
1
HÀNG HÓA CÔNG CỘNG
Trong phần trên, chúng ta đã thấy thị trường thất bại như thế nào trong việc
cung ứng các hàng hóa hoặc dịch vụ tạo ra ngoại ứng. Rất nhiều hàng hóa và dịch
vụ do Chính phủ cung cấp, như quốc phòng, sẽ tạo ra ngoai ứng tích cực, mỗi khi
nó được cung cấp trên thị trường. Trong phần này, chúng ta tiếp tục bàn kỹ hơn về
những hàng hóa tạo ra ngoại ứng tích cực đó, mà kinh tế học công cộng gọi đó là
hàng hóa công cộng (HHCC).
1. Khái niệm và thuộc tính cơ bản của HHCC
1.1. Khái niệm chung về HHCC.
Những hàng hóa và dịch vụ được sản xuất và cung cấp trong xã hội có thể
được chia làm hai loại chính là hàng hóa công cộng (HHCC) và hàng hóa cá nhân
(HHCN). Hàng hóa công cộng là loại hàng hóa không có tính cạnh tranh trong
tiêu dùng, việc một cá nhân này đang hưởng thụ lợi ích do hàng hóa đó tạo ra
không ngăn cản những người khác cùng đồng thời hưởng thụ lợi ích của nó. Nói
cách khác, với một lượng HHCC nhất định được cung cấp, có thể cho phép nhiều
người cùng sử dụng một lúc mà việc sử dụng của người này không làm giảm khối
lượng tiêu dùng của người khác. Chẳng hạn, các chương trình truyền thanh và
truyền hình không có tính cạnh trong trong tiêu dùng. Chúng có thể được rất nhiều
người cùng theo dõi một lúc. Việc có thêm ai đó mở hoặc tất đài hoặc vô tuyến
không ảnh hưởng đến mức độ tiêu dùng của người khác. Tương tự như vậy, an ninh
quốc gia do quốc phòng mang lại cũng không có tính cạnh tranh. Khi dân số của
một quốc gia tăng lên thì không vì thế mà mức độ an ninh mà mỗi người dân được
hưởng nhờ quốc phòng bị giảm xuống.
Đặc điểm này của HHCC cho phép phân biệt nó với những loại hàng hóa
khác có tính cạnh tranh trong tiêu dùng, hay còn gọi là hàng hóa cá nhân. Bánh mì
một ví dụ về HHCN. Với một lượng bánh mì nhất định được sản xuất tại một thời
điểm, nếu số người muốn tiêu dùng bánh mì tăng lên thì lượng bánh mì còn lại
dành cho những người khác sẽ phải giảm xuống. Do tính chất này, trong đa số các

2
trường hợp, giá cả thị trường trở thành một công cụ hữu hiệu để đảm bảo phân bổ
các hàng hóa có tính cạnh tranh trong tiêu dùng đến tay những người có nhu cầu
tiêu dùng chúng cao nhất.
Việc định giá đối với những hàng hóa không có tính cạnh tranh trong tiêu
dùng là điều vô nghĩa vì suy cho cùng, việc có thêm một cá nhân tiêu dùng những
hàng hóa này không ảnh hưởng gì đến việc tiêu dùng của những người khác. Nói
cách khác, chi phí biên để phục vụ thêm một người sử dụng HHCC là bằng 0.
Trong nhiều trường hợp, việc cố gắng định giá cho từng đơn vị tiêu dùng
HHCC cũng là không thể được. Thuộc tính này được gọi là tính không loại trừ
trong tiêu dùng của HHCC: HHCC không có tính loại trừ trong tiêu dùng có nghĩa
là không thể loại trừ hoặc rất tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân từ chối
không chịu trả tiền cho việc tiêu dùng của mình. Chẳng hạn, không ai có thể ngăn
cản những người không chị trả thuế để duy trì bộ máy quốc phòng khỏi việc hưởng
thụ sự an ninh do quốc phòng mang lại. Thậm chí có tống họ vào tù thì họ vẫn
được hưởng những lợi ích quốc phòng. Tương tự, khi các chương trình truyền
thanh đã phát sóng thì bất kể ai có phương tiện thu thanh đều có thể thưởng thức
các chương trình này, cho dù họ không trả một đồng nào cho đài phát thanh.
Thuộc tính này cũng không xuất hiện đối với các HHCN. Nếu như thị trường
có thể dễ dàng định giá cho từng chiếc bánh mì, từng cân gạo hay từng mét vải thì
nó lại không thể định giá cho từng đơn vị tiêu dùng quốc phòng hay chương trình
phát thanh. Đây chính là một trong những nguyên nhân mà khu vực tư nhân không
thể cung cấp được HHCC thông qua thị trường.
1.2. Phân loại hàng hóa công cộng.
Trên đây đã giới thiệu hai thuộc tính cơ bản của HHCC là không có tính
cạnh tranh và không có tính loại trừ trong tiêu dùng. Hàng hóa công cộng nào mang
đầy đủ hai thuộc tính nêu trên là hàng hóa công cộng thuần túy. Một lượng HHCC
nhất định, một khi đã được cung cấp cho một cá nhân thì lập tức nó có thể được
tiêu dùng bởi tất cả các cá nhân khác trong cộng đồng. Thuộc về loại này gồm có

3
quốc phòng, chương trình phát thanh hay đền hải đăng … vv. Ngược lại, hàng hóa
cá nhân thuần túy lại là những thứ hàng hóa mà sau khi đã để người sản xuất nhận
lại đầy đủ chi phí cơ hội sản xuất của mình, thì nó chỉ tạo ra lợi ích cho người nào
đã mua nó mà không cho bất kỳ ai khác. Nói cách khác, HHCN thuần túy vừa có
tính cạnh tranh trong tiêu dùng, vừa dễ dàng loại trừ tất cả những ai không sẵn sàng
thanh toán theo mức giá thị trường.
Hàng hóa công cộng thuần túy và không thuần túy
Trong thực tế, có rất ít HHCC thỏa mãn một cách chặt chẽ cả hai thuộc tính
nói trên, tức là có rất ít những loại HHCC được coi là thuần túy. Đa số các HHCC
được cung cấp chỉ có một trong hai thuộc tính nói trên và có ở những mức độ khác
nhau. Những HHCC đó được gọi là HHCC không thuần túy. Tùy theo mức độ tạo
ra ngoại ứng trong sản xuất hoặc tiêu dùng hàng hóa, và tùy theo khả năng có thể
thiết lập được một cơ chế để mua bán quyền sử dụng những hàng hóa này mà
HHCC không thuần túy có thể được chia làm hai loại: HHCC có thể tắc nghẽn và
HHCC có thể loại trừ bằng giá.
HHCC có thể tắc nghẽn là những hàng hóa mà khi có thêm nhiều người
cùng sử dụng chúng thì có thể gây ra sự ùn tắc hay tắc nghẽn khiến lợi ích của
những người tiêu dùng trước đó bị giảm sút.
Chi phí biên để phục vụ cho những người tiêu dùng tăng thêm sau một giới
hạn nhất định này không còn bằng 0 nữa mà bắt đầu tăng dần, như được thể hiện
trong hình 2.10. Điểm giới hạn đó được gọi là điểm tắc nghẽn. Trong hình 2.10,
điểm N* là điểm tắc nghẽn.
MC
P
Chi phí biên
trên
một người sử dụng
Số người sử dụng
O
Điểm tắc nghẽn
N
*

4
Hình 2.10: Hàng hóa công cộng có thể tắc nghẽn
Ví dụ, hãy xét những con đường dẫn vào trung tâm thành phố trong giờ cao
điểm. Nói chung chúng không có tính loại trừ, vì nếu muốn dùng các trạm thu phí
để hạn chế bớt số người đi vào trung tâm từ tất cả các ngả đường thì rất tốn kém.
Nhưng rõ ràng, chúng có tính cạnh tranh vì càng có thêm nhiều người đi vào các
tuyến đường đó càng làm tốc độ lưu thông giảm, tăng nguy cơ tai nạn, tăng mức
tiêu hao nhiên liệu và mức độ ô nhiễm…vv. Tất cả những điều đó đều làm giảm lợi
ích của những người đang tham gia giao thông.
Hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá, hay gọi tắt là HHCC có thể loại
trừ, là những thứ hàng hóa mà lợi ích do chúng tạo ra có thể định giá. Việc đi lại
qua cầu có thể loại trừ bằng giá, bằng cách đặt các trạm thu phí ở hai đầu cầu. Các
câu lạc bộ tư nhân thường chỉ cung cấp các dịch vụ như sân quần vợt, bể bơi cho
một nhóm nhỏ các hội viên. Thẻ hội viên của các câu lạc bộ này có thể được trao
đổi trên thị trường. Bằng cách tham gia câu lạc bộ và trả hội phí, các hội viên cùng
chia nhau gánh chịu chi phí duy trì các dịch vụ và trang thiết bị của câu lạc bộ mà
họ đang cùng sử dụng. Mức phí và số hội viên tối đa sẽ được quyết định bởi các hội
viên hiện tại để tránh khả năng tắc nghẽn.
Một số chú ý về khái niệm HHCC
Từ khái niệm về HHCC nêu trên, có một số khía cạnh quan trọng cần chú ý:
HHCC được mọi người tiêu dùng với khối lượng như nhau, nhưng không
nhất thiết họ phải đánh giá sự tiêu dùng đó với những giá trị ngang nhau.
HHCC thuần túy là một dạng đặc biệt của ngoại ứng tích cực.
Danh giới phân định một hàng hóa là HHCC không phải là tuyệt đối; nó
có thể thay đổi tùy theo điều kiện thị trường và tình trạng công nghệ.
Rất nhiều thứ không được coi là hàng hóa theo nghĩa thông thường vẫn
có thể mang lại các thuộc tính HHCC.
HHCC không nhất thiếp phải do khu vực công cộng sản xuất và HHCN
không nhất thiết phải do khu vực tư nhân sản xuất.

5
2. Cung cấp hàng hóa công cộng
2.1. Cung cấp hàng hóa công cộng thuần túy
a./ Cân bằng về HHCC thuần túy
Một câu hỏi trọng tâm về HHCC là nên cung cấp HHCC ở mức độ nào cho
có hiệu quả. Muốn như vậy, trước hết cần xây dựng các đường cầu và cung về hàng
hóa đó, rồi sau đó sẽ xác định điểm cân bằng. Đường cầu tổng hợp về HHCC được
xây dựng cũng bằng cách tổng hợp từ các đường cầu cá nhân về hàng hóa đó. Vì
thế, chúng ta sẽ xuất phát từ việc xem xét các đường cầu cá nhân về HHCC.
Xác định đường cầu cá nhân về HHCC: Xét một cá nhân có tổng ngân sách
I được sử dụng để tiêu dùng hai loại hàng hóa là thực phẩm (X) và pháo hoa (G).
Trong hai hàng hóa này, X là HHCN mà cá nhân đó có thể mua tại mức giá thị
trường. Còn G là HHCC mà cá nhân sẽ tiêu dùng chung với những người khác.
Tuy nhiên, các cá nhân không mua HHCC, mà họ sẽ góp tiền chung với nhau để
lượng HHCC đó có thể được cung cấp. Mức thuế mà mỗi cá nhân phải trả thêm cho
mỗi đơn vị HHCC tăng thêm được gọi là giá thuế của từng cá nhân. Trong phần
này, chúng ta giả định rằng Chính phủ có thể bắt buộc các cá nhân phải trả các giá
thuế khác nhau, đúng bằng lợi ích biên mà họ nhận được từ HHCC.
Giả định giá thuế các cá nhân phải trả là t1, tức là với mỗi cuộc bắn pháo hoa
được thực hiện, cá nhân đó phải đóng góp một lượng bằng t1. Nếu giá thức phẩm
bằng p và mức tiêu dùng cho thực phẩm của cá nhân là X thì đường ngân sách của
anh ta có dạng: I = pX + t1G
Cá nhân sẽ lựa chọn phương án kết hợp giữa tiêu dùng thực phẩm và pháo
hoa tối đa hóa lợi ích tiêu dùng của anh ta tại điểm E1 là tiếp điểm giữa đường ngân
sách và đường bàng quan (i) trong hình 2.11a. Tại đó, cá nhân có cầu G1 cuộc bắt
pháo hoa được trình diễn. Gióng từ G1 xuống đồ thị ở hình 2.11b ta xác định được
điểm E1 trên đường cầu cá nhân về pháo hoa, cho biết tại giá thuế t1, cá nhân có cầu
G1 về pháo hoa.