa,
một số yếu tố vi lượng như Fe, Cu...
Bảo vệ cơ thể chống nhiễm khuẩn, nhiễm độc. Huyết tương còn chứa một số thoát có vai trò đặc biệt: đó là một số men
tham gia chuyển hóa các chất, các yếu tố đông máu, các bổ thể...
b) Giảm lượng protein huyết tương Giảm lượng protein huyết tương phản ánh tình trạng giảm protein chung của
cơ thể.
- Nguyên nhân: Do cung cấp thức ăn không đủ, bị đói lâu ngày Do giảm tổng hợp chung trong các bệnh như xơ gan, suy gan. Do tăng sử dụng gặp trong một số trường hợp như hàn gắn vết thương, ung
thư, rối loạn chuyển hóa gluxit (tiểu đường).
Do mất thoát ra ngoài gặp trong trường hợp bỏng, hội chứng thận hư, các lỗ
dò, mủ...
- Biểu hiện và hậu quả: Về lâm sàng thấy sụt cân, cơ teo nhỏ, giảm trương lực, thiếu máu, vết thương lâu lành, có thể bị phù. Khi xét nghiệm thấy protein huyết tương giảm, trong đó tỷ lệ và số lượng albumin giảm phản ánh trung thành mức độ thiếu protein toàn thân.
Giảm protein huyết tương kéo dài sẽ dẫn đến suy dinh dưỡng, còi xương, dễ
bị nhiễm khuẩn, sức đề kháng giảm, năng suất lao động giảm sút.
c) Tăng lượng protein huyết tương Trường hợp này ít gặp, thường do tăng phản ứng sau khi mất máu, cơ thể bị
mất nước, ỉa chảy, máu bị cô đặc.
62
d) Thay đổi thành phần protein huyết tương Albumin: đảm bảo 80% áp lực keo của máu, giảm trong tất cả những trường hợp giảm protein huyết tương như giảm tổng hợp đo cung cấp không đủ (đói), do
tổn thương cơ quan (bệnh gan lan tràn kéo dài) hay tăng tiêu thụ albumin như mất ra ngoài trong bệnh thận.
α -globulin: tăng trong các trường hợp viêm cấp, viêm mãn, hoại tử tổ chức (nhồi máu), rối loạn chuyển hóa (hội chứng thận hư, thận nhiễm bột). α -globulin tăng làm độ nhớt của máu tăng, tốc độ lắng máu tăng.
β -globulin có vai trò quan trọng trong vận chuyển lipit. Do đó, các trường hợp tăng lipit máu như tiểu đường, tắc mật, hội chứng thận hư, xơ cứng mạch đều có tăng
- globulin. γ -globulin là kháng thể, do vậy tăng trong máu khi nhiễm khuẩn, quá mẫn
cảm, u tương bào... đều tăng γ -globulin.
2.3.2.3. Rối loạn chuyển hóa trung gian protein. Rối loạn chuyển hóa trung gian protein thể hiện ở tốc độ phân huỷ protein cho axit amin bị chậm lại, xảy ra ở cơ thể có trạng thái bệnh lý như tổ chức thiếu oxy, viêm lan tràn mãn tính kèm theo hoại tử tổ chức v.v...
Các dạng petit phức tạp bị ứ lại trong tổ chức vào máu kích thích các cơ quan nhận cảm ở mạch quản gây rối loạn tuần hoàn, tăng tính thấm mao mạch, hạ huyết áp và nhiều hiện tượng có tính chất dị ứng khác.
a) Rối loạn khử amin Bình thường các phản ứng khử amin cho các xeto-axit R-CH-COOH + 1/2 O2 R-CO-COOH + NH3
xêto-axit
NH2 Phản ứng này bị ức chế khi thiếu men apo-enzim làm cho men khử oxydaza bị phân huỷ hoặc không hoạt động dẫn đến phản ứng trên không thực hiện được dân tới ứ đọng xeton, làm cho xeton tăng lên trong máu dẫn đến xeton niệu (thường bệnh ở gan, thiếu vitamin C).
b) Rối loạn chuyển hóa amin Quá trình chuyển hóa quan xảy ra dưới sự xúc tác của men transaminaza, men này hoạt động được nhờ có vitamin B6, vì vậy khi thiếu vitamin B6 tốc độ chuyển hóa giảm.
c) Rối loạn khử cacboxyl Các axit quan trong cơ thể sinh vật được khử cacboxyl cho các quan tương
ứng.
63
Ví dụ:
Bình thường dưới ảnh hưởng của men aminooxydaza được giải độc ở gan, ruột và các tổ chức khác hoặc kết hợp với protein của tổ chức để chuyển thành trạng thái không hoạt động, khi rối loạn quá trình trên thường gây nhiễm độc (khi tăng cường khử cacboxyl).
Các tổ chức da, cơ, phổi thiếu máu, hoặc bị tổn thương sản sinh rất nhiều
histamin, xơ thận ở thời kỳ cuối có thể bị nhiễm độc tyramin.
d) Rối loạn chuyển hóa NH3 Bình thường NH3 được thải qua đường nước tiểu và phần lớn được gan chuyển hóa thành ure, nếu gan bị bệnh thì amoniac tăng lên trong máu gây hiện tượng nhiễm độc, đặc biệt là nhiễm độc thần kinh. 2.3.2.4. Sự thay đổi của đạm phi protein gia súc hàm lượng đạm phi protein không cao lắm, trung bình vào khoảng
10-60 mà trong đó bao gồm ure, axit amin và đạm cặn.
Đạm phi protein tăng lên trong một số trạng thái khác nhau như teo gan, sốt, nôn nặng, ỉa chảy nặng, bỏng nặng. Đặc biệt các bệnh thận như viêm thận, quá trình siêu lọc của thận giảm nên đạm phi protein tăng trong máu. Bình thường chỉ chiếm khoảng 20- 60% nhưng cũng có thể tăng lên tới 100-600% gây hiện tượng ngộ độc.
2.3.2.5. Rối loạn trao đổi protein Nucleic Protit nucleic là hợp chất các axit nucleic với protein . Khi phân huỷ thì protein có quá trình chuyển hóa như trên. Còn axit nucleic thì tạo thành phần và pirimidin và cuối cùng tạo thành các axit uric theo nước tiểu thải ra ngoài.
Rối loạn thải axit uric gặp trong bệnh Gút (Gom), thường gặp hiện tượng lắng đọng các tinh thể, muối mặt nam ở các tổ chức sụn, bao khớp, gân ở chó, gà. Khi có sự lắng đọng các muối của axit uric gây hiện tượng viêm cấp tính làm biến dạng khớp, kích thích đau làm rối loạn chức năng của khớp. Cũng có khi gặp axit uric lắng đọng trên tương mạc các cơ quan nội tạng hình thành một lớp cát trắng trên màng tương mạc. Hiện tượng tăng axit uric trong máu chỉ gặp khi ăn quá nhiều axit nucleic hoặc khả năng bài tiết của thận kém, cũng có trường hợp lắng đọng axit uric khi nồng độ của nó bình thường.
64
2.4. Rối loạn chuyển hóa nước và điện giải 2.4.1. Đại cương
2.4.1.1. Vai trò của nước và điện giải Nước và các chất điện giải là thành phần không thể thiếu được ở mọi tế bào, sinh vật. Trong cơ thể, mọi phản ứng sinh hóa, mọi hoạt động diễn ra đều không thể thiếu nước và muối. Chuyển hóa của chúng, nước và các chất điện giải liên quan chặt chẽ với nhau. Khi rối loạn chuyển hóa nước thì chuyển hóa muối cũng rối loạn và ngược lại.
Nước: chiếm từ 60-80% trọng lượng cơ thể và là dung môi cho tất cả các
chất.
Không có phản ứng sinh hóa học nào xảy ra trong cơ thể mà không có nước.
Vai trò của nước là:
Duy trì khối lượng tuần hoàn, qua đó góp phần duy trì huyết áp. Làm dung môi cho mọi chất dinh dưỡng, chuyển hóa và đào thải, vận
chuyển các chất đó trong cơ thể đồng thời trao đổi chúng với ngoại môi.
Làm môi trường cho mọi phản ứng hóa học, đồng thời trực tiếp tham gia
thột số phản ứng (thuỷ phân, oxy hóa, sự ngậm nước của protein và keo...).
Giảm ma sát giữa các màng. Tham gia điều hoà nhiệt. Các chất điện giải: bao gồm các chuồn: Na+, Ca++, K+, Mg++, Fe++... và anion: Cl-, HCO3-' HPO4 ""tham gia vào nhiều hoạt động của cơ thể, ví dụ: Ca++ đối với dẫn truyền thần kinh; K+, Mg++, Na+ trong chuyển hóa năng lượng; Fe++ trong vận chuyển oxy; Cl' đối với độ toan dạ dầy... Tuy nhiên vai trò quan trọng của các chất điện giải là:
Quyết định chủ yếu áp lực thẩm thấu của cơ thể mà vai trò quan trọng nhất
là Na+, K+, Cl-, HCO3-…
Tham gia các hệ thống đệm của cơ thể, quyết định sự điều hoà pa nội môi.
Bởi vậy, mất điện giải hay ứ đọng đều gây những rối loạn bệnh lý.
65
2.4.1.2. Sự phân bố nước và các chất điện giải trong cơ thể ba khu vực: trong lòng mạch, gian bào và tế bào
Ghi chú: mEp : milli equivalent (Mui đương lượng) là một đơn vị dùng để đo nồng độ các chất điện giải. Nó chỉ ra hoạt động hóa học hoặc khả năng kết hợp của 1 nguyên tố hóa học có liên quan đến hoạt động của 1 mụ Hydro. Vì vậy, 1 mEq tương ứng với 1 mg Hydro (1 mole) hoặc 23 mg Na+, 39 mg K+.
Sự khác biệt giữa ba khu vực là do một số yếu tố quyết định sau:
- Do áp lực keo (protein trong lòng mạch cao hơn ở ngoài gian bào) và áp lực thẩm thấu (nồng độ Na+ ở trong tế bào thấp hơn ngoài tế bào, còn ton K+ trong tế bào cao hơn ngoài tế bào; Cl-, HCO3- nằm ngoài tế bào cao hơn; PO4--, ở trong tế bào cao hơn ngoài tế bào). Ngoài ra còn phụ thuộc vào:
66
Cấu trúc màng tế bào: hoạt động của màng duy trì sự chênh lệch giữa các chuồn Na+ và K+ và anion Cl-, PO4---, người ta cho rằng con Na+ có tác dụng như một cái bơm "bơm Na" và xu hướng của nó là đẩy ton Na+ ra ngoài tế bào, kẻo ton K+ vào trong tế bào. Năng lượng cần thiết cho hoạt động đó là ATP cung cấp. Các con này có tác dụng vận chuyển được nước qua màng tế bào do sự chênh lệch của áp suất thẩm thấu: bên nào có áp lực thẩm thấu cao nước về bên đó. Ví dụ: khi ăn nhiều muối, áp lực thẩm thấu bên ngoài tăng, nước bên trong tế bào bị rút ra làm tế bào mất nước, sinh ra khát.
Hoạt động của màng tế bào như một màng không thấm, khi màng bị ngộ độc hoặc là tế bào bị tổn thương thì sự chênh lệch trên giảm hoặc mất đi gây tình trạng bệnh lý.
Thành mạch: là màng ngăn cách cho phép mọi phân tử nhỏ đi qua trừ phân tử lớn như protein, vì vậy các chất điện giải không chênh lệch nhau nhiều. Sự vận chuyển nước giữa trong và ngoài lòng mạch là do sự cân bằng giữa lực thuỷ tĩnh (có xu hướng đẩy nước ra ngoài) và lực keo (do albumin đảm nhiệm, hút nước ở ngoài vào). Ngoài ra nước còn theo đường mạch bạch huyết đổ vào tĩnh mạch chủ. Vai trò của thành mạch được coi như màng bán thấm, khi tăng tính thấm thì cân bằng trên bị phá vỡ (gặp trong viêm).
Da và niêm mạc: đó là màng ngăn cách giữa ngoại môi và cơ thể. Sự trao đổi nước và các chất điện giải dưới hình thức ăn uống vào và bài tiết ra ngoài. Nhu cầu nước tuỳ theo loài động vật, lứa tuổi và điều kiện ngoại cảnh tác động.
2.4.1.3. Sự điều hoà chuyển hóa nước và điện giải Nước và các chất điện giải duy trì sự hằng định nội môi theo hai mặt: thể
tích dịch thể và độ đẳng trương (do tổng lượng điện giải quyết định).
Theo cơ chế của thần kinh và nội tiết. a) Điều hoà của thần kinh Cảm giác khát: Thần kinh có tác dụng điều hoà thông qua cảm giác khát để nhập nước vào cơ thể. Cảm giác khát xuất hiện khi: mất máu, ra mồi hôi, khi ăn quá mặn, ỉa chảy, dẫn đến làm tăng áp lực thẩm thấu ở ngoài gian bào. Nước từ trong tế bào rút ra ngoài, kích thích vào cơ quan cảm thụ tại tế bào và truyền xung động lên kích thích vào trung khu khát ở nhân bụng giữa nằm ở vùng dưới đồi, buộc con vật phải tìm nước uống. Nước uống vào sẽ làm cho áp lực thẩm thấu trở về đẳng trương, con vật sẽ mất cảm giác khát
Người ta làm thí nghiệm: kích thích vào trung khu ăn uống của con vật thì làm con vật uống nước mãi cho tới khi ngộ độc về nước, ngược lại người ta cắt bỏ trung khu này đi khi đó tiêm cho con vật một lượng muối cao thì con vật vẫn không uống nước.
Thần kinh còn có cơ quan cảm thụ: Đối với áp lực thẩm thấu ở xoang động mạch cảnh và nhân trên thị, trong trường hợp này lượng nước đi vào ít gây tăng tiết ADH là hormon chống lợi niệu tăng hấp thu nước.
Đối với khối lượng nước ở các tĩnh mạch lớn, vách nhĩ phải và ở thận có tế bào cận cầu thận. Khi huyết áp hạ tế bào cận cầu thận tiết ra một chất re nin vào máu kích thích hệ thống: angiotensin 1 làm tăng tiết aldosteron và angiotensin 2 dẫn đến tăng huyết áp do ức chế việc thải nước ra ngoài và co mạch.
67
b) Điều hoà của nội tiết Rất nhiều nội tiết tố tham gia vào quá trình chuyển hóa nước và các chất điện giải như hormon sinh dục cái (giữ nước), hom lon tuyến giáp khi thiểu năng thì giữ nước. Nhưng tác dụng mạnh mẽ nhất là hormon aldosteron của tuyến thượng thận và hormon ADH của thuỳ sau tuyến yên.
ADH được tiết ra từ thuỳ sau tuyến yên gây tái hấp thu nước ở ống thận xa và ống góp (hom lon chống lợi niệu). ADH có vai trò rất lớn điều tiết lượng nước trong cơ thể khi thừa cũng như khi thiếu. Tác nhân kích thích tiết ADH là tình trạng tăng áp lực thẩm thấu của máu và gian bào với bộ phận cảm thụ rải rác nhiều nơi trong cơ thể: vùng dưới đồi, gan, phổi, xoang động mạch cảnh, vách động mạch chủ, vách tâm nhĩ phải... chúng rất nhạy, có thể cảm thụ được sự tăng giảm 1% áp lực thẩm thấu, để báo về tuyến yên tiết ra hay ngừng tiết ADH.
Aldosteron là hormon có tác dụng điều hoà bài tiết Na+ mạnh nhất của vỏ thượng thận. Có tác dụng giảm tiết Na+ ở nước bọt, mồ hôi và chủ yếu ở ống thận xa, đồng thời phần nào làm tăng tiết K+. Aldosteron có vai trò quyết định trong điều hoà lượng nghi và khu trong cơ thể thông qua đó điều hoà áp lực thẩm thấu. Aldosteron có thể do các yếu tố sau đây kích thích: Giảm khối lượng nước ngoài tế bào Giảm natri ở khu vực ngoại bào, kích thích tuyến tùng sản xuất hormon tác
dụng lên vỏ thượng thận.
Tăng tiết hệ re nin - angiotensin Ngoài ra aldosteron còn có vai trò trong sự duy trì khối lượng nước và huyết
áp.
2.4.2. Rối loạn chuyển hóa nước và điện giải
2.4.2.1. Rối loạn cân bằng nước a) Mất nước trong cơ thể Mất nước xảy ra khi mất cân bằng giữa lượng nước nhập và xuất hoặc do cung cấp không đủ hoặc do mất ra ngoài quá nhiều. Mất nước mà trọng lượng cơ thể giảm 5% thì các dấu hiệu rối loạn bắt đầu xuất hiện, khi mất 20-25% lượng nước thì rất nguy hiểm vì các rối loạn huyết động và chuyển hóa đều rất nặng và đã hình thành vòng bệnh lý vững chắc. Triệu chứng chung của mất nước là trũng mắt, da khô, lưỡi khô, giảm tiết niệu, rối loạn tuần hoàn và rối loạn chuyển hóa.
68
Một số trường hợp mất nước:
Mất nước do ra mồ hôi Mất nước trong sốt: Khi sốt, thân nhiệt tăng, quá trình chuyển hóa các chất, chuyển hóa năng lượng tăng, hoạt động của các cơ quan tăng dẫn đến nhu cầu oxy tăng, lượng CO2 đào thải tăng. Do vậy con vật phải thở tăng. Nhiệt độ tăng làm bão hoà hơi nước trong hơi thở cũng tăng. Khi sốt lượng nước mất theo hơi thở có thể gấp mười lần bình thường. Cuối cơn sốt con vật vã mồi hôi nhiều. Như vậy trong sốt, mất nước chủ yếu theo đường hô hấp và sau là mồ hôi.
Mất nước do nôn: thường kèm theo mất HCl gây nhiễm độc kiềm. Mất nước do thận: gặp trong đái nhạt, việc bù khối lượng nước và điện giải
tương đối dễ dàng, ít gây rối loạn chuyển hóa, điện giải và thăng bằng axit-bazơ.
Mất nước do ỉa chảy Mất nước qua đường tiêu hóa do bản thân cơ thể không hấp thu được và do tiết dịch quá nhiều: ỉa chảy mất nước còn kèm theo mất kiềm dẫn đến nhiễm độc axit. Khi lượng nước trong cơ thể mất đi máu cô đặc dẫn đến huyết áp hạ làm rối loạn tuần hoàn nghiêm trọng, con vật có thể chết do truỵ tim mạch.
Do thiếu máu vỏ thận làm cho thận lọc kém, thậm chí không lọc dẫn đến
thiểu niệu, vô niệu, làm ứ trệ các chất độc gây nhiễm độc.
Mất các chất điện giải qua đường tiêu hóa dẫn đến rối loạn trao đổi các chất
điện giải, nhược trương gây độc tế bào.
Phù, thũng Phù là tình trạng tích nước quá mức bình thường trong gian bào, là khi có
nước tích trong các hố tự nhiên (màng phổi, màng tim, hố bụng...).
Cơ chế phù: Tăng áp lực thuỷ tĩnh làm cho nước bị đẩy ra khỏi lòng mạch nhiều hơn lượng nước trở về do áp lực thẩm thấu keo của protein. Cơ chế này có vai trò quan trọng trong: phù do suy tim phải (phù toàn thân, vùng thấp), suy tim trái (phù phổi), chèn ép tĩnh mạch (viêm tắc, co thắt), báng nước (cản trở hệ tĩnh mạch cửa, xơ gan), phù đáy mắt (trong cao huyết áp).
Giảm áp lực thẩm thấu keo huyết tương: áp lực thẩm thấu keo do protein chi phối, trong đó riêng vai trò của albumin là 80%. Khi áp lực này giảm, nước trong mạch bị áp lực thuỷ tĩnh đẩy ra nhiều gây phù. Cơ chế này gặp trong mọi loại phù có giảm protein huyết tương như phù do suy dinh dưỡng, suy gan, xơ gan, thận nhiễm mỡ (đào thải nhiều protein), suy kiệt (ưng thư, bỏng...).
Tăng tính thấm mạch (với protein): protein thoát qua vách mạch ra ngoài gian bào, làm áp lực thẩm thấu keo hai bên triệt tiêu lẫn nhau, do đó áp lực thuỷ tinh tự do đẩy nước ra. Cơ chế này tham gia trong các loại phù: do dị ứng (xuất hiện các chất gây tăng tính thấm thành mạch), do côn trùng đốt, trong viêm, trong phù phổi, trong các trường hợp thiếu oxy hoặc ngộ độc...
69
Tăng áp lực thẩm thấu: gây ưu trương, do đó giữ nước. Cơ quan đào thải muối chủ yếu là thận, với sự điều. hoà của aldosteron bởi vậy phù loại này hay gặp trong: viêm thận, suy thận mãn và cấp.
Tắc mạch bạch huyết: lượng nước ra khỏi mao mạch trở về bằng đường bạch huyết không đáng kể, vì vậy nếu ứ tắc gây phù thì có đặc điểm sau: phù chậm chạp, tổ chức xơ kịp phát triển nếu phù kéo dài, gặp trong: viêm bạch mạch kéo dài, tắc ống bạch huyết, bệnh giun chỉ... gây phù địa phương.
Phù có hai loại: phù toàn thân và phù cục bộ. Phù toàn thân tổng lượng nước trong cơ thể tăng lên, còn phù cục bộ là do sự phân bố nước không đều nhưng tổng lượng nước không tăng.
- Phù toàn thân chia làm ba loại: Phù do thận: viêm thận cấp do tăng nồng độ áp lực thẩm thấu, giảm áp lực
keo và do hư thận nhiễm mỡ, chủ yếu do giảm áp lực keo.
Phù do gan: chủ yếu do giảm áp lực keo theo hai cơ chế Gan tổn thương không tổng hợp được protein vào huyết thanh Xơ gan cổ
chướng: protein trong lòng mạch thoát vào dịch báng.
Phù do tim: do áp lực thuỷ tĩnh tăng trong các tĩnh mạch chủ là chủ yếu, do
ứ trệ tuần hoàn đặc biệt là tim phải.
Phù cục bộ: Do những cơ chế cục bộ gây ra: di ứng, viêm, côn trùng đất (làm tăng tính thấm cục bộ), chân voi, viêm mạch bạch huyết (do tắc các mạch bạch huyết cục bộ), phù phổi, phù chi dưới (do tăng áp lực thuỷ tĩnh cục bộ).
2.4.2.2. Rối loạn cân bằng điện giải a) Rối loạn cân bằng natri Natri là con chủ yếu của khu vực ngoài tế bào (140 mEq/l, gấp 7 lần nội bào), nó liên quan chặt chẽ với Cl-, HCO3-, vai trò của nó là cân bằng áp suất thẩm thấu và tham gia vào quá trình cân bằng axit-bazơ. Chuyển hóa của natri chịu sự điều hoà của hormon thượng thận.
Giảm natri huyết tương: thường mất natri qua đường tiêu hóa, nước tiểu và mồ hôi, còn chế độ ăn thiếu natri thường không đủ gây nên rối loạn, bởi vì thận có đủ khả năng tái hấp thu bù cho chỗ thiếu. Nguyên nhân tiêu hóa do nôn, lỗ dò, hút dịch trong tắc ruột, nhất là ỉa chảy. Trong bệnh thận, thận thoái hóa kính (các chất nhiễm sắc thể tế bào thoái hóa thành chất trong suất như kính, chủ yếu do rối loạn protein mà ra), đặc biệt khi có kết hợp với nhiễm độc axit thì có giảm natri huyết do thận không tái hấp thu được natri.
Hậu quả: gây nhược trương dịch gian bào làm cho nước đi vực trong tế bào, giảm dự trữ kiềm, giảm khối lượng máu, giảm huyết áp có thể dẫn đến truỵ tim mạch, làm thiểu niệu, gây suy thận và làm tăng mê huyết giả. Có thể phù não, vỡ hồng cầu, K+ có thể bị kẻo ra khỏi tế bào, ảnh hưởng đến co bóp cơ, bải hoải, tim yếu...
Tăng natri huyết tương: thường ít xảy ra, chỉ thấy ở một số bệnh nội tiết, ví dụ: ưu năng tuyến thượng thận hoặc tiêm nhiều ACTH hoặc cortizol, ăn nhiều muối Hậu quả: giữ nước, phù, tăng huyết áp mà cơ chế cho là do phồng nội mạc làm hẹp lòng mạch và tăng hoạt tính catecholamin. Còn có thể gây mất nước tế bào.
70
b) Rối loạn cân bằng kali
ion kali là con chủ yếu trong khu vực tế bào, nó cũng tham gia vào trương
lực của cơ các phản xạ về gân.
Giảm kali huyết tương: tức là nồng độ lớn K+ trong máu giảm dưới mức bình thường kèm theo triệu chứng thần kinh như mỏi cơ, mất phản xạ gân, liệt chi, tắc ruột. Đặc biệt là triệu chứng tim mạch, giảm huyết áp, tim đập nhanh.
Nguyên nhân giảm kali do ỉa chảy, dùng thuốc tẩy nhiều, dùng thuốc lợi tiểu quá mức. Trong một số bệnh làm cho khu chuyển từ máu vào trong tế bào quá nhiều, làm giảm kali huyết (khi tiêm insulin chống bệnh tiểu đường làm cho protein vào trong tế bào nhanh kéo theo khu vào trong tế bào).
Tăng kali huyết tương: là tình trạng rất nguy hiểm có khi liên quan tới tính mạng vì có nguy cơ ngừng tim, triệu chứng chủ yếu là mệt mỏi, liệt nhão cơ; nhưng quan trọng nhất là triệu chứng tim: tim đập chậm, tiếng khẽ, rung tâm thất, truỵ mạch và dẫn tới ngừng đập.
Nguyên nhân tăng kali huyết Do sốc và mất nước nhiều. Do tăng cả trong và ngoài tế bào trong trường hợp các tế bào bị phân huỷ (trong trường hợp nhiễm trùng, nhiễm độc, nhiễm toan nặng). Ngoài ra thiểu năng thượng thận, dùng thuốc lợi tiểu chống aldosteron. 2.5. Rối loạn cân bằng axit- bazơ 2.5.1. Ý nghĩa của cân bằng axit-bazơ Cân bằng axit-bazơ hằng định ở 7,4 + 0,05. Các quá trình chuyển hóa trong cơ thể luôn tạo ra các axit cố định: anhydrit cacbonic, axit pyruvic, axit lactic... vì vậy trong cơ thể phải có một quá trình kiềm hóa và nhờ hoạt động của ba hệ thống trung hoà là hệ thống đệm, phổi và thận.
2.5.2. Hệ thống điều hoà cân bằng axit-bazơ 2.5.2.1. Các hệ thống đệm Một hệ thống đệm trong huyết tương hoặc tế bào gồm có hai cấu phần, đó
là:
Một axit yếu: ví dụ: H2CO3, NaH2PO4… Ngoài ra protein trong môi trường cũng thể hiện tính axit yếu của nó (ký hiệu H-proteinat), cũng như vậy là hemoglobin và oxyhemoglobin (ký hiệu H-Hb và H-HbO2)…
Muối của axit trên với một kiềm mạnh, ví dụ Na+, K+, Ca+, Mg+, NH4. Trong thực tế, ở huyết tương thì Na+ có nồng độ cao nhất, vì vậy nó tham gia chủ yếu vào các hệ thống đệm, còn trong tế bào là K+. Các chuồn khác chỉ có một vai trò không đáng kể.
71
Hệ thống đệm trong huyết tương:
Hoạt động của hệ đệm: Axit (tử số) của hệ đệm tham gia trung hoà các chất kiềm nếu chúng xuất hiện trong cơ thể, còn muối bazơ (mẫu số) tham gia trung hoà các axit nếu chúng xuất hiện.
Ví dụ: hệ đệm H2CO3/NaHCO3 của huyết tương hoạt động như sau: khi tế bào đào thải ra axit lactic, muối bazơ của hệ thống đệm sẽ tham gia phản ứng trung hoà làm cho axit lactic biến thành muối lactat (trung tính) và xuất hiện axit của hệ thống đệm, tức axit cacbonic (yếu).
Như vậy, sau phản ứng đệm, một axit mạnh (lactic) bị trung hoà đi, thay vào đó là một axit yếu hơn (cacbonic), nhờ đó pH của huyết tương chỉ giảm ít. Cũng tương tự, nếu một chất kiềm xuất hiện trong máu, nó sẽ bị axit (H2CO3). Của hệ thống đệm trung hoà, đồng thời thay vào đó là một muối kiềm yếu (NaHCO3), khiến pH ít bị tăng.
Tính chất của hệ thống đệm: - Khi hệ thống đệm có lượng axit (tử số) bằng lượng muối kiềm (mẫu số) thì
hiệu suất đệm của nó cao nhất (tỷ lệ 1/1).
Tỉ lệ giữa axit và muối kiềm của một hệ thống đệm quyết định pH mà nó duy trì. Để duy trì pH của huyết tương luôn luôn bằng 7,4 thì trong hệ thống đệm muối kiềm phải nhiều hơn axit. Do đó, ở huyết tương, hệ đệm H2CO3/NaHCO3 Phải có tỉ số 1/20; còn hệ đệm phosphat NaH2PO4/Na2HPO4 phải có tỉ số 1/4. Như vậy các hệ thống đệm nói chung có hiệu suất không lớn.
Lượng tuyệt đối của axit và muối kiềm trong hệ thống đệm nói lên dung
lượng đệm của hệ thống đó.
Dự trữ kiềm của máu là tổng số muối kiềm của các hệ thống đệm trong máu,
72
nói lên khả năng (dung lượng) trung hoà axit của chúng.
Hệ bicacbonat H2CO3/ NaHCO3 có hiệu suất thấp nhưng bù lại nó có dung lượng lớn nhất trong huyết tương (vì HCO3- huyết tương tới 28 mEq, chỉ thua Cl- = 109 mEq). Ưu điểm đặc biệt của hệ này là axit H2CO3 có thể phân ly để tạo ra CO2, đào thải ở phổi. Nhờ vậy, sau mỗi phản ứng đệm, nó nhanh chóng lập lại được tỷ lệ 1/20 vừa bị phá vỡ. Dung lượng lớn nên mẫu số NaHCO3 của nó trên thực tế được xem như dự trữ kiềm của máu.
Hệ phosphat NaH2PO4/Na2HPO4 có hiệu suất khá hơn nhưng dung lượng ở huyết tương không cao (2 mEq) nên ít quan trọng. Trong tế bào thì nó là một hệ đệm chính vì dung lượng lớn (140 mEq), nhất là ở tế bào ống thận.
Hệ proteinat: ở môi trường axit, protein thể hiện tính kiềm và ngược lại. Vì vậy chúng có vai trò đệm nhưng yếu, bù lại chúng có số lượng khá trong huyết tương (16mEp) và nhất là trong tế bào (65 mEq), nên nó cũng có vai trò đệm đáng kể.
Hệ H-Hb/K-Hb và H-HbO2/K-HbO2 của hồng cầu có dung lượng rất lớn
nên có vai trò quan trọng nhất trong đào thải axit cacbonic.
2.5.2.2. Điều hoà của hô hấp Các axit yếu (H2CO3) do quá trình đệm hình thành, cũng như khí CO2 do quá trình chuyển hóa tạo ra được thải qua đường hô hấp nhờ hoạt động của hệ thống đệm Hb trong hồng cầu phối hợp với natri hydrocacbonat.
Tại phổi: pHở các mô có xu hướng hạ thấp vì các sản phẩm đào thải từ tế bào. Sự có mặt của hồng cầu tạo ra sự kiềm hóa rất mạnh: KHbO2 (kiềm mạnh) sẽ phân ly (do pH thấp) để tạo ra KHb và O2 (vào tế bào). Cùng lúc CO2 của huyết tương (do tế bào thải ra hoặc tạo ra từ phản ứng đệm) sẽ vào hồng cầu tạo ra H2CO3, kết hợp với KHb để tạo HHb (axit yếu) và KHCO3, KHCO3 Phân ly cho HCO3- ra dịch kẽ mô (và huyết tương) kết hợp với Na+ để tạo thành muối kiềm NaHCO3, đồng thời đón nhận Cl- vào hồng cầu (tạo ra KCl). Nhờ mất Cl- và tạo thêm NaHCO3 nên làm tăng pH ở dịch kẽ mô.
Tại phổi: Sự đào thải mạnh mẽ CO2 làm pHở đây có xu hướng tăng lên
nhưng được điều chỉnh bằng các phản ứng ngược lại:
Oxy từ huyết tương vào hồng cầu, tạo ra axit mạnh HHbO2, chất này đẩy
H2CO3 ra khỏi muối của nó (KHCO3) và phân ly thành CO2 thải ra phổi.
73
Cl ra khỏi hồng cầu làm toan hóa huyết tương.
Sơ đồ trao đổi khí và các phản ứng đệm của hồng cầu. Tại phổi (A), Tại tổ chức (B)
Trung tâm hô hấp rất nhạy cảm với CO2: Khi cơ thể tích nhiều CO2 sẽ làm pH giảm, chỉ cần pH giảm tới 7,33 là trung tâm hô hấp bị kích thích mạnh, tăng thông khí, nhờ vậy CO2 được đào thải cho tới khi tỷ lệ H2CO3/ NaHCO3 trở về trị giá 1/20. Ngược lại, khi H2CO3 giảm hoặc NaHCO3 tăng, pH sẽ có xu hướng tăng (kiềm hoá) thì trung tâm hô hấp bị ức chế, thở chậm. CO2 tích lại cho đến khi tỷ số nâng lên đến 1/20. Điều đáng lưu ý, để đảm bảo đào thải CO2 tết thì hoạt động của trung tâm hô hấp, chức năng hệ tuần hoàn, hô hấp, số lượng và chất lượng Hb cũng phải tốt.
2.5.2.3. Điều hoà của thận Điều hoà hô hấp chỉ đào thải được khí CO2, song cơ thể vẫn mất gốc kiềm natri của bicacbonat nếu không có hoạt động của thận nhằm giữ lại muối này khi cần thiết đẩy natri được thay bằng H+, K+ hay NH4+ nhờ hoạt động của tế bào ống thận.
74
Đổi Na2HPO4 thành NaH2PO4 như vậy giữ được một ion Na+ Sản xuất ra ion muôn (NH4+) thay vào một gốc natri.
2.5.3. Rối loạn cân bằng axít-bazơ Khi có rối loạn cân bằng giữa hai quá trình axit hóa và kiềm hóa cơ thể sẽ bị
nhiễm độc axit hoặc nhiễm độc kiềm. 2.5.3.1. Nhiễm độc axit Nhiễm axit là tình trạng các axit thâm nhập vào huyết tương hoặc tình trạng
huyết tương bị mất các muối kiềm làm cho pH có xu hướng giảm xuống.
Xảy ra khi quá trình axit hóa mạnh hơn quá trình kiềm hóa. Khi pH chưa giảm (7,4) song lượng kiềm dự trữ đã giảm đi gọi là nhiệm axit còn bù, còn nhiễm axit khi pH giảm dưới 7,4 và lượng kiềm dự trữ giảm không còn để trung hoà gọi là nhiễm axit mất bù.
Nguyên nhân: Cơ thể sản xuất ra nhiều axit cố định do tăng cường hoạt động, các quá trình
chuyển hóa mạnh hơn khả năng đệm của phổi và thận.
75
Do ăn uống nhiều chất axit. Ứ trệ axit cố định do rối loạn cơ chế điều hoà. Ứ trệ CO2 làm tăng axit cacbonic trong máu. Mất quá trình kiềm.
Biểu hiện: thông khí tăng để tăng thải khí CO2 ra, còn thận tăng cường giữ bicacbonat bằng tăng thải ton H+, cho nên nước tiểu axit do có nhiều phosphat axit và NH3.
a) Nhiễm độc axit hơi Là do ứ trệ khí CO2 trong cơ thể làm thay đổi tỉ số H2CO3/NaHCO3 về
phía tử số.
Nhiễm axit hơi sinh lý như: trong giấc ngủ, trung tâm hô hấp kém nhạy cảm với CO2 khiến chất này tích lại và hơi tăng trong máu; hoặc trong lao động năng CO2 tạo ra vượt quá khả năng đào thải. Nói chung sự tích đọng chưa đến mức giảm pH.
Nhiễm axit hơi bệnh lý, gặp trong khi dùng các loại thuốc ức chế hô hấp (thuốc ngủ, morphin) mà cơ chế giống như khi ngủ và nhất là trong các bệnh cản trở thông khí như xơ phổi, tắc phế quản, liệt cơ hô hấp, suy tim...
Nếu nhiễm axit hơi kéo dài dẫn tới lãng Na+ huyết do giữ nhiều natri ở thận. b) Nhiễm độc axit cố định Do tăng lượng axit cố định trong máu, mà nguyên nhân chủ yếu là: Nhiễm axit chuyển hóa như trong bệnh đái tháo đường, rối loạn chuyển hóa,
sản xuất ra nhiều sản phẩm axit như thể xê ton, khi sốt nhiễm khuẩn.
Nhiễm axit do mất kiềm mà điển hình là do rối loạn tiêu hóa, nhất là ỉa chảy,
nôn, tắc ruột.
Nhiễm axit do suy thận không giữ được cân bằng con H+, các sản phẩm axit
tích lại trong cơ thể.
2.5.3.2. Nhiễm độc kiềm a) Nhiễm độc kiềm hơi Khi tăng thông khí quá nhiều làm cho cơ thể thải quá nhiều CO2 nên tỷ số H2CO3/NaHCO3 nghiêng về mẫu số. Thường do trung tâm hô hấp bị kích thích gặp trong sốt, bệnh viêm não, u não, ngộ độc.
76
b) Nhiễm độc kiềm cố định Xảy ra khi mất ton H+ có thể gặp do: Sau khi ăn có thể tiết nhiều HClI mà chưa kịp tái hấp thu. Sau khi uống nhiều thuốc chống axit. Dùng nhiều thuốc lợi niệu chống Clo trong teo thận mãn tính.
SINH LÝ BÊNH QUÁ TRÌNH VIÊM
3.1. Khái niệm về viêm Viêm là những phản ứng vận mạch và tế bào của tổ chức sống đối với kích thích có hại. Viêm là một phản ứng tại chỗ của mạch máu, của tổ chức liên kết, của hệ thần kinh đối với nhân tố gây bệnh và mối liên hệ của nó đối với tính phản ứng. Viêm gồm ba hiện tượng đồng thời tồn tại và liên quan chặt chẽ với nhau: rối loạn tuần hoàn; rối loạn chuyển hóa và tổn thương tổ chức; tế bào tăng sinh.
Chức năng của phản ứng viêm: Pha loãng các chất kích thích gây viêm (bằng hiện tượng sung huyết và dịch rỉ viêm); Khoanh vùng các chất kích thích gây viêm; Phá huỷ các chất kích thích gây viêm; Loại bỏ các chất kích thích gây viêm; Hồi phục và thay thế các tế bào tổ chức đã bị tổn thương.
3.2. Nguyên nhân gây viêm Nguyên nhân gây viêm thường rất phức tạp và đôi khi cũng khó phát hiện. Người ta thường phân ra thành hai loại nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài.
3.2.1. Nguyên nhân bên ngoài Do các loại vi sinh vật: vi khuẩn, vi rút, ký sinh trùng, amíp, côn trùng... đều có thể gây viêm cho cơ thể gia súc do độc lực cũng như do sự tác động cơ giới của chúng. Vi khuẩn gây viêm thường có ba loại:
Loại vi khuẩn hóa mủ: loại này thường gây viêm hóa mủ đối với tế bào tổ
chức cơ thể gia súc, thường thấy nhất là Staphylococcus, Streptococcus, E. con.
Loại vi khuẩn gây thối rữa: thường chúng gây quá trình thối rữa đối với tế bào tổ chức và gây nhiễm trùng toàn thân như các loại trực khuẩn gây hoại thư sinh hơi.
Loại vi khuẩn gây nhiễm trùng đặc biệt: chủ yếu là những loại vi khuẩn gây hiện tượng truyền nhiễm vết thương như vi khuẩn uốn ván (Clostridium tetani), vi khuẩn nhiệt thán (Bacillus anthracis), vi khuẩn tỵ thư (Malleomyces malêi).
77
- Do cơ giới: do những chấn thương về cơ giới như gia súc bị đánh đập, trượt ngã, gia súc húc, cắn xé lẫn nhau gây nên những tổn thương bên ngoài cơ thể dẫn đến viêm.
Do vật lý: gia súc bị các nhân tố vật lý như nhiệt độ, điện, các loại tia phóng xạ (tia tử ngoại, tia hồng ngoại, tia ton) tác động gây viêm. Với nhiệt độ cao gây bỏng và nhiệt độ thấp bị phát cước.
Do hóa học: các chất axit, kiềm mạnh, muối của kali loại nặng. 3.2.2. Nguyên nhân bên trong Hiện tượng hoại tử tổ chức, xuất huyết, tắc mạch, rối loạn thần kinh dinh
dưỡng (viêm do tắc động mạch).
Do viêm đặc hiệu, do phản ứng kết hợp kháng nguyên-kháng thể: phản ứng
tuberculin, viêm, hiện tượng Arthus, viêm cầu thận...
Trong thực tế hai nguyên nhân này khó phân biệt, thường nguyên nhân bên ngoài tác động dẫn tới những biến đổi, mà những biến đổi đó lại tạo ra nguyên nhân bên trong. Vì vậy cần nghiên cứu từng trường hợp cụ thể để xác định nguyên nhân nào là chủ yếu.
3.3. Biểu hiện của viêm Căn cứ vào những biểu hiện bên ngoài của viêm, người ta mô tả viêm có
những biểu hiện sau:
Đỏ (Redness): màu sắc trên bề mặt vùng viêm thay đổi tuỳ theo sự phát triển của chứng viêm. Giai đoạn đầu tất cả các mạch máu đều có hiện tượng sung huyết, trong các mạch quản (mao mạch, những mạch máu nhỏ) đều chứa đầy máu nên vùng viêm có màu đỏ tươi Sau đó mạch máu giãn ra, máu ứ lại (sung huyết tĩnh mạch) do lưu lượng máu chảy chậm, tổ chức thiếu oxy, vùng viêm chuyển sang màu tím bầm.
Sưng (Swelling): do dịch rỉ viêm, bạch cầu, hồng cầu thấm ra tổ chức. Mạch máu bị sung huyết, máu dồn về tổ chức vùng viêm. Ngoài ra còn do hiện tượng tăng sinh tế bào tổ chức gây nên.
Nóng (Heat): do có hiện tượng sung huyết cục bộ, quá trình trao đổi chất vùng viêm tăng lên, nhiệt lượng sản sinh ra mạnh làm cho tổ chức vùng viêm bị viêm nóng hơn bình thường.
Đau (Pain): do đầu mút thần kinh cảm giác vùng viêm bị dịch rỉ viêm (trong dịch rỉ viêm có nhiều ton H+, kích thích tế bào tổ chức và tế bào tổ chức bị dịch rỉ viêm chèn ép gây nên. Mức độ đau không giống nhau, nó phụ thuộc vào tính chất của tế bào tổ chức, mức độ phân bố của thần kinh cảm giác đến vùng viêm. Ví dụ viêm ở da, màng xương cảm giác đau rõ rệt hơn viêm ở các tổ chức khác.
Rối loạn chức năng (Loss of Function): khi bị viêm thường làm cho cơ năng vùng viêm bị giảm như viêm khớp, viêm cơ, sự vận động của khớp xương và của cơ bị trở ngại, con vật sẽ bị què, đi đứng khó khăn. Nhưng cũng có trường hợp tổ chức bị viêm nhưng hoạt động của cơ năng lại mạnh lên như viêm tuyến nước bọt, nước bọt lại tiết ra nhiều hơn bình thường.
78
3.4. Những biến đổi chủ yếu trong ổ viêm Tại ổ viêm, có bộ ba biến đổi chủ yếu sau đây: Rối loạn tuần hoàn Rối loạn chuyển hóa và tổn thương tổ chức
Tăng sinh tế bào Sự phân chia như vậy có tính chất tương đối để cho dễ hiểu nhưng trên thực
tế chúng đan xen và liên quan chặt chế với nhau.
3.4.1. Rối loạn tuần hoàn tại ổ viêm Thường xuất hiện sớm, dễ nhận thấy nhất; xảy ra ngay sau khi yếu tố gây viêm tác động lên cơ thể. Conheim đã mô tả hiện tượng này khi ông gây viêm thực nghiệm trên màng treo ruột ếch, hoặc màng chân ếch. Theo ông có thể nhìn thấy bốn hiện tượng sau đây của rối loạn tuần hoàn là rối loạn vận mạch, tạo dịch rỉ viêm, bạch cầu xuyên mạch và hiện tượng thực bào.
3.4.1.1. Rối loạn vận mạch Ngay sau yếu tố gây viêm tác động, tại chỗ lần lượt có các hiện tượng: Co mạch: xảy ra rất sớm và rất ngắn có tính phản xạ, do thần kinh co mạch hưng phấn làm các tiểu động mạch co lại. Hiện tượng này chỉ kịp quan sát khi gây viêm thực nghiệm. Về lâm sàng, nó ít có ý nghĩa nhưng về sinh học nếu không có nó thì không có chuỗi phản ứng dây chuyền tiếp theo: giãn tiểu động mạch, tạo sung huyết động mạch.
Sung huyết động mạch: xảy ra ngay sau co mạch, thoạt đầu do cơ chế thần kinh và sau đó được duy trì và phát triển bằng cơ chế thể dịch. Thần kinh giãn mạch bị hưng phấn làm giãn các mao động mạch, máu tới nhiều, huyết áp tăng gây nóng và đỏ viêm. tình trạng hưng phấn này do phản xạ sợi trục. Cơ chế giãn mạch thể dịch là do tác dụng lý hóa của các sản phẩm từ ổ viêm như tăng ton H+, K+, tăng các chất như histamin, polypeptit...
Sung huyết tĩnh mạch: khi quá trình thực bào bắt đầu yếu đi đưa đến giảm sung huyết động mạch chuyển dần sang sung huyết tĩnh mạch. Lúc này các mao tĩnh mạch giãn rộng, dòng máu chảy theo nhịp tim, sau đó chậm dần, có hiện tượng đong đưa, rồi cuối cùng ngừng lại. Cơ chế là thần kinh vận mạch bị tê liệt, các chất gây giãn mạch ứ lại nhiều hơn tại ổ viêm. Trên lâm sàng, xác định sung huyết tĩnh mạch bằng các dấu hiệu bên ngoài: ổ viêm bót nóng, từ màu đỏ tươi sang màu tím sẫm, phù giảm, cảm giác đau giảm chuyển sang đau âm ỉ. Vai trò sinh lý của sung huyết tĩnh mạch là dọn sạch ổ viêm, chuẩn bị cho quá trình sửa chữa và cô lập ổ viêm, ngăn cản sự lan rộng của tác nhân gây bệnh.
- Ứ máu: Sau sung huyết tĩnh mạch là giai đoạn ứ máu mà cơ chế là do: Thần kinh vận mạch của huyết quản bị tê liệt, tác dụng của những chất giãn mạch như histamin, prostaglandin (PG), leucotrien (LT)... làm tăng tính thấm đến mức máu quánh đặc. Độ nhớt máu tăng rất cao, tạo ma sát lớn.
Bạch cầu bám vào thành mạch nhiều hơn, cản trở lưu thông máu. Tế bào nội mô hoạt hóa và phì đại, xuất hiện nhiều phân tử bám dính làm
cho sự vận chuyển máu khó khăn.
Nước tràn vào tổ chức kẽ gây phù, chèn ép vào thành mạch. Hình thành huyết khối trong lòng mạch gây tắc mạch. Hiện tượng ứ máu có vai trò cô lập ổ viêm, khiến yếu tố gây bệnh không thể
79
lan rộng, đồng thời tăng cường quá trình sửa chữa.
3.4.1.2. Hình thành dịch rỉ viêm (Exudation) Dịch rỉ viêm là các sản phẩm xuất tiết tại ổ viêm xuất hiện ngay từ khi sung huyết động mạch bao gồm nước, các thành phần hữu hình và thành phần hoà tan. Trong đó đáng chú Ý nhất là các chất có hoạt tính sinh rỉ.
* Cơ chế hình thành dịch rỉ viêm: Dịch rỉ viêm được hình thành do ba yếu tố chính: Do tăng áp lực thuỷ tĩnh trong các mạch máu tại ổ viêm, có vai trò chủ yếu
ở giai đoạn sung huyết động mạch, gây phù tại ổ viêm.
Do tăng áp lực keo: các chất có hoạt tính như con H+, NO (nước oxit), histamin, PG (prostaglandin)… tác động vào thành mạch làm giãn các khe giữa các tế bào nội mô thành mạch, làm tăng thấm mạch, gây thoát protein (và cả các thành phần hữu hình). Có vai trò rất lớn ở giai đoạn sung huyết tĩnh mạch và làm cho dịch rỉ viêm giầu protein. Tăng áp lực thẩm thấu trong ổ viêm, hậu quả của sự tích lại các con và hóa chất phân tử nhỏ. Có vai trò gây phù rất quan trọng trong giai đoạn ứ máu.
* Thành phần và tính chất dịch rỉ viêm: Tuỳ theo nguyên nhân gây viêm và giai đoạn viêm mà tính chất, màu sắc và thành phần dịch rỉ viêm có khác nhau. Dịch rỉ viêm khác dịch thấm bởi nồng độ protein cao, giàu các. thành phần hữu hình, đồng thời tăng lượng axit lactic, xetonic, do đó pH của dịch rỉ viêm giảm.
Nói chung dịch rỉ viêm gồm hai thành phần chủ yếu: Các thành phần bình thường từ máu thoát ra như nước, muối, protein huyết
tương, các thành phần hữu hình của máu tích lại ổ viêm.
Protein huyết tương thoát ra ngoài theo trình tự từ nhỏ đến lớn qua quá trình phát triển của ổ viêm: ban đầu là albumin, sau đến globulin, gồm các sáng thể có tác dụng cùng thực bào chống lại tác nhân gây viêm và cuối cùng là fibrinogen giúp làm đông dịch rỉ viêm và tạo hàng rào bảo vệ để viêm không lan rộng.
Thành phần hữu hình gồm hồng cầu, tiểu cầu và chủ yếu là bạch cầu (bạch cấu ái toan, bạch cầu ái kiềm, bạch cầu đa nhân trung tính, đại thực bào, lâm ba cầu và tế bào plasma). Tuỳ theo tính chất và các giai đoạn của viêm mà số lượng và loại bạch cầu thoát ra ngoài tổ chức cũng khác nhau. Viêm tơ huyết thì có rất â bạch cầu, trái lại viêm mủ lại có rất nhiều, nhất là bạch cầu đa nhân trung tính. Bạch cầu này phần lớn chết do môi trường quá axit, khi bạch cầu chết sẽ giải phóng ra nhiều men có tác dụng phá huỷ tổ chức.
Thành phần thứ hai bao gồm các chất mới được hình thành, do rối loạn
chuyển hóa và tổn thương tổ chức, có thể kể:
Các hóa chất trung gian như histamin, serotonin, axetylcholin. Các khăn huyết tương, là các protein có khối lượng phân tử nhỏ từ 8-12 axit quan do rối loạn protein. Chúng có tác dụng giãn mạch, gây đau, chất điển hình thường gặp là bradykinin.
80
Các chất chiết từ dịch rỉ có hoạt tính sinh lý như leucotaxin làm tăng thấm mạch và hóa ứng động bạch cầu; leucotrien, sản phẩm chuyển hóa của axit
arachidonic; các cytokin IL 1,6 và 8 (RJ: interleukin) từ đại thực bào và tế bào nội mô hoạt hóa. Chất gây sốt, gồm Il-l, PG, TNF (tumor necrosis factor).
Các axit nhân: trong viêm các axit nhân và dẫn xuất của chúng tăng rõ rệt. Các chất này đều làm tăng thấm mạch, gây hóa ứng động bạch cầu, kích thích xuyên mạch của bạch cầu, kích thích sản xuất bạch cầu, tái tạo mô, tăng sinh kháng thể.
Các men: do huỷ hoại tế bào nên tại ổ viêm có nhiều men thuộc nhóm hydrolaza, ngoài ra còn có hyaluronidaza có tác dụng huỷ axit hyaluronic là thành phần cơ bản của thành mạch làm tăng thấm mạch.
Dịch rỉ viêm có tính chất bảo vệ nhưng nếu lượng quá nhiều sẽ gây chèn ép mô xung quanh gây đau nhức, hoặc hạn chế hoạt động của các cơ quan như khi tràn dịch màng tim, màng phổi.
3.4.1.3. Bạch cầu xuyên mạch Hiện tượng bạch cầu chui ra khỏi lòng mạch chuyển dịch vào ổ viêm gọi là
hiện tượng bạch cầu xuyên mạch.
Người ta chia quá trình bạch cầu xuyên mạch ra làm ba giai đoạn: Bạch cầu áp sát vào trong các thành mạch. Bạch cầu lách qua thành của nội mạc huyết quản. - Bạch cầu vận động tới ổ viêm. Cơ chế để giải thích hiện tượng này đến nay chưa rõ ràng, song Cohnheim đã quan sát thấy hiện tượng đó trên màng ruột ếch. Khi tác động vào ổ viêm thì dòng máu chảy chậm, thành mạch máu giãn, người ta thấy rằng bạch cầu bám sát thành mạch thò chân giả lách qua các khe hở rồi xuyên qua lớp bao xơ của thành mạch lọt vào ổ viêm.
Hiện tượng bạch cầu bị thu hút, vận động tới ổ viêm gọi là hóa ứng động (chemotaxis). Metnhicốp đã ứng dụng hiện tượng này để giải thích hiện tượng bạch cầu xuyên mạch. Bản chất của hiện tượng hóa ứng động đến nay còn chưa rõ nhưng Metnhicốp cho rằng đó là sự hưng phấn của các nguyên sinh chất tế bào bởi các chất hóa ứng động, hưng phấn lan rộng ra khắp tế bào gây nên phản ứng vận động và hướng tế bào tiến tới chất đó. Các chất có tác dụng hút bạch cầu được gọi là hóa ứng động dương đối với bạch cầu như: polysaccarit của phần lớn các vi khuẩn, các sản phẩm phân giải tại ổ viêm như leucotaxin, polypeptit, pepton. Còn các chất có tác dụng đẩy ngược bạch cầu ra khỏi đối tượng gọi là hóa ứng động âm như: clorofoc, benzin, lizin.
Trước kia người ta đưa ra các thuyết sau để giải thích hiện tượng bạch cầu
xuyên mạch:
Do sức căng bề mặt: tế bào trong ổ viêm chứa ton H+ môi trường toan tính và nơi nào thành mạch gần ổ viêm sức căng bề mặt giảm, nguyên sinh chất tế bào thành mạch lệch về phía ổ viêm thu hút bạch cầu vào ổ viêm.
81
Do điện tích: tại ổ viêm bạch cầu tham gia vào phản ứng thực bào, khi tham gia rồi nó có thể trở về máu hoặc tăng sinh tại chỗ hoặc nó bị tiêu diệt. Khi bạch cầu chết bản thân nó cũng giải phóng ra nhiều men hydrolaza. Các men này có tác
dụng diệt vi khuẩn, nó kích thích làm tăng tính thấm thành mạch, tổn thương các tổ chức, rối loạn dòng máu, rối loạn bổ thể, hoạt hóa khăn của huyết tương làm tăng tính thấm thành mạch lên.
3.4.1.4. Hiện tượng thực bào Đó là hiện tượng bạch cầu thiết và tiêu hóa các sinh vật, các tế bào hay các chất khác khi xâm nhập vào cơ thể. Có ba thành phần tham gia vào hiện tượng thực bào: tế bào thực bào, đối tượng thực bào và môi trường thực bào.
Tế bào thực bào: Thực bào là hiện tượng cơ bản của sự tiêu hóa ở sinh vật đơn bào. Khi sinh vật tiến hóa thì có sự biệt hóa nên ở động vật chỉ có một số tế bào có chức năng thực bào đó là:
Tiểu thực bào (bạch cầu đa nhân trung tính và một số ít của bạch cầu ái toan)
có khả năng tiêu được vật nhỏ như vi khuẩn, các mảnh của tế bào.
Đại thực bào (các tế bào đơn nhân lớn - Monocyte) lưu động trong máu và
những tế bào của hệ võng mạc nội mô (tế bào vách phổi, tế bào Kuppfer).
Tại ổ viêm bạch cầu được hoạt hóa, khi được hoạt hóa khả năng thực bào của chúng tăng lên rõ rệt, về hình thái các bạch cầu này lớn hơn các bạch cầu bình thường, chứa nhiều các ty lạp thể (Mitochodria), ngoài ra còn chứa nhiều lyzosom, lưới golgi, riboxom. Về hình thái học mà nói các tế bào bạch cầu này tăng lên cả về protein, ATP, các men tiêu hóa và kể cả glycogen cũng tăng.
Quá trình thực bào diễn ra như sau: mới đầu tế bào thực bào tiếp cận đối
tượng thực bào, sau đó bao vây rồi nữa các đối tượng thực bào.
Đối tượng thực bào bao gồm tất cả các vi khuẩn, các mảnh tế bào bị huỷ hoại ở ổ viêm và các chất lạ như mảnh cacbon, bụi than, chất màu.... Khi tế bào thực bào các đối tượng thực bào có năm khả năng có thể xảy ra:
Đối tượng có thể bị tiêu hóa nhờ các men tiêu hóa của tế bào thực bào tiết ra
(men tiêu hóa đường, đạm, mỡ của tế bào).
Đối tượng có thể không bị tiêu hóa mà tồn tại mãi trong tế bào thực bào như các mảnh cacbon tìm thấy trong các tế bào thực bào ở vách phổi hoặc chất hemosiderin trong gan ở bệnh xơ gan nhiễm sắc.
Đối tượng không bị phân huỷ mà nó theo tế bào thực bào đi tới những nơi
khác gặp cơ hội nó lại ra khỏi tế bào thực bào gây ra ổ viêm mới.
Nếu quá độc đối tượng thực bào có thể làm chết tế bào thực bào (chủng lao
độc, liên cầu khuẩn độc).
Đối tượng thực bào nằm lâu trong tế bào thực bào không tiêu, sau đó tế bào
thực bào lại nhả ra (như tổ chức hoại tử khô đi).
82
Môi trường thực bào: là môi trường xảy ra hiện tượng thực bào, ảnh hưởng đến khả năng thực bào trong đó có yếu tố tăng cường thực bào, có yếu tố ức chế thực bào.
3.4.2. Rối loạn chuyển hóa và tổn thương tổ chức Hai hiện tượng này có liên quan mật thiết với nhau, tạo ra những sản phẩm
ảnh hưởng đến quá trình viêm.
3.4.2.1. Rối loạn chuyển hoá Tại ổ viêm, quá trình oxy hóa tăng lên mạnh, nhu cầu oxy tăng nhưng vì có rối loạn tuần hoàn, sự cung cấp oxy không đủ cho nên chuyển hóa ở ổ viêm chủ yếu là chuyển hóa yếm khí và gây nên hàng loạt các rối loạn về chuyển hóa gluxit, lipit và thoát.
a) Rối loạn chuyển hóa gluxit Chuyển hóa đường tăng mạnh chủ yếu là chuyển hóa yếm khí cho nên axit lactic tăng lên trong máu tại ổ viêm. Một số tác giả cho rằng đường tăng tại chỗ là do tổ chức không sử dụng được đường và có tăng phân huỷ các polysaccarit (do men amylaza của viêm tăng).
b) Rối loạn chuyển hóa lipit Do rối loạn chuyển hóa đường kéo theo chuyển hóa mỡ dở dang vì nhu cầu năng lượng tăng chuyển hóa không kịp dẫn đến các tế bào mỡ bị phân huỷ hàng loạt làm cho axit béo và thể xe ton đều tăng, rất nhiều tế bào bị phá vỡ, các men tiêu hóa phóng thích ra rất nhiều.
c) Rối loạn chuyển hóa protein Tại ổ viêm chuyển hóa protein cũng không hoàn toàn, các lượng protein trung gian như albumoza, dipeptit, polypeptit, axit amin tăng lên nhiều. Nguyên nhân chủ yếu của nó là đo các men tiêu hóa protein phóng thích từ tế bào và vi khuẩn chết tại ổ viêm, cũng do hậu quả của rối loạn chuyển hóa đường ở trên.
3.4.2.2. Tổn thương tổ chức Tại ổ viêm tổn thương tổ chức được chia làm hai loại: Tổn thương tiên phát do nguyên nhân gây viêm tạo ra. Phải có tổn thương
tiên phát thì mới phát triển thành ổ viêm
- Tổn thương thứ phát do những rối loạn tại ổ viêm gây nên. Ví dụ: Khi yếu tố làm tế bào tổn thương, vi khuẩn chết sẽ giải phóng ra các
83
men tại ổ viêm dẫn đến tiêu huỷ tế bào.
Tổn thương tiên phát: tuỳ theo cường độ của nguyên nhân gây viêm mà tổn thương có thể rất nhỏ (kali châm, trầy xước...) hoặc rất lớn (dập nát do chân thương, nhiễm khuẩn độc lực cao...) gây hoại tử tế bào ít hay nhiều.
Tổn thương thứ phát: rất quan trọng vì nó phụ thuộc không những vào cường độ của nguyên nhân mà còn vào mức độ phản ứng của cơ thể. Phản ứng của mạch máu, của các tế bào thực bào, của sự hình thành dịch rỉ viêm... tuy có tác dụng khu trú và loại trừ yếu tố gây bệnh, song chính những phản ứng bảo vệ này, tuỳ mức độ, lại gây ra ứ máu, lại tạo ra nhiều chất có khả năng làm thiểu dưỡng, tổn thương và hoại tử tế bào.
3.4.2.3. Những sản phẩm có hoạt tính sinh lý Quá trình rối loạn chuyển hóa và tổn thương tổ chức sẽ tạo ra rất nhiều chất
có hoạt tính sinh lý tại ổ viêm và đóng một vai trò nhất định trông quá trình viêm.
a) Những chất hóa học trung gian Những chất này chúng có tác dụng chung là gây giãn mạch và tăng tính
thấm thành mạch.
Histamin được phóng thích nhiều trong tổ chức sau bỏng, sau nhiễm khuẩn hay sau phản vệ, rõ nhất là trong viêm thực nghiệm khi tiêm turpentin vào phế mạc. Histamin gây giãn các động mạch, làm tăng tính thấm thành mao mạch và tĩnh mạch.
Axetylcholin (cường phó giao cảm) gây giãn mạch, tăng tính thấm gây dịch rỉ viêm, thấy có nhiều trong máu từ ổ viêm ra. Sau vài ngày khi ổ viêm xuất hiện thì lượng axetylcholin giảm dần và mất hẳn.
Serotonin có rất nhiều trong tế bào mast nằm quanh các huyết quản có tác dụng tăng tính thấm thành mạch rất mạnh, gây phù mạnh hơn 200 lần so với histamin. Serotonin được dùng để giải thích viêm dị ứng, thấy ở chuột trắng vì giống này không phản ứng với histamin.
Anaphylotoxins là nhân tố kích thích giải phóng histamin. Prostaglandins kích thích giải phóng histamin và vì vậy nó hoạt động rất
sớm trong quá trình viêm.
Các kháng thể có mặt trong plasma-alpha-2-globulins trong một hình thức không hoạt động như những kininogen và là những hóa chất trung giản có tiềm năng nhất.
Plasmin giải phóng các kháng thể và bổ thể. b) Polypeptit và protein có hoạt tính sinh lý Người ta đã phát hiện ra được nhiều chất có hoạt tính sinh lý trong dịch rỉ viêm, làm ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình viêm như phản ứng huyết quản, tính thấm thành mạch, bạch cầu xuyên mạch, thực bào và quá trình hồi phục tổ chức. Những chất đó là:
Leucotaxin: có tác dụng tăng tính thấm thành mạch, kẻo bạch cầu xuyên
mạch.
84
Pyrexin có tác dụng gây sốt. Necrosin có tác dụng huỷ thoát, gây tổn thương nội mô và gây huyết khối.
Một số tác giả như Spector, Miles, Witheim cho thấy protein huyết tương dưới tác dụng của trypsin hay một số men dung giải protein khác có thể phóng thích những chất polypeptit gồm từ 8 đến 14 axit quan, có tác dụng gây giãn mạch, gây đau và người ta gọi chung là khán huyết tương. Tác dụng của khán giống như tác dụng của histamin. Chúng làm co cơ trơn phủ tạng nhưng làm giãn cơ trơn thành mạch và do đó làm tăng tính thấm thành mạch. Chúng gây đau và kéo bạch cầu tới chỗ tổ chức tổn thương.
c) Tăng các men phân huỷ Do huỷ hoại tổ chức và dung giải bạch cầu mà phóng thích rất nhiều men trong ổ viêm. Đáng chú ý nhất là men hyaluronidaza có tác dụng phá huỷ axit hyaluronic, một thành phần quan trọng của chất cơ bản ở thành mạch. Theo một số tác giả thì viêm chuyển men này từ dạng không hoạt động sang dạng hoạt động, sẽ biến chất cơ bản từ thể đông sang thể lỏng, do đó tính thấm thành mạch sẽ tăng.
d) Tăng axit nhân Do huỷ hoại tế bào nên lượng axit nhân tăng lên rõ rệt trong ổ viêm. Axit nhân nhất là các dẫn xuất của nó (ADP, AMP) gây giãn mạch với nồng độ rất thấp (1.1006), tăng bạch cầu xuyên mạch và thu hút bạch cầu tới ổ viêm, kích thích tạo bạch cầu, tăng khả năng thực bào, tăng sức đề kháng của cơ thể chống viêm, kích thích tăng sinh tế bào, hàn gắn tổn thương.
3.4.2.4. Hậu quả của rối loạn chuyển hóa và tổn thương tổ chức Nhiễm axit: Rối loạn chuyển hóa gây tích lại trong ổ viêm lượng lớn các chất như axit lactic, thể xê ton làm tăng nồng độ lớn H+, gây trạng thái nhiễm axit. Mức độ nhiễm axit phụ thuộc vào tính chất của quá trình viêm: viêm mủ cấp tính có nhiễm axit nhiều hơn (pH giảm tới 6,5-5,5) là viêm mãn tính (pH 7,1-6,5).
Tăng áp lực thẩm thấu và áp lực keo tại ổ viêm: Do tăng tính thấm thành mạch, thoát huyết tương thoát vào trong ồ viêm, do tăng phân huỷ tổ chức tại đó nên tập trung nhiều sản phẩm chuyển hóa dở dang có phân tử lượng còn lớn (polypeptit, albumin..), các con như K+, Cl-, SO4--… tăng. Tất cả những yếu tố đó làm tăng áp lực keo và áp lực thẩm thấu tại ổ viêm.
Cảm giác đau do nhiều yếu tố gây nên: Cơ quan cảm thụ thần kinh bị chèn ép do sung huyết, ứ huyết, phù nề, cho nên khi tháo mủ ổ viêm, cảm giác đau giảm đi rõ rệt. Đôi khi viêm đang khu trú mà trở nên lan tràn như ruột thừa hoại tử, cảm giác đau giảm đi đột ngột làm tiên lượng, chẩn đoán có thể sai lệch.
Phù nề: Phù nề tại ổ viêm là do tăng tính thấm thành mạch, tăng huyết áp do sung huyết, tăng áp lực keo và áp lực thẩm thấu tại ổ viêm, ứ trệ tuần hoàn máu cũng như tuần hoàn bạch huyết. Phản ứng viêm càng mạnh thì phù nề tăng.
Nhiệt độ tăng: Nhiệt độ tăng tại ổ viêm là do tăng tuần hoàn, tăng chuyển hóa tạo nhiều năng lượng, nhất là giai đoạn sung huyết động mạch (oxy được cung cấp nhiều nên các quá trình oxy hóa tăng).
85
Tóm lại tác nhân gây viêm gây ra hàng loạt những biến đổi, mà sớm nhất là rối loạn tuần hoàn. Những biến đổi đó tác động lẫn nhau hình thành những vòng bệnh lý, có thể tóm tắt theo sơ đồ sau:
3.4.3. Tăng sinh tế bào Tăng sinh tế bào là tế bào mới được tạo ra do tác dụng kích thích của một số sản phẩm trong quá trình viêm. Quá trình tăng sinh tế bào diễn biến đồng thời với rối loạn tuần hoàn và rối loạn chuyển hóa, song tuỳ từng giai đoạn của quá trình viêm mà tốc độ tăng sinh và loại tế bào tăng sinh có khác nhau. Trong quá trình viêm, tăng sinh tế bào diễn biến như sau: Giai đoạn đầu chủ yếu là tăng sinh bạch cầu, nhất là bạch cầu đa nhân trung
tính, biểu hiện rõ nhất khi viêm cấp tính.
Giai đoạn hai là giai đoạn tăng sinh toàn diện bạch cầu, các thành phần của
máu...
Giai đoạn ba là giai đoạn phục hồi, chủ yếu là tăng sinh tổ chức hạt để làm
lành vết thương và tạo sẹo.
* Nguyên nhân tăng sinh tế bào: Nguyên nhân chính do hậu quả của phản ứng tuần hoàn và phản ứng tế bào đặc biệt là khi tổn thương tổ chức, các tế bào bạch cầu ra ổ viêm, khi chết đi tạo ra một số chất làm tăng sinh tổ chức.
* Chức năng tăng sinh tế bào: Tăng sinh bạch cầu đơn nhân và đại thực bào có tác dụng dọn dẹp đào thải các sản phẩm do viêm, làm sạch các tổ chức viêm. Mặt khác chính bản thân nó cũng được kính thích tăng sinh và biến dạng thành các tổ chức hạt giầu năng lượng, giầu mạch quản và các tổ chức sợi để thay thế dần các tổ chức hoại tử tạo sẹo và làm lành vết thương. Nếu tổ chức tăng sinh tốt vết thương chóng lành và tạo thành vết sẹo nông, khi tổn thương quá lớn, rộng thì tổ chức xơ phát triển mạnh tạo thành sẹo lớn, nếu tổ chức viêm lâu, có nhiều men hydrolaza tác động lên tổ chức sẹo làm cho sẹo nhăn nhúm co kéo gây biến dạng.
86
3.5. Quan hệ giữa phản ứng viêm và cơ thể
3.5.1. Ảnh hưởng của cơ thể đốí với phản ứng viêm Trạng thái thần kinh có ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình phát sinh, phát triển của viêm. Người hoặc động vật có thần kinh ở trạng thái ức chế thì phản ứng viêm yếu, như người già phản ứng viêm yếu hơn người trẻ, khi phong bế thần kinh, gây mê hoặc tiêm morphin làm giảm phản ứng viêm một cách rõ rệt. Trạng thái thần kinh còn ảnh hưởng rõ đến quá trình tiết dịch rỉ viêm và hiện tượng thực bào: nếu gây mê thì dịch rỉ viêm giảm rõ rệt. Dùng phản xạ có điều kiện có thể gây tăng bạch cầu, tăng thực bào; thuốc ngủ làm giảm thực bào; cafein lại làm tăng thực bào,...
Nội tiết có ảnh hưởng đến phản ứng viêm. Các nội tiết tố có ảnh hưởng rõ rệt đến phản ứng viêm, nhất là nội tiết tuyến yên và thượng thận. ảnh hưởng của nội tiết có hai mặt:
Loại làm tăng phản ứng viêm như: STH và aldosteron có tác dụng làm tăng
tính thấm thành mạch.
Loại làm giảm phản ứng viêm như: Cortisol, hydrocortisol ức chế tiết dịch rỉ,
ức chế thoát bạch cầu, ức chế thực bào, làm chậm quá trình thành sẹo.
Ảnh hưởng của hệ mạc võng mô: hệ này tham gia vào quá trình sinh kháng thể chống hiện tượng viêm tăng sinh, thực bào đặc biệt là làm nhiệm vụ dọn dẹp vết thương làm cho vết thương chóng lành.
3.5.2. Phản ứng viêm ảnh hưởng đến toàn cơ thể Tại chỗ: gây đau, làm biến đổi hình thái (ví dụ: viêm quá nặng vòm họng ta phải mở khí quản để thở, viêm ruột thường gây viêm dính hoặc viêm nội tâm mạc làm cho van tim biến đổi hình thái), làm hạn chế cơ năng chỗ viêm hoặc mất hẳn.
Toàn thân: Sớm nhất là gây ảnh hưởng tới hệ thần kinh làm cơ thể mệt mỏi, ủ rũ. Ảnh hưởng tới rối loạn tiêu hoá: giảm tiết dịch các men tiêu hóa gây trạng
thái khó tiêu giảm hấp thụ.
+Ảnh hưởng tới tiết niệu làm thay đổi thành phần, số lượng nước tiểu tuỳ
theo các bệnh.
Ảnh hưởng tới cơ quan điều hoà nhiệt: sốt, thay đổi tuần hoàn cũng như nhịp hô hấp, thay đổi thành phần của máu đặc biệt số lượng bạch cầu tăng, cũng có thể thay đổi protein huyết.
Từ những rối loạn trên có thể dẫn tới vòng xoắn bệnh lý, vì vậy khi nghiên cứu viêm ta phải tìm hiểu ảnh hưởng tại chỗ thế nào, toàn thân ra sao, tìm hiểu vòng xoắn bệnh lý thế nào để tìm ra chỗ đột phá cắt đứt vòng xoắn bệnh lý.
3.6. Phân loại viêm 3.6.1. Theo thời gian và tiến triển của viêm Viêm quá cấp tính: tác nhân gây viêm là cực kỳ mạnh hoặc là tổ chức và cơ quan rất mẫn cảm với kích thích. Quá trình bệnh xảy ra cực kỳ nhanh kéo dài chỉ trong một vài giờ. Ví dụ: bệnh ung khí thán, phù u ác tính.
87
Viêm cấp tính: đặc điểm của loại viêm này thời gian ngắn, bệnh xuất hiện kịch liệt phản ứng của mạch máu rất rõ đặc biệt là sự thẩm thấu của thành mạch
máu tăng rất mạnh. Những sản vật trung gian sản sinh trong quá trình viêm kết hợp với độc tố của vi sinh vật sẽ làm cho tế bào của tổ chức bị hoại tử, then dung giải protein sẽ làm tan tổ chức hoại tử. Trong ổ viêm xuất hiện nhiều bạch cầu đa nhân trung tính. Thời gian tiến triển của viêm cấp tính từ vài ngày đến vài tuần.
Viêm á cấp tính: có những đặc điểm trung gian giữa viêm cấp tính và viêm mãn tính. Nó tiến triển không chậm lắm nhưng cũng không mãnh liệt. Hiện tượng thuỷ thững và sung huyết không rõ lắm, tế bào trong ổ viêm chủ yếu là lâm ba cầu, plasmocyte và đại thực bào.
Viêm mãn tính: thường do viêm cấp tính kéo dài gây nên hoặc khi phát sinh viêm tiến triển tương đối chậm. Quá trình viêm tiến triển chậm chủ yếu là do dinh dưỡng của tế bào tổ chức bị trở ngại. Tế bào trong viêm chủ yếu là bạch cầu đơn nhân, lâm ba cầu và đại thực bào.
3.6.2. Theo phạm vi của viêm Viêm kẽ như viêm kẽ thận mãn tính, viêm kẽ phổi. Viêm nhu mô như viêm nhu mô gan, viêm nhu mô thận 3.6.3. Theo thành phần chính của dịch rỉ viêm Viêm thanh dịch: xuất hiện khi thành phần chính của dịch rỉ viêm là bạch
huyết và huyết tương, ví dụ: bệnh lở mồm long móng.
Viêm niêm mạc: xuất hiện trên bề mặt niêm mạc của các cơ quan tổ chức,
thành phần chính của dịch rỉ viêm là dịch nhầy, ví dụ: viêm ruột.
Viêm tơ huyết (viêm fibrin): xuất hiện khi thành phần chính của dịch rỉ
viêm là fibrin.
Viêm hóa mủ: là loại viêm trong dịch rỉ viêm có nhiều bạch cầu, chủ yếu là
bạch cầu đa nhân trung tính từ máu đến và một phần do tổ chức sinh ra.
Viêm xuất huyết: xuất hiện khi thành phần chính của dịch rỉ viêm là hồng
cầu, ví dụ: nhiễm trùng xuất huyết trong bệnh do PHsteurella gây ra.
Viêm dạng lympho: xuất hiện khi thành phần chính của dịch rỉ viêm là
lymphocyte (tế bào lympho).
Viêm dị ứng là một phản ứng của cơ thể đối với một protein mà nó đã được mẫn cảm với cơ thể trước đó. Nó là một loại phản ứng đặc biệt của cơ thể mà ở đó dịch rỉ viêm có thể là thanh dịch, fibrin, mủ hoặc hồng cầu. 3.6.4. Theo dị tật hoặc dị chứng của viêm Viêm tăng sản: là một chứng viêm có đặc điểm là tăng sản tế bào quá mức. Ví dụ: bệnh viêm ruột kéo dài và nguy hiểm. Viêm phì đại: là một loại viêm mà kích thước của những tế bào tăng lên
trong một khu vực viêm.
Viêm teo đét: là chứng viêm mà kích thước của tổ chức và tế bào bị teo đi
mạnh mẽ.
Ví dụ: viêm mũi mãn tính ở lợn. Viêm tắc nghẽn: xuất hiện khi cấu trúc nào đó (tiểu cầu thận, mạch máu và
88
phế quản) trong một khu vực đã bị phá huỷ bởi viêm.
Viêm dính: là loại viêm có sự dính của một tổ chức này với một tổ chức khác bằng các dải của tổ chức liên kết tơ huyết trắng. Các dải đó được sinh ra khi dịch rỉ viêm đã được tổ chức hóa.
3.6.5. Phân loại viêm dựa trên cơ quan và tổ chức viêm Viêm da, viêm màng phổi, viêm phổi, viêm ngoại tâm mạc, viêm thận, viêm
da,
viêm tuyến vú, viêm khớp, viêm ruột, viêm gan, viêm màng não, viêm dạ
dầy...
3.7. Ý nghĩa của viêm Nhìn chung viêm là phản ứng bảo vệ cơ thể vì thực chất nó làm tăng tuần hoàn tại chỗ, tăng chuyển hóa tạo nhiều năng lượng cho phản ứng bảo bệ cơ thể (tăng thực bào, tăng ẩm bào, kích thích tạo thành sẹo). Về nguyên tắc ta tôn trọng phản ứng viêm nhưng nếu viêm nặng và kéo dài gây nhiều ảnh hưởng xấu, các chất mới sinh ra trong
viêm gây hại cho tính mạng con vật, rối loạn chuyển hóa lan rộng, tổn thương lan rộng dẫn đến một lúc nào đó cần phải ngăn chặn bằng cách chống nguyên nhân gây viêm, ngăn ngừa phản ứng sốt, nhất là cơn sốt dài, cắt cơn đau, giải phóng dịch rỉ viêm, chống xuất tiết dịch rỉ viêm.
SINH LÝ BỆNH ĐIỀU HOÀ THÂN NHIỆT - SỐT
89
Đại cương về cân bằng thân nhiệt
Động vật nói chung, người ta chia làm hai loại:
Động vật máu lạnh gọi là động vật biến nhiệt, gồm các loại động vật không xương
sống và có xương sống cấp thấp: cá, ếch, loài bò sát. Thân nhiệt ở các loại động vật này
hoàn toàn phụ thuộc vào sự thay đổi của nhiệt độ môi trường bên ngoài, chúng không có
khả năng điều hoà nhiệt.
Động vật máu nóng gọi là động vật đẳng nhiệt gồm chim và loài có vú. Thân nhiệt
của các động vật này tương đối hằng định và độc lập với nhiệt độ của môi trường nhưng
nó còn phụ thuộc vào loài, giống, cá thể riêng biệt (động vật non thân nhiệt thường cao
hơn) và thời gian trong một ngày đêm (buổi sáng thân nhiệt thấp hơn bình thường và buổi
chiều thân nhiệt cao hơn bình thường). Thậm chí nhiệt độ ở từng bộ phận cơ thể cũng
không giống nhau. Động vật đẳng nhiệt có sự hằng định tương đối đó là nhờ hai quá trình
điều hoà nhiệt là quá trình sản nhiệt và quá trình thải nhiệt.
4.1.1. Quá trình sản nhiệt (Quá trình điều hoà hóa học)
Quá trình sản nhiệt là quá trình điều hoà hóa học do chuyển hóa các chất tạo nên.
Khi nhiệt độ môi trường giảm thì sản nhiệt tăng, khi nhiệt độ môi trường tăng thì sản
nhiệt giảm và nhờ có quá trình điều hoà sản nhiệt mà mức độ chuyển hóa tại tế bào và tổ
chức được tiến hành phù hợp với nhu cầu cơ thể và nhiệt độ môi trường.
Các chất oxy hóa trong tế bào sẽ sinh ra nhiệt lớn và nó phụ thuộc vào thức ăn của
từng loài gia súc. Bên cạnh thức ăn, sự co cơ tức là hoạt động của cơ thể cũng ảnh hưởng
tới nhiệt độ. Ngoài thức ăn và lao động, sự tạo nhiệt còn ít nhiều chịu ảnh hưởng của
hormon: adrenalin, noradrenalin làm tăng tạo nhiệt nhưng ngắn hạn; tyroxin cũng làm
tăng sản nhiệt song kéo dài hơn. Song song với quá trình sản nhiệt thì có quá trình thải
nhiệt đồng thời xảy ra.
4.1.2. Quá trình thải nhiệt (Quá trình điều hoà vật lý)
Là quá trình làm mất nhiệt của cơ thể ra môi trường bên ngoài, bao gồm:
4.1.2.1. Truyền nhiệt
Là sự tiếp thu nhiệt độ của cơ thể bởi các vật có nhiệt độ thấp hơn khi tiếp xúc với cơ
thể như: không khí, quần áo, thức ăn...
4.1.2.2. Khuếch tán nhiệt
90
Tức là khả năng toả nhiệt của cơ thể con vật vào môi trường xung quanh, phụ
thuộc vào nhiệt độ của môi trường. Riêng hiện tượng truyền nhiệt và khuếch tán nhiệt
chiếm khoảng 65% lượng nhiệt thải ra ngoài, nó phụ thuộc vào cấu trúc của da, lông,
mỡ của cơ thể.
4.1.2.3. Bốc nhiệt
Là hiện tượng mất nhiệt do bốc hơi nước qua da và niêm mạc đường hô hấp, chiếm
khoảng 30% lượng nhiệt thải ra hàng ngày. Ví dụ: 1g nước bốc hơi lấy đi 0,6 Kcal.
Ngoài ra, cơ thể còn thải nhiệt qua phân và nước tiểu, mất nhiệt để hâm nóng thức
ăn và hơi thở, sự mất nhiệt này rất ít không đáng kể.
Tóm lại những hiện tượng thải nhiệt ở trên còn phụ thuộc vào cấu trúc của da, tổ
chức dưới da của các loại động vật khác nhau (ví dụ: lớp da dầy lông, lớp mỡ dưới da
dầy thì sự thải nhiệt qua sự khuếch tán và bốc nhiệt qua da kém), hệ thống mao quản
dưới da cũng có tác dụng điều hoà nhiệt rõ rệt, khi thân nhiệt tăng các mao quản giãn
và khi nhiệt độ bên ngoài thấp mao quản co lại. Ngoài ra còn phụ thuộc vào môi
trường bên ngoài, ở nơi ẩm ướt, thoáng gió, ẩm độ cao thì sự thải nhiệt bằng truyền
nhiệt, khuếch tán nhiệt càng mạnh.
4.1.3. Trung tâm điều hoà nhiệt
Nằm ở phần trước của vùng dưới đồi, gồm hai phần
Phần chỉ huy tạo nhiệt: khi bị kích thích làm tăng chuyển hóa và tạo nhiệt thông
qua hệ giao cảm, tuỷ thượng thận và tuyến giáp.
Phần chỉ huy thải nhiệt: bị kích thích thì làm tăng thải nhiệt thông qua hệ phó giao
cảm, giãn mạch da và tiết mồ hôi; khi bị tổn thương gây tăng thân nhiệt.
Như vậy trung tâm điều hoà nhiệt chi phối cả hai quá trình, dựa đồng thời vào hai
nguồn thông tin:
Nhiệt độ môi trường tác động lên bộ phận thụ cảm ở da (và ở trong sâu) truyền lên
trung tâm.
Nhiệt độ dòng máu qua trung tâm Trong quá trình tiến hóa học giảm dần và ý
nghĩa của vật lý càng phát triển của sinh vật và tiến hóa cơ thể vai trò của điều hòa hóa
điều hòa vật lý tăng lên, động vật càng cao cấp, điều hòa
Bảng 5. Tóm tắt những cơ chế làm tăng giảm sản nhiệt hoặc tăng giảm thải nhiệt
91
Những cơ chế mà lạnh tăng cường
Run rẩy
Đói
Tăng sản nhiệt
Tăng hoạt động
Tăng tiết TSH, noradrenalin, adrenalin
Co mạch dưới da
Nằm co quắp
Giảm sản nhiệt
Sởn gai ốc
Những cơ chế mà nóng tăng cường
Giãn mạch dưới da
Đổ mồi hôi
Tăng thải nhiệt
Tăng hô hấp
Chán ăn
Thờ ơ, bất động
Giảm thải nhiệt
Giảm tiết TSH
4.2. Rối loạn thân nhiệt
Rối loạn thân nhiệt là hậu quả của mất cân bằng giữa hai quá trình sản nhiệt và thải
nhiệt, sự mất cân bằng này gây nên hai trạng thái khác nhau, giảm thân nhiệt và tăng
thân nhiệt.
4.2.1. Giảm thân nhiệt (Hypothermia)
Giảm thân nhiệt là tình trạng mất nhiều nhiệt của cơ thể gây rối loạn cân bằng giữa
thải nhiệt và sản nhiệt làm cho thân nhiệt giảm xuống, tỷ số sản nhiệt/thải nhiệt <1.
Trong sinh lý gặp ở những động vật ngủ đông.
Giảm thân nhiệt nhân tạo để chữa bệnh: phẫu thuật gan, bỏng nặng: khi hạ nhiệt độ
bằng cách gây mê, ức chế thần kinh trung ương và chườm đá, ngâm cơ thể vào đá.
Giảm thân nhiệt bệnh lý thường do những nguyên nhân sau
92
Những yếu tố bên ngoài: nhiệt độ môi trường bên ngoài quá thấp, độ ẩm cao, có
gió lùa, một số các hóa dược tác động hoặc tổn thương do phóng xạ làm cho cơ thể
mất nhiệt.
Những yếu tố bên trong: gặp trong trường hợp mất máu, rối loạn chuyển hóa
nghiêm trọng làm giảm quá trình chuyển hóa dẫn đến nhiệt độ giảm. Các gia súc non
dễ nhiễm lạnh hơn gia súc lớn. Lợn bị nhiễm lạnh nhanh hơn đại gia súc, gia cầm có
sức đề kháng mạnh với nhiễm lạnh. Đặc biệt ở ngỗng vẫn giữ được thân nhiệt trong 3
giờ khi nhiệt độ ngoài là - 900C đến - 1 200C, gà giữ được 3 giờ ở nhiệt độ -300C, còn
vịt chịu được ở -400C. Các loài gia súc lớn chịu lạnh kém nhất.
Những rối loạn của cơ thể khi bị giảm thân nhiệt Khi bị nhiễm lạnh, phản ứng của
cơ thể qua ba thời kỳ:
Thời kỳ đầu là thời kỳ hưng phấn: Cơ thể vận động tất cả hệ thống thích ứng
phòng ngự để duy trì thân nhiệt, mạch ngoại vi co lại, làm giảm thải nhiệt, tăng tiết
Adrenalin làm tăng chuyển hóa trong cơ thể, tăng đường huyết, rùng mình tăng sản
nhiệt (tăng vận động run, run rẩy chân tay, lập cập răng, sởn gai ốc). Ngoài ra ta thấy
tăng trương lực cơ, tuần hoàn tăng, hô hấp tăng, khả năng hấp thu oxy tăng để phù hợp
với yêu cầu tăng chuyển hóa và tăng vận động cơ.
Tất cả những phản ứng trên phát sinh theo cơ chế phản xạ, tăng hoạt động của hệ
thán kinh giao cảm và của hệ nội tiết nhưng chịu sự điều khiển của trung tâm điều hoà
nhiệt, nếu trung tâm bị ức chế thì các phản ứng này không xảy ra.
Thời kỳ hai là thời kỳ ức chế. do tác động lâu của lạnh cơ thể bị mất nhiệt liên tục,
những phản ứng trên bị giảm sút, tim đập chậm, hô hấp chậm, oxy giảm dẫn đến
chuyển hóa dở dang, thiếu oxy chuyển hóa yếm khí làm tích tụ các sản phẩm độc gây
nhiễm độc toàn thân.
Thời kỳ ba là thời kỳ kiệt quệ: thời kỳ này các chức phận sinh lý bị suy sụp hoàn
toàn, con vật hôn mê, tim chỉ rung tâm nhĩ và tâm thất, chết do liệt hô hấp.
4.2.2. Tăng thân nhiệt (Hyperthermia)
Thân nhiệt tăng là tình trạng cơ thể tích luỹ nhiệt, do hạn chế quá trình thải nhiệt
vào môi trường hoặc do tăng sản nhiệt cũng có khi phối hợp cả hai.
Thân nhiệt tăng lên quá mức bình thường do một số nguyên nhân sau:
Tăng sản nhiệt gặp trong bệnh chuyển hóa cơ bản tăng.
93
Tăng sản nhiệt trong quá trình viêm.
Do giảm thải nhiệt khi nhiệt độ môi trường quá cao, độ ẩm cao, điều hoà thông khí
kém dẫn đến ức chế quá trình bốc nhiệt, truyền nhiệt, khuếch tán nhiệt hay gặp khi
chuyên chở gia súc trong những toa xe chật chội, thông khí kém dẫn đến cảm nóng.
Gặp khi thời tiết nắng nóng, ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp vào cơ thể gây cảm nắng
(tăng thân nhiệt và sung huyết não).
Do tăng sản nhiệt, giảm thải nhiệt, đây là một trạng thái đặc biệt, hậu quả của rối
loạn trung tâm điều hoà nhiệt và gọi là hiện tượng sốt.
4.3. Sốt (Fever hay pyrexia)
4.3.1. Định nghĩa
Sốt là trạng thái cơ thể chủ động tăng thân nhiệt do trung tâm điều hoà nhiệt bị tác
động bởi các nhân tố gọi là chất gây sốt, đưa đến kết quả tăng sản nhiệt kết hợp với
giảm thải nhiệt.
Sốt có thể gặp trong nhiễm khuẩn, ung thư, huỷ hoại mô, huỷ hoại bạch cầu,... với
tiêu chuẩn là tăng sản nhiệt đồng thời với hạn chế mất nhiệt.
4.3.2. Nguyên nhân gây sốt
4.3.2.1. Sốt do nhiễm khuẩn
Nhiễm khuẩn là nguyên nhân phổ biến nhất, đa số các bệnh nhiễm khuẩn và vi rút
đều sốt Nhưng có một số bệnh nhiễm khuẩn không sốt như ly amip, giang mai, thậm
chí có khi thân nhiệt lại giảm như trong bệnh tả ở người.
Trong trường hợp nhiễm khuẩn, sốt xuất hiện chủ yếu là do tác dụng của độc tố vi
khuẩn, ngoài ra bản thân vi khuẩn và các sản phẩm hoạt động sống của chúng cũng
như các sản phẩm của huỷ hoại tổ chức và tế bào đều có khả năng gây sốt
Ví dụ: Vỏ các vi khuẩn có chất polysaccarit và lipopolysaccarit có tác dụng gây sốt
rất mạnh, chất pyrexin (lấy từ môi trường nuôi cấy vi khuẩn Salmonella abortus e qui)
đem tiêm vào tĩnh mạch thỏ với liều lượng rất nhỏ: 0,003 microgam cho 1 kg cơ thể đã
có thể gây sốt kéo dài hàng giờ.
4.3.2.2. Sốt không do nhiễm khuẩn
Protit lạ từ ngoài đưa vào hoặc nội sinh do phân huỷ thoát của cơ thể tạo nên: xuất
huyết nội, hoại tử tổ chức, gãy xương, bỏng, viêm.
94
Do muối: khi đưa một lượng muối ưu trương vào cơ thể sẽ gây sốt. Người ta cho
rằng khi muối ưu trương vào cơ thể làm biến tính thoát của cơ thể thành loại thoát lạ
dẫn đến gây sốt.
Do tác dụng của dược chất: Một số chất có tác dụng kích thích trung tâm điều hoà
nhiệt, hạn chế thải nhiệt như: cafein, phenatriin, adrenalin ức chế quá trình thải nhiệt.
Do thần kinh: do các phản xạ đau quá mức, ví dụ: sỏi thận, sỏi mật, sỏi bàng quang,
do thần kinh bị tổn thương như u não, chảy máu não.
4.3.3. Các giai đoạn của quá trình sốt
4.3.3.1. Giai đoạn sốt tăng
Các phản ứng sản nhiệt tăng và thải nhiệt giảm do đó tỷ số sản nhiệt/thải nhiệt > 1.
Phản ứng tăng thân nhiệt đầu tiên là run rẩy, sởn da gà, rung cơ; mặt khác phản
ứng giảm thải nhiệt là co mạch dưới da, da tái nhợt, co quắp người, không tiết mồ hôi,
máu dồn vào nội tạng nên tăng tiểu tiện.
4.3.3.2. Giai đoạn sốti đứng
Tỷ số sản nhiệt/thải nhiệt =l. Lúc này sản nhiệt vẫn cao hơn bình thường, song
song với sản nhiệt là thải nhiệt cũng tăng hơn bình thường, tăng giãn mạch toàn thân,
da trở nên đỏ và nhiệt độ ngoại vi tăng. Một thăng bằng mới xuất hiện nhưng ở mức độ
mới cao hơn.
4.3.3.3. Giai đoạn sốt lùi
Tỷ số sản nhiệt/thải nhiệt < 1 , nhiệt độ dần dần về 370C, giai đoạn này ra mồ hôi
nhiều, hô hấp tăng, mạch ngoại vi giãn tạo điều kiện cho sự bốc nhiệt tăng lên. Như
thế, thải nhiệt mạnh hơn sản nhiệt, nhiệt độ hạ xuống cho đến khi cân bằng lúc đầu
được lập lại và thân nhiệt trở lại bình thường.
Ví dụ: Khi dùng pyrexin kích thích vào cơ thể làm rối loạn trung tâm điều hoà
nhiệt dẫn đến sản nhiệt tăng, thải nhiệt giảm (khi đó đối với trung tâm điều hoà nhiệt
95
vẫn cảm thấy lạnh) nên tiếp tục tăng sản nhiệt đến khi nhiệt độ lên tới 400C, lúc này
trung tâm điều hoà nhiệt bình thường vì vậy thiết lập cân bằng mới tăng sản nhiệt và
thải nhiệt ở mức độ cao. Khi chất kích thích không còn tác động nữa, tăng thải nhiệt,
giảm sản nhiệt, trung tâm điều hoà nhiệt trở lại bình thường cho tới khi 370C thì trở lại
cân bằng sinh lý sản nhiệt/thải nhiệt = 1.
4.3.4. Cơ chế sốt
4.3.4.1. Sốt là do rối loạn chức năng của trung tâm điều hoà nhiệt, làm thay đổi
mới tương quan giữa sản nhiệt và thải nhiệt
Người ta cho rằng dưới ảnh hưởng của chất gây sốt, tính cảm thụ của trung tâm
điều hoà nhiệt đối với kích thích nóng giảm xuống, trái lại kích thích lạnh tăng lên do
đó trung tâm điều hoà nhiệt tăng sản nhiệt gây sốt. Khi sốt đã ở mức độ cao thân nhiệt
tăng cơ thể thiết lập cân bằng mới (cân bằng bệnh lý) tăng sản nhiệt và tăng thải nhiệt.
Khi chất gây sốt giảm kích thích hoặc không kích thích nữa thì trung tâm điều hoà
nhiệt trở lại bình thường, khi đó nhiệt độ cao sẽ kích thích trung tâm này gây tăng thải
nhiệt và giảm sản nhiệt để cho nhiệt độ trở lại bình thường.
4.3.4.2. Cơ chế tác dụng của chất gây sốt
Hiện nay chưa biết tác dụng của chất gây sốt như thế nào, có ý kiến cho rằng chất
gây sốt tác động lên trung tâm điều hoà nhiệt thông qua một chất gây sốt nội sinh là
bạch cầu đa nhân trung tính tiết ra.
Có ý kiến khác lại cho rằng các chất gây sốt tác động lên trung tâm điều hoà nhiệt
nhưng trước tiên tác động vào bộ phận cảm thụ tại chỗ, từ đó gây xung động thần kinh
lên trung tâm điều hoà nhiệt làm rối loạn giữa hai quá trình sản nhiệt và thải nhiệt.
Người ta đã thử nghiệm tiêm một chất gây sốt lên các vùng khác nhau trên thỏ và thu
được kết quả sau:
Bảng 6. Kết quả thử nghiệm thêm chất gây sốt cho thỏ
Thời gian chất gây sốt xuất
Thời gian xuất hiện
Nơi tiêm
Mức độ sốt
hiện trong máu
cơn sốt
Dưới da
Trung bình
Trung bình
+
Thận
Sớm nhất
Chậm nhất
++
Khớp
Chậm nhất
Sớm nhất
+++
96
Qua bảng trên ta thấy chất gây sốt tác động nhanh hay chậm, cường độ mạnh hay
yếu còn phụ thuộc vào các bộ phận cảm thụ tại chỗ từ đó tạo ra các xung động thần
kinh tác động lên trung tâm điều hoà nhiệt.
Thí nghiệm khác: Cắt dây thần kinh đùi của thỏ rồi tiêm chất gây sốt thì cơn sốt
xuất hiện đạt tối đa 10 - 20 giờ, trong khi đó ở trên thỏ bình thường chỉ sau 1 giờ sốt
đã xuất hiện và chậm nhất là 10 giờ cơn sốt đã đạt tối đa.
Người ta giải thích như sau: Các chất gây sốt khi vào cơ quan cảm thụ vào máu đi
tới khắp cơ thể, tác dụng lên cơ quan cảm thụ và trực tiếp tác động lên thần kinh điều
hoà nhiệt gây hưng phấn và hưng phấn mạnh nhất là trước và trong cơn sốt làm tăng
sản nhiệt.
4.3.4.3. Vai trò của vỏ não trong quá trình sốt
Rối loạn điều hoà nhiệt trong sốt phụ thuộc vào vai trò của vỏ não. Vỏ não điều
hoà hoạt động của các trung tâm dưới vỏ. Trên thực nghiệm người ta thấy ở gia súc
phá vỏ não thì phản ứng sốt phát sinh rất mạnh. Trong thực tế ở gia súc non vỏ não
chưa phát triển nên phản ứng sốt rất là mạnh. Nếu dùng thuốc ức chế (brômmua) vỏ
não thì phản ứng sốt xảy ra chậm. Còn nếu tiêm cafein trước khi gây sốt thì phản ứng
sốt rất mạnh.
4.3.4.4. Vai trò của nội tiết
Trong thực nghiệm nếu cắt bỏ tuyến yên, hạ khâu não thì phản ứng sốt giảm,
hormon của tuyến thượng thận có thể gây được cơn sốt như adrenalin, noradrenalin.
97
4.3.5. Các kiểu sốt
Khi sốt thì cường độ và tính chất của cơn sốt nó phụ thuộc vào đặc điểm của loài,
giống, tuổi và có thể từng bộ phận.
4.3.5.1. Theo cường độ sốt
Sốt nhẹ tăng lên 10C
Sốt vừa tăng lên 20C
Sốt nặng tăng lên 30C
Nếu sốt >30C là sốt rất nặng.
4.3.5.2. Theo đường biểu diễn nhiệt độ ,
Sốt liên tục: Trong cơn sốt giữa buổi sáng và buổi chiều không chênh lệch nhau
quá nhiều.
Sốt dao động: sáng và chiều chênh lệch nhau >10C.
Sốt cách quãng: sốt và không sốt xen kẽ nhau, có thể ngày sốt và ngày không sốt
gọi là sốt cách nhật, còn hai ngày sốt một ngày không sốt gọi là sốt cách quãng.
Sốt hồi qui: thời gian sốt và không sốt kéo dài rồi mới lặp đi lặp lại theo một qui
luật nhất định.
4.3.6. Rối loạn chuyển hóa trong sốt
4.3.6.1. Rối loạn chuyển hóa năng lượng
Trong tất cả các trường hợp sốt đều có tăng chuyển hóa về năng lượng. Trong thực
nghiệm nếu nhiệt độ tăng lên lọc thì chuyển hóa tăng 3,3% và nhu cầu oxy tăng từ
5-10%.
4.3.6.2. Tăng chuyển hóa gluxit
Đầu tiên lượng dự trữ glycogen giảm, glucoza máu tăng, thậm chí có cả trường
hợp tăng glucoza niệu, axit lactic trong máu cũng tăng lên. Nếu kéo dài cơ thể có thể
nhiễm toan. Vậy khi sốt người ta có thể bổ sung glucoza trực tiếp.
4.3.6.3. Tăng chuyển hoa lipit
Chỉ tăng mạnh khi sốt cao và kéo dài, lượng dự trữ glycogen giảm làm cho lipit
huyết tăng, xuất hiện thể xe ton huyết.
4.3.6.4. Chuyển hóa protit
Chuyển hóa thoát tăng lên trong trường hợp sốt cao và đặc biệt trong trường hợp
nhiễm độc, nhiễm trùng, cơ thể không hấp thu được thức ăn, cho nên phải phân huỷ
đạm, mỡ, nào đào thải qua nước tiểu nhiều. Vì thế khi sốt cao có thể truyền đạm. Nhu
98
cầu vitamin đặc biệt là vitamin B và C: vitamin B chỉ tham gia vào quá trình bổ trợ
cho các quá trình chuyển hóa, vitamin C cũng cần tăng.
Chuyển hóa muối và nước: Trong giai đoạn đầu và giai đoạn hai của sốt chuyển
hóa nước và muối giảm, còn giai đoạn ba chuyển hóa tăng.
4.3.7. Rối loạn chức năng các cơ quan
Rối loạn thần kinh: thường hệ thần kinh hưng phấn sau đó thì ức chế biểu hiện:
đầu tiên ủ rũ, mệt mỏi, nếu nặng có thể bị co giật.
Rối loạn tuần hoàn: tim đập nhanh, nếu nhiệt độ tăng lên lọc thì tim đập tăng lên
nhịp, huyết áp giai đoạn đầu tăng lên do tim đập nhanh, co mạch ngoại vi, giai đoạn
sau trở lại bình thường. Thành phần của máu có những thay đổi, trong huyết tương
tăng các sản phẩm của quá trình phân giải, của quá trình trao đổi chất làm cho nồng độ
acid tăng trong máu, giảm lượng kiềm dự trữ, đặc biệt bạch cầu thay đổi: tăng bạch
cầu đa nhân trung tính trong viêm cấp tính, tăng bạch cầu đơn nhân trong viêm mãn
tính. Trong máu có thể xuất hiện thành phần lạ, vi khuẩn, độc tố vi khuẩn, γ-globulin
cũng tăng lên.
Rối loạn hô hấp: Hô hấp tăng nhanh, ngoài nhiệm vụ tăng nhanh do nhu cầu oxy
và nhu cầu thải CO2 còn nhu cầu thải nhiệt.
Rối loạn tiêu hoá: Cảm giác ăn uống biểu hiện sớm nhất trong rối loạn tiêu hoá: gia
súc bỏ ăn, miệng khô, giảm tiết dịch tiêu hóa, giảm hấp thu các chất dinh dưỡng, tùy
theo từng trường hợp mà giảm nhu động hay tăng nhu động.
Rối loạn tiết niệu: do rối loạn tuần hoàn và độc tố của vi khuẩn trong nhiễm khuẩn
mà chức năng của thận thay đổi. Trước khi sốt giai đoạn đầu có hiện tượng tích nhiệt,
co mạch ngoại vi dẫn đến giảm thải nước tiểu, giai đoạn hai tiết ít và giai đoạn ba trở
lại bình thường. Chất lượng nước tiểu cũng thay đổi tuỳ theo từng bệnh.
Rối loạn nội tiết: nói chung khi sốt hoạt động của nội tiết đều tăng lên đặc biệt là
trục hạ khâu não và thượng não.
Rối loạn chuyển hóa gan: chuyển hóa tại gan tăng lên 30-40%, các chức năng khác
của gan đều tăng lên.
4.3.8. Ý nghĩa của sốt
Sốt là phản ứng thích ứng toàn thân mang tính chất bảo vệ: Nó hạn chế được quá
trình nhiễm khuẩn (tác nhân phổ biến gây sếu vì khi sốt có tăng số lượng và chất lượng
bạch cầu, tăng khả năng thực bào, tăng khả năng sản xuất kháng thể và bổ thể, tăng
99
khả năng chống độc và khử độc của gan, tăng chuyển hóa, tăng chức năng tạo máu,
tăng hoạt động các chức năng sinh lý khác. Trên cơ sở đó tạo ra nhiều liên kết giầu
năng lượng làm cho cơ thể mau chóng được hồi phục.
Trong y học người ta sử dụng phản ứng sốt nhân tạo để điều trị nhiều bệnh: bệnh
thần kinh, bệnh viêm khớp mãn tính, bệnh hen, loét dạ dầy, tăng huyết áp. Do vậy cần
phải tôn trọng khi sốt nhẹ.
Ngược lại để ngăn chặn những biến chứng có hại khi sốt cao thì phải dùng các
phương pháp để cắt cơn sốt. Trong điều trị phải tìm ra được các nguyên nhân gây ra
sốt để điều trị có hiệu quả.
100