Bàn về khái niệm quyết toán Ngân

sách nhà nước (Phần 2)

Qua nghiên cứu quan niệm của các tác giả về

quyết toán NSNN, quyết toán NSNN Việt Nam

trong những năm qua và một số nước trên thế

giới, chúng tôi cho rằng, một quyết toán NSNN đầy đủ yêu cầu

nhằm tổng kết, đánh giá lại việc thực hiện ngân sách cũng chư

chính sách tài chính ngân sách của quốc gia trong năm ngân

sách phải thể hiện được một số đặc trưng sau:

1. Thứ nhất, quyết toán NSNN phải giải quyết được vấn

đề về số liệu ngân sách. Điều đó có nghĩa là phản ánh

được đầy đủ số liệu thu, chi ngân sách. Các khoản thu

phải được hạch toán và phản ánh đầy đủ k hi báo cáo

với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Mức độ đầy đủ

của quyết toán NSNN tùy thuộc vào quy định của pháp

luật của từng quốc gia. Chẳng hạn như nhiều quốc gia

quy định quyết toán NSNN chỉ là việc báo cáo tình hình

thực hiện dự toán đã được Quốc hội quyết định (TQ),

trong khi đó nhiều quốc gia khác không chỉ yêu cầu báo

cáo về việc thực hiện dự toán mà phải báo cáo cả việc

thực hiện các nguồn lực khác có quan hệ chặt chẽ với

NSNN như các khoản vay nợ để bù đắp thâm hụt ngân

sách, các quỹ ngoài ngân sách, các khoản nợ của

Chính phủ, các khoản thuế miễn giảm… Một số quốc

gia khác lại quy định quyết toán ngân sách phải báo

cáo kèm việc quản lý và sử dụng tài sản (Cộng Hòa

Liên bang Đức). Nhìn chung đa số các nước quan niệm

về mức độ đầy đủ của NSNN là phản ánh được tình

hình thu chi quỹ NSNN; các quỹ bên cạnh và có mối

quan hệ chặt chẽ với NS như quỹ an sinh xã hội, và

bảo trợ xã hội…Việc giải quyết đầy đủ số liệu quyết

toán cũng xuất phát từ trách nhiệm giải trình của Chính

phủ. Chính phủ sử dụng tiền của những người nộp

thuế do vậy về nguyên tắc phải quyết toán để người

nộp thuế biết rằng Chính phủ thu trong năm là bao

nhiêu, thu của tương lai (thông qua hình thức vay bù

đắp thiếu hụt) là bao nhiêu? Các khoản tiền thu được

sử dụng vào những việc gì? Hết bao nhiêu? Có phù

hợp với mục tiêu phát triển của quốc gia hay không?...

Theo mô hình nhà nước đại diện, Chính phủ không

phỉa trình quyết toán NSNN trực tiếp cho từng người

dân mà trình cho Quốc hội hay nghị viện là người đại

diện cho quyền lực của nhân dân hay cử tri. Các Nghị

sĩ là những người đại diện cho cử tri có trách nhiệm

xem xét bản quyết toán NSNN do Chính phủ trình và

qua đó giải tỏa trách nhiệm cho Chính phủ thông qua

hình thức phê chuẩn quyết toán.

2. Thứ hai, quyết toán NSNN phải thể hiện được tính tuân

thủ trong việc thu, chi ngân sách. Chính phủ giải trình

về quyết toán k hông chỉ là các vấn đề về số liệu mà

còn phải giải trình được việc quản lý thu, chi ngân sách

trong niên độ có tuân thủ các quy định của pháp luật

cũng như đạt được các yêu cầu mà Quốc hội đã đề ra

khi quyết định ngân sách. Như chúng ta đã biết, ngân

sách hàng năm phải được lập dự toán và trình cơ quan

có thẩm quyền quyết định trước khi thực hiện. Khi thực

hiện phải tuân theo các quy định của pháp luật về thu,

chi ngân sách. Do vậy khi quyết toán không chỉ báo cáo

thu được bao nhiêu? Từ những nguồn nào? Chi dùng

vào việc gì? Chi hết bao nhiêu? Mà còn phải giải trình

với Quốc hội là các khoản thu, chi đó có dược thực

hiên trên cơ sở luật định hay không? Có tuân thủ các

chế độ, cơ chế quản lý ngân sách hay không? Chẳng

hạn như việc thực hiện thu thuế có được thực hiện

theo quy định của luật thế hay không? Liệu Chính phủ

có lạm thu hay không? Các khoản chi tiêu có theo mức

Quốc hội quyết định hay không? Đòi hỏi Chính phủ

phải báo cáo được việc thực thi các quy định của pháp

luật về quản lý tài chính ngân sách cũng như tuân thủ

Luật ngân sách thường niên ( Việt Nam gọi là dự toán

NSNN năm) hay không. Theo luận điểm này, ngàoi báo

cáo đầy đủ số liệu thu, chi NSNN, Chính phủ còn phải

giải trình trước QH việc thực hiện các khoản thu, chi

cũng như chính sách ngân sách đã đàm bảo tuân thủ

các quy định của pháp luật cũng như tuân thủ dự toán

NSNN đã được quyết định. Khi xem xét, phê chuẩn

quyết toán Quốc hội không chỉ xem xét vấn đề về số

liệu quyết toán mà còn xem xét khía cạnh tuân thủ

pháp luật của việc thực hiện ngân sách.

3. Thứ ba, quyết toán NSNN phải báo cáo được tính hiệu

lực, hiệu quả của các khoản thu, chi ngân sách. Đây là

vấn đề quan trọng bởi nguồn lực của mỗi quốc gia là có

hạn do vậy cơ quan quản lý, điều hành nguồn lực quốc

gia phải cáo cáo và giải trình với Quốc hội là cơ quan

đại diện cho dân chúng – những người nộp thuế - rằng

các nguồn thu đã được sử dụng đúng mục đích, đạt

hiệu quả và đảm bảo tiết kiệm. Các chính sách trong

năm ngân sách có phát huy được hiệu lực, hiệu quả

hay không. Quyết toán NSNN không chỉ báo cáo được

về số liệu, về tính tuân thủ mà còn phải về đề cập tính

hiệu lực, hiệu quả của các khoản thu, chi ngân sách

cũng như chính sách ngân sách. Liệu các khoản thu,

chi ngân sách có đạt được mục tiêu đề ra hay không?

Có đảm bảo hiệu quả trong việc quản lý, sử dụng ngân

sách hay không? Đây là vấn đề đặt ra mà khi quyết

toán NSNN phải thực hiện. Thông qua việc đánh giá

tình hiệu lực, hiệu quảcos thể biết được việc phân bổ

ngân sách có hợp lý hay không, có đảm bảo nguồn lực

cho việc thực thi chính sách một cách tốt nhất hay

không. Chẳng hạn, khi Quốc hội quyết định dự toán

ngân sách đã dành 200 tỷ đồng để thực hiện cải cách

hành chính và tinh giản biên chế với những mục tiêu cụ

thể đặt ra. Khi quyết toán, Chính phủ không chỉ phải

giải trình sử dụng hết bao nhiêu trong số tiền mà Quốc

hội đã dành cho việc tinh giản biên chế mà còn phải

giải trình trước Quốc hội rằng việc chi tiêu đã được

tuân thủ theo quy định của pháp luật về ngân sách.

Không chỉ thế, Chính phủ còn phải giải trình với Quốc

hội rằng, số tiền trên có đạt được mục tiêu đề ra hay

không? Có đảm bảo được hiệu quả thực hiện cải cách

hành chính, tinh giản biên chế hay không? Và qua đó

cũng có thể thấy rằng với số tiền ấy không đủ mức để

thực hiện việc tinh giản biên chết mà phải chi ở mức

cao hơn hoặc ngược lại chỉ cần sử dụng ít hơn mức

được giao vẫn đảm bảo thực hiện được mục tiêu đề ra

… Giải trình về tính hiệu quả thể hiện trên 2 giác độ: (1)

với số tiền nhất định được giao thực hiện được khối

lượng công việc nhiều nhất, (2) hoặc với công việc nhất

định sử dụng hết ít tiền nhất.

4. Thứ tư, quyết toán NSNN được xác định trong một

khoảng thời gian nhất định, thường là một năm (12

tháng). Trở lại khái niệm quyết toán NSNN, chúng ta

thấy rằng ngân sách được thực hiện trong một khoảng

thời gian nhất định. Và việc quyết toán NSNN được

thực hiện trong chính khoảng thời gian đó. Khoảng thời

gian xác định này phù hợp với thời gian ngân sách mà

cơ quan quyền lực nhà nước đã quyết định. Đây là cơ

sở để xuất hiện khái niệm năm ngân sách (một số quốc

gia còn gọi là năm tài khóa hay năm tài chính). Năm

ngân sách được hiểu là khoảng thời gian bắt đầu thực

hiện một ngân sách cho đến khi kết thúc ngân sách ấy

và thường lấy khoảng thời gian là 1 năm (12 tháng) để

xác định. Tùy từng quốc gia khác nhau mà ngân sách

được xác định trong một thời gian khác nhau, chẳng

hạn như ở Việt Nam, năm ngân sách được xác định

theo năm dương lịch 1/1 đến 31/12. Một số nước khác

lại xác định năm NS từ 1/4 đến 31/3 năm sau như ở

Nhật Bản.

5. Thứ năm, quyết toán NSNN phải trình cơ quan nhà

nước có thẩm quyền phê chuẩn. Về khía cạnh pháp lý,

để trách nhiệm quản lý được giải tỏa, quyết toán NSNN

phải được cơ quan quyền lực cao nhất (Quốc hội) là cơ

quan đại diện cho quyền lợi của dân chúng xem xét

phê chuẩn. Chỉ khi quyết toán được phê chuẩn thì trách

nhiệm của cơ quan quản lý (Chính phủ) mới được giải

tỏa. Luật của các nước đều đề cao trách nhiệm này và

coi đây là nhiệm vụ mà cơ quan quyền lực nhà nước

phải thực thi. Để quốc hội xem xét phê chuẩn đòi hỏi

quyết toán NSNN phải được lập, kiểm toán xác nhận

và các cơ quan tham mưu của Quốc hội thẩm tra. Trên

cơ sở các thông tin được cung cấp các nghị sĩ sẽ xem

xét và biểu quyết phê chuẩn. Tuy nhiên, một số nước

lại quy định cơ quan thường trực của Quốc hội (Ủy ban

Thường vụ Quốc hội) phê chuẩn và báo cáo Quốc hội

kỳ họp gần nhất. Việc phê chuẩn phải thực hiện theo

nguyên tắc không trùng lắp có nghĩa là không phê

chuẩn những vấn đề. Ở nước ta, quyết toán NSNN do

Quốc hội phê chuẩn theo quy định của Hiến pháp, Luật

Tổ chức Quốc hội, Luật Ngân sách nhà nước. Tuy

nhiên do NSNN Việt Nam lồng ghép giữa các cấp ngân

sách nên việc phê chuẩn quyết toán NSNN bao gồm

ngân sách địa phương đã được Hội đồng Nhân dân

phê chuẩn.