BÀI MẪU SỐ 1:
Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và những hình
ảnh nhân vật điển nh cho làng quê. n ca Kim Lân đi u vào lòng người đọc bởi tình
cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác phẩm “Vợ nhặt” một “kiệt
tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện thành công hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc
của người nông dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật
đại diện cho cuộc sống bn cùng giai đoạn đó.
Truyện ngắn “V nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn đói
năm 1945, đi sống nhân dân bn cùng, kẻ sống người chết nham nhảm, ”người chết như
nga ra, không buổi sáng nào người trong làng đi chợi, đi làm đồng không gặp ba bốn cái
thây nằm còng queo bên đường. Không khí vấn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của
xác người”. Khung cảnh xóm ngụ y đã diễn tả được cái đói đang hoành hành, đời sống
nhân dân thê thảm.
Ngay từ nhan đcủa c phẩm, Kim n đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống của những
điều khốn khổ, bần hàn nhất. “vợ nhặt”, chi tiết là tình huống truyện thắt nút làm
nên cuộc đời của từng nhân vật.
Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước đi ngật
ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Ch với vài chi tiết đó,
người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh nông dân nghèo rách mùng
tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con không buồn tu tràng nữa, vì chúng đã không
còn sức lực. Khung cảnh buồn thiu, đầy ám ảnh bao ph lên xóm nghèo. Trong khung cảnh
chiều tà, suy nghĩ của Tràng được i hiện “hắn bưc đi từng bước mệt mỏi, cái ao nâu tàng
vắt sang một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhc đè nặng lên cái lưng gấu của
hắn”.
Với vài chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã lên trước mặt người đọc nh nh người nông dân
nghèo đói, xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực.
Tác giả đã thật khéo để xây dựng nên tình huống truyện độc đáo, mới lạ, m thay đổi cuc
đời ca một con người. nh huống Tràng “nhặt” được vợ. “nhặt” được chứ không phải
lấy được. Người đọc nhận ra sự thê thảm, bước đường cùng đầy éo o ca con người
trong xã hội bấy giờ.
VĂN M
U L
P 12
:
V
NH
T
-
KIM LÂN
5 BÀI VĂN MẪU “PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VỢ NHẶT CỦA NHÀ VĂN KIM
LÂN”
Hình anh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn đy ám ảnh
thị cắp cái thúng con, đầu i cúi xuống, i nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi
nửa mặt. Thị có vrón rén,e thẹn”. Một người đànnghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi
cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh.
Giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã xây dựng nên khung cảnh đìu hiu, ảm đảm
của xóm nghèo “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp sụp,
tối om, không nhà nào ánh đèn, la. Dưới gốc đa, gốc gạo bóng những người đói
dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ u trên mấy y gạo ngoài bãi ch c
gào lên từng hồi thê thiết”. Không còn thê thảm hiu hắt hơn khung cảnh chiều tàn nơi
xóm nghèo như vậy. Mọi th dường như bcái đói, cài nghèo đè nén đếm chìm nghỉm.
Bằng ngòi bút tả thực sinh động, Kim n đã gieo vào lòng người đọc nhiều chua xót, đắng
cay cho những phn nghèo long đong.
Điều đáng chú ý chính cách những người hàng xóm hỏi thăm Tràng về người đàn đi
bên cạnh tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng hiểu ra, lẽ vTràng,
“nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người đàn bà bắt không còn chua ngoa, đanh đá nữa mà
trở nên thẹn thùng khi quyết định theo Tràng về làm vợ.
Làm vợ một cách bất ngờ, giữa cảnh đói như ngả rạ. lẽ cái nghèo đói đã đẩy hai con
người đến với nhau, không phi tình yêu nhưng là tình thương. Hẳn người đọc sẽ cm thông
và xót thương cho những mảnh đời dật dờ nơi xóm ngụ cư.
Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến sự
chuyển đi trong m tinh thật tài nh và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng một
người m bao dung hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến
giữa n bà sững lại vì thaayscos một người đàn bà trong…” Sự băn khoăn lo lng của
cụ bắt đầu hiển n. Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín lặng, bà o
hiểu rồi. Lòng người mnghèo kh ấy còn hiểu ra bao nhiêu sự, vừa ai oán, vừa xót xa
cho số kiếp con mình. Chao ôi ni ta dng vợ gả chồng cho con trong lúc làm ăn nên
nổi, còn mình…” Những suy nghĩ chua xót của o được Kim Lân diễn tả qua một loạt
động từ tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ vp và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.
đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Tình huống khiến người đọc nhmãi, hình
ảnh khiến ngưi đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là hình ảnh “nồi cháo cám”
trong buổi bữa cơm đón dâu dầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái đói
nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn giá trị nữa”. cụ Tứ hôm nay thay
đổi tâm trạng, toàn nói những chuyn vui trong nhà, vì bà muốn mang lại không khí vui tươi
hơn gia cái nghèo. nh nh “nồi cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót c mắt
của người m nghèo. Ai cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong
ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” thứ duy nhất đong đy u
thương bà có thể mang lại cho con.
Đây mt chi tiết vô cùng đắt giá trong truyện ngắn “V nhặt” của Kim Lân khiến nời
đọc nhớ mãi. Bên cạnh đó hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện ca cuối truyện ngắn đã
mang đến chút niềm tin và hi vọng về một tương lai tươi sáng hơn.
Bằng ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, cách khắc họa tâm lý nn vật sắc so,độc đáo
và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt người đọc khung cảnh đói nghèo tràn
lan ca xã hội Việt Nam những năm 1945. Qua đó tác giả cũng nhấn mạnh tình yêu thương
giữa người với người luôn bất diệt.
BÀI MẪU SỐ 2:
Nhà văn Kim Lân tên thật Nguyễn n Tài, sinh năm 1920, quê làng Phù Lưu, Tân
Hồng, huyn T Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình k khăn, ông chỉ được học hết
bậc Tiểu học rồi phải đi làm. Yêu thích văn chương, ông bắt đầu sáng tác tnăm 1941. Một
số truyện ngn của ông lấy đề tài ở cuc sống lam lũ của người nông dân hoặc các sinh hoạt
văn hóa truyền thống thôn quê.
Sau Cách mạng tháng Tám, ông chuyên viết truyện ngắn về làng quê, mng hiện thực
ông hiu biết sâu sắc. Theo Nguyên Hồng thì Kim Lân nhà văn mt lòng đi về với đất,
với người, với những thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn. Tác phẩm chính:
Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện ngắn, 1962). Vợ nhặt
truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám
1945 bùng nổ nhưng đến sau a bình lập lại 1954 mới cho ra mắt bạn đọc trong tập Con
chó xu xí.
Truyn Vợ nhặt kể vcuộc sống ngột ngạt, bức bi của nhân dân ta trong thời gian xy ra
nạn đói khủng khiếp đã làm chết hơn hai triệu người. Đấy hậu quả chính sách cai trị dã
man của thực dân Pháp trong mấy mươi năm và ch trương tàn bạo “nhổ lúa trồng đaycủa
phát xít Nhật. Cũng như một số tác phẩm khác viết về nn đói, ngòi bút Kim Lân chứa chan
thương cảm trước những số phận bất hạnh. Thông qua truyện, tác giả t cáo tội ác dã man
của thực dân Pháp, phát xít Nhật ; đồng thời phản ánh khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc
và niềm tin vào tương lai tươi sáng ca người dân lao động.
Tóm tắt nội dung như sau : Anh Tràng nghèo khổ, xu xí, chỉ với vài câu bông đùa mấy
bát bánh đúc mà nhặt được vợ đang sống dỡ chết dvì đói. Hthành vợ thành chồng
giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hôn diễn ra âm thầm trong bóng tối lạnh lẽo,
điểm những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió vẳng lại. Bữa cơm
cưới ch rau chuối, cháo loãng muối Mẹ chồng đãi nàng dâu con trai món chè nấu
bằng cám. Câu chuyện của ba mcon xoay sang việc Việt Minh tổ chức phá kho thóc của
Nhật chia cho dân nghèo. Trong óc Tràng hiện lên hình nh ca đám người đói cờ đỏ
bay phấp phới
Nhan đề Vợ nhặt đã thu hút s chú ý của nời đọc ngay từ đầu. Vnhặt vợ theo không,
chẳng cưới xin gì. Tựa đề klạ của truyện đã i lên đầy đủ về cảnh ng, số phận của nhân
vật. Chuyện anh Tràng bỗng dưng nhặt đưc vợ phản ánh tình cnh thê thảm thân phận
tủi nhục của ngưi nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp xảy ra vào a xuân năm
1945.
Thành công trước tiên của truyện Vợ nhặt làchỗ tác giả đã tạo ra một tình huống độc đáo:
Một anh chàng ngụ cư xấu , nghèo khổ, ế vợ, vậy mà đã nhặt được vợ chỉ bằng vài bát
bánh đúc. Giá trị của con người rẻ rúng đến thế là cùng ! Tác giả diễn tả tình huống đặc biệt
y qua thái độ ngạc nhiên của dân xóm ngụ khi thấy Tràng dẫn về nhà mt người đàn
lạ. Họ ngạc nhiên bởi thời buổi đói khát này, đến nuôi thân còn chẳng nổi vậy mà Tràng
còn dám lấy vợ. mẹ của Tràng cũng sửng sốt vì không ngờ con trai mình đã có vợ. Thậm
chí chính Tràng cũng chẳng hiểu tại sao mình lại có vợ dễ dàng đến thế.
Nguyên nhân sâu xa do nạn đói khủng khiếp đang xô đẩy n người o chỗ chết nên
người đàn bà kia mới phải chấp nhận làm vợ Tràng. Ý nghĩa tcáo của tác phẩm tuy kín
đáo nhưng sâu sắc. Tác giả không trực tiếp nói đến tội ác ca bọn đế quốc, phong kiến, vy
tội ác của chúng cứ phơi bày ra một cách đáng ghê tởm và tình cảnh cớ cực, đói khát của
dân nghèo quả là thê thm.
Tình huống lạ lùng i trên đầu mối cho sphát triển của nội dung truyện, tác động đến
diễn biến tâm trạng và hành động của các nhân vật. Bối cảnh lớn của truyn nạn đói năm
1945, bối cảnh nhỏ cái m ngụ tồi tàn ven chợ. Mở đầu c phẩm, tác giả đã vnên
bức tranh hiện thực vi màu sắc ảm đạm và hình nh thê lương.
Cách đây không lâu, mỗi chiều Tràng đi làm về, đám trẻ con lại bu theo anh, đứa túm đằng
trước, đa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi… Cái xóm ngụ tồi
tàn ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một lúc. Nhưng bây giờ thì niềm vui nhỏ nhoi y
không còn nữa: trẻ con không đứa nào buồn ra đón Tràng… Chúng nó ngồi ủ rũ dưới những
đường, không buồn nhúc nhích… Nụ cười d dãi mọi ngày của Tràng cũng tắt: Trong
bóng chiều nhá nhem, Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàng vắt sang một bên cánh
tay, cái đu trọc nhẵn chúi về phía trước. Hình như những lo lắng chật vật trong một ngày
đè xuống i lưng to rộng như lưng gấu của hắn… Đâu đâu cũng thấy cảnh : Những gia
đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh
xám như những bóng ma, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không
buổi sáng nào người trong ng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng
queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi i gây của xác người.
Qumột cảnh tượng khủng khiếp! Thực dân Pháp và phát xít Nhật đã y ra nạn đói
chưa từng thy từ trước đến nay, khiến hàng triệu người chết đói. Khắp nơi, đâu đâu cũng
bao phủ bởi một màu địa ngc.
Tràng, nhân vật chính của câu chuyện là một thanh niên ngụ nghèo khổ, xấu xí, sống hiu
qunh với mẹ già trong túp lều ti tàn ở mé sông. Ngày xưa, kiếp ngụ tủi nhục trăm bề.
Họ bdân làng khinh rẻ và phải làm những công việc bcoi hèn hạ như đầy tớ, thằng
Dân địa phương nghèo đến my ng không chịu gả con gái cho đám ngụ
cho rằng như thế là vô phúc. Đã thế Tràng lại còn xấu xí: …hai con mắt nhỏ tí… quai hàm