intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

1
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết “Bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp” có mục tiêu làm rõ thực trạng bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản để giúp cải thiện tình trạng bất bình đẳng thu nhập trong giai đoạn tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp

  1. Trường Đại học Kinh tế Nghệ An BẤT BÌNH ĐẲNG THU NHẬP Ở VIỆT NAM, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Bành Thị Vũ Hằng1,* 1 Trường Đại học Kinh tế Nghệ An, *Email: banhthivuhang@gmail.com Tóm tắt: Bất bình đẳng thu nhập là sự chênh lệch lớn về phân phối thu nhập, với phần lớn tổng thu nhập trong nền kinh tế tập trung trong tay một nhóm người chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng dân số. Khi các quốc gia xảy ra tình trạng bất bình đẳng thu nhập thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát triển nói chung, gây tổn hại đến sự gắn kết xã hội như ảnh hưởng xấu tới chất lượng cuộc sống của người dân, làm tăng tỷ lệ nghèo đói, cản trở tiến bộ y tế - giáo dục nói chung. Bài viết “Bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp” có mục tiêu làm rõ thực trạng bất bình đẳng thu nhập tại Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản để giúp cải thiện tình trạng bất bình đẳng thu nhập trong giai đoạn tới. Từ khóa: Bất bình đẳng, Cải thiện thu nhập. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ đời sống người dân được cải thiện, nâng cao. Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế cao cũng đem Theo báo cáo xã hội thế giới 2020 của lại những kết quả xấu cho vấn đề bất bình Liên Hiêp Quốc thì hơn 70% người dân thế đẳng thu nhập, phân hoá giàu nghèo tăng lên, giới sống ở các quốc gia có sự bất bình đẳng khoảng cách thu nhập trong xã hội Việt Nam thu nhập gia tăng kể từ năm 1990 (Liên Hiệp ngày càng gia tăng. Thực trạng bất bình đẳng Quốc, 2020, Báo cáo xã hội thế giới). Tình thu nhập ở Việt Nam hiện nay như thế nào? trạng bất bình đẳng thu nhập diễn ra hầu Và những giải pháp nào có thể giúp cải thiện khắp các quốc gia, từ những quốc gia đang tình trạng bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam phát triển như Trung Quốc, Malaysia, Thái hiện nay? Bài viết “Bất bình đẳng thu nhập ở Lan, Chi Lê đến các quốc gia phát triển như Việt Nam - thực trạng và giải pháp” sau đây Bồ Đào Nha, Đức, Hà Lan, Pháp. Ngay cả sẽ trả lời câu hỏi này. với Hoa Kỳ – quốc gia được xem là có nền kinh tế phát triển nhất thế giới thì cũng vì thế 2. NỘI DUNG mà tình trạng bất bình đẳng thu nhập luôn 2.1. Thực trạng bất bình bẳng thu ở nhóm quốc gia cao nhất thế giới. Tại Việt nhập của Việt Nam từ 2016– 2020 Nam, với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu, chịu ảnh hưởng nặng nề của 2.1.1. Hệ số GINI chiến tranh, trải qua 35 năm đổi mới, với Hệ số GINI (hay còn gọi là hệ số Lorenz) những chủ trương, chính sách đúng đắn của là hệ số dựa trên đường cong Lorenz chỉ ra Đảng và Nhà nước, Việt Nam đã có những mức bất bình đẳng của phân phối thu nhập bước tiến dài trên mọi lĩnh vực. Tăng trưởng giữa cá nhân và hệ kinh tế trong một nền kinh kinh tế hàng năm luôn đạt tỷ lệ cao, thu nhập tế. Hệ số này được phát triển bởi nhà thống của người dân không ngừng tăng lên, đã giúp kê học người Ý Corrado Gini và được chính 66
  2. Tạp chí Khoa học, Tập 1, Số 1/2022 thức công bố trong bài viết năm 1912 của USD/ người/ năm năm 2016 đã tăng lên thành ông mang tên “Variabilità e mutabilità” (Lê 2.750 USD/ người/ năm vào năm 2020 (Quốc Thị Mỹ Tâm và Bành Thị Vũ Hằng, 2018, Huy, 2021, Thành tựu kinh tế giai đoạn 2016 Giáo trình kinh tế phát triển). – 2020). Như vậy có thể thấy thu nhập của các a. Xét hệ số GINI của Việt Nam theo nhóm dân cư đã tăng lên, nhưng tốc độ tăng khu vực thu nhập của nhóm nghèo luôn thấp hơn so với nhóm giàu, do vậy, khoảng cách giàu nghèo Trong thời gian gần đây “Câu chuyện giữa các nhóm trong xã hội đang ngày càng huyền thoại,” “ngôi sao đang lên”, “nền kinh tăng lên. Tuy nhiên, xét theo hệ số GINI chung tế sáng giá nhất châu Á”... là những cụm từ của cả nước thì có thể thấy bất bình đẳng thu được nhiều tổ chức quốc tế nhắc đi nhắc lại nhập tại Việt Nam đang có xu hướng giảm khi nhiều lần để đánh giá về thành tựu phát triển chỉ số này từ 0,431 năm 2016 đã giảm xuống kinh tế Việt Nam. còn 0,373 vào năm 2020 (Tổng cục thống kê, Theo Báo cáo của Chính phủ về tình 2021). Tại các khu vực do có sự khác nhau về hình kinh tế - xã hội năm 2020 và 5 năm 2016 điều kiện tự nhiên, trình độ văn hóa, trình độ - 2020, tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2016 - sản xuất, kết cấu hạ tầng và trình độ dân trí, lợi 2019 đạt khá cao, bình quân 6,8%/năm (Tổng thế so sánh nên GINI giữa các khu vực cũng cục thống kê, 2021). Và trong Năm 2020, mặc có sự khác biệt. Có thể thấy GINI ở khu vực dù chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh, nông thôn đang cao hơn so với khu vực thành nhưng tăng trưởng vẫn đạt 2,91%; là một thị nhưng cả 2 khu vực này đang có xu hướng trong những quốc gia tăng trưởng cao nhất giảm khi ở khu vực thành thị là 0,391 (năm trong khu vực và trên thế giới (Đảng cộng sản 2016) giảm còn 0,325 (năm 2020), và ở khu Việt Nam, 2021, Nghị quyết đại hội Đảng lần vực nông thôn là từ 0,408 xuống còn 0,373 thứ XIII). Những thành tựu về các chỉ số kinh (Tổng cục thống kê, 2021). Điều này đã giúp tế đã có tác động lan tỏa giúp cải thiện các vấn cho người dân ở khu vực thành thị dễ dàng đề xã hội khác như an sinh xã hội cơ bản được hơn so với người dân ở khu vực nông thôn bảo đảm, đời sống nhân dân tiếp tục được trong tiếp cận các cơ hội phát triển về trình độ cải thiện. Thu nhập bình quân từ mức 2.215 học vấn, kỹ năng làm việc. 0,5 0,431 0,425 0,391 0,408 0,373 0,408 0,373 0,373 0,4 0,325 0,3 0,2 0,1 0 Năm 2016 Năm 2018 Năm 2020 Chung Thành thị Nông thôn Hình 1. Hệ số GINI của các khu vực tại Việt Nam trong giai đoạn 2016 - 2020 Nguồn: Tổng cục Thống kê (2020) 67
  3. Trường Đại học Kinh tế Nghệ An b. Xét hệ số GINI của Việt Nam so với số GINI ở mức 35,7 là tương đối thấp so với các nước một số quốc gia trong khu vực. Đây là một Mở rộng việc so sánh hệ số GINI khi thành tựu quan trọng trong cải thiện bất bình so sánh chỉ tiêu này của Việt Nam với các đẳng mà không phải quốc gia có mức thu quốc gia trong khu vực cũng có thể thấy: chỉ nhập trung bình thấp nào cũng đạt được. Hình 2. Chỉ số GINI của một số quốc gia theo cách tính của WB (năm 2019) Nguồn: World Bank (2021) 2.1.2. Thu nhập bình quân đầu người được chia thành từng nhóm khác nhau. Hiện Thu nhập đầu người hay thu nhập bình nay, ở nước ta dựa vào số tiền lương được quân đầu người (income per capita) là đại nhận trong một tháng, số lượng tài sản mà lượng được tính bằng cách lấy thu nhập quốc họ nắm giữ thì sẽ hình thành ra 5 nhóm thu dân của một nước (tổng thu nhập quốc dân nhập bao gồm: nhóm 1 những người nghèo, - GNI hay thu nhập quốc dân - NI) chia cho nhóm 2 người cận nghèo, nhóm 3 trung dân số. Trong xã hội mức thu nhập của từng bình, nhóm 4 khá và nhóm 5 giàu (Tổ chức cá nhân là khác nhau. Vì thế những người lao động quốc tế, 2021). có cùng mức thu sẽ được xếp loại vào các a. Xét về thu nhập bình quân đầu người nhóm đối tượng có cùng thu nhập. Những theo các nhóm thu nhập trong giai đoạn người có mức thu cao hơn hoặc thấp hơn sẽ 2016 - 2020 68
  4. Tạp chí Khoa học, Tập 1, Số 1/2022 Bảng 1. Thu nhập bình quân đầu người/tháng theo 5 nhóm thu nhập của Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 Đơn vị: Nghìn đồng Năm Bình quân Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5 2016 3098 771 1516 2301 3356 7547 2018 3760 931 1808 2774 4110 9175 2020 4230 1139 2508 3509 4887 9108 Nguồn: Tổng cục Thống kê (2020) Qua bảng 1 có thể thấy: thu nhập bình b. Xét về thu nhập bình quân đầu người quân/tháng trong giai đoạn 2016 - 2020 của của các khu vực theo các nhóm thu nhập cả 5 nhóm thu nhập đều có xu hướng tăng qua trong giai đoạn 2016 - 2020 các năm. Cụ thể, năm 2016, thu nhập bình Mặt khác, theo bảng 2 thì cho dù thu quân của nhóm 1 chỉ bằng 1/10 của nhóm 5, nhập của nhóm hộ giàu nhất (nhóm gồm 20% nhưng đến năm 2020 con số này đã được rút dân số giàu nhất - nhóm 5) năm 2020 có sự xuống còn 1/8. Điều này cho thấy, khoảng sụt giảm so với năm 2018, nhưng vẫn đang cách thu nhập bình quân giữa nhóm nghèo có một khoảng cách rất lớn giữa nhóm thu nhất và nhóm giàu nhất đã có sự cải thiện, nhập này với nhóm 1 (nhóm gồm 20% dân số tuy nhiên vẫn chưa được cải thiện đáng kể, nghèo), cụ thể với mức thu nhập 9,108 triệu đây vẫn là một thách thức lớn trong việc thực đồng/ người/ tháng năm 2020 thì thu nhập hiện mục tiêu phát triển theo hướng đảm bảo của nhóm 5 vẫn cao gấp hơn 8 lần so với mức công bằng xã hội của Việt Nam. 1,139 triệu đồng/tháng/ người của nhóm 1. Bảng 2. Thu nhập bình quân đầu người của các khu vực theo các nhóm thu nhập trong giai đoạn 2016 - 2020 (Đơn vị: nghìn đồng, lần): TNBQ/ người/tháng So sánh nhóm 5/ nhóm 1 (lần) Nhóm 1 Nhóm 5 Chung 2016 771 7547 9.8 2018 931 9175 10.2 2020 1139 9108 8.0 Thành thị 2016 1489 11276 7.6 2018 1843 13195 7.2 2020 2108 11192 5.3 Nông thôn 2016 676 5669 8.4 2018 827 7898 9.6 2020 932 7440 8.0 Nguồn: Tổng cục Thống kê (2020) 69
  5. Trường Đại học Kinh tế Nghệ An Đồng thời khi xem xét về thu nhập của nghèo rõ rệt của khu vực nông thôn so với các nhóm tại các khu vực cũng có sự phân khu vực thành thị. hóa rất rõ rệt. Tại khu vực thành thị sự phân Từ đây có thể khẳng định trong những hóa giàu nghèo giữa nhóm thu nhập thấp năm qua, thu nhập của các đối tượng dân cư nhất (nhóm 1) và thu nhập cao nhất (nhóm 5) giảm từ 7,6 lần năm 2016 xuống 7,2 lần đã không ngừng tăng lên, tuy nhiên khoảng năm 2018 và chỉ còn 5,3 lần năm 2020. cách thu nhập giữa các nhóm ngày càng xa, Trong khi ở khu vực nông thôn khoảng chênh lệch giàu nghèo cao đang là một thách cách giữa 2 nhóm đối tượng này là từ tăng thức lớn trong việc thực hiện mục tiêu phát từ 8,4 lần năm 2016 lên 9,6 lần năm 2018. triển theo hướng đảm bảo công bằng thu Điều này cho thấy đang có sự phân hóa giàu nhập mà Việt Nam đã đặt ra. 2.1.3. Tỷ lệ hộ nghèo Bảng 3. Tỷ lệ hộ nghèo phân theo khu vực của Việt Nam giai đoạn 2018 - 2020 Đơn vị: % Năm 2016 2017 2018 2019 2020 Chung 9,2 7,9 6,8 5,7 4,8 Thành thị 3,5 2,7 1,5 1,2 1,1 Nông thôn 11,8 10,8 9,6 8,0 7,1 Nguồn: Tổng cục Thống kê (2021) Trong giai đoạn 2016 - 2020 cả nước đã đến hết năm 2020, cả nước có đến 31,8 triệu có 1.353.805 hộ/2.338.569 hộ nghèo đã thoát lao động (trong tổng số 54,6 triệu người) từ nghèo, chiếm 58%, tỷ lệ hộ nghèo bình quân 15 tuổi trở lên bị mất việc làm, phải giãn việc, cả nước giảm khoảng 1,43%/năm (Tổng cục giảm giờ làm, nghỉ luân phiên, giảm thu nhập thống kê, 2021). Tỷ lệ hộ nghèo chung của (Lê Quốc Việt, 2020). Cụ thể, khoảng 68,9% cả nước từ 9,2% năm 2016 giảm nhanh, liên người bị giảm thu nhập; gần 40% giảm giờ tục qua các năm và chỉ còn 4,8% vào năm làm, nghỉ giãn việc, nghỉ luân phiên; 14% 2020 (Tổng cục thống kê, 2021). Trong đó, buộc phải tạm nghỉ việc do doanh nghiệp tỷ lệ hộ nghèo ở thành thị luôn thấp hơn ở tạm dừng hoạt động sản xuất kinh doanh (Lê nông thôn và có xu hướng giảm nhanh hơn ở Quốc Việt, 2020). Điều này đang đặt ra một khu vực nông thôn. thách thức đáng kể trong việc thực hiện mục tiêu phát triển theo hướng đảm bảo công bằng 2.2. Đánh giá thực trạng bất bình bẳng xã hội mà Việt Nam đã đặt ra. Đồng thời qua thu nhập của Việt Nam từ 2016 - 2020 phân tích ở trên có thể thấy trong thời gian Hiện nay, đại dịch Covid-19 đang ảnh qua Việt Nam đã đạt được những thành tích hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh đáng ghi nhận trong công cuộc tạo bình đẳng tế Việt Nam nói riêng và kinh tế thế giới nói thu nhập như: Hệ số GINI của Việt Nam qua chung. Theo số liệu Tổng cục Thống kê, tính các năm có xu hướng giảm; so với các nước 70
  6. Tạp chí Khoa học, Tập 1, Số 1/2022 có cùng điều kiện phát triển thì hệ số GINI tác động nặng nề của Covid-19 đến nền kinh của Việt Nam được đánh giá tương đối thấp; tế nói chung và việc thực hiện mục tiêu bình Thu nhập của người dân không ngừng tăng đẳng trong thu nhập nói riêng thì đây được lên ở tất cả các nhóm đối tượng; đồng thời xem là biện pháp có tính chất “dài hạn”. tỷ lệ hộ nghèo cũng liên tục giảm. Đây được Thứ hai, ưu tiên đầu tư vào nguồn lực xem là những tín hiệu lạc quan đối với Việt con người ở vùng nông thôn. Cụ thể cần có Nam trong thời gian tới. các hoạt động đầu tư giáo dục và đào tạo Tuy nhiên, bên cạnh những thành công nhằm cải thiện trình độ và kỹ năng lao động; đó, quá trình đảm bảo công bằng trong thu miễn hoặc giảm học phí cho các khu vực khó nhập của Việt Nam cũng còn có một số hạn khăn; thực hiện cải cách giáo dục; phát triển chế cần khắc phục ngay như: Đang có một thị trường lao động đầy đủ và minh bạch khoảng cách rất lớn giữa các nhóm thu nhập thông qua các chính sách tạo việc làm cho hiện nay; khoảng cách thu nhập của khu vực khu vực nông thôn. Với những hoạt động nông thôn vẫn đang cao hơn hẳn so với khu đầu tư phát triển nguồn lực con người ở khu vực thành thị; tỷ lệ hộ nghèo mặc dù đã giảm vực nông thôn như vậy thì mới có điều kiện xuống nhưng so với các quốc gia trong khu để nâng cao năng suất lao động, từ đó tăng vực vẫn còn đang ở mức cao. Bình đẳng thu thêm thu nhập cho đối tượng này. nhập có liên quan chặt chẽ với tăng trưởng Thứ ba, đầu tư và phân bổ nguồn lực kinh tế, vừa phản ánh thực trạng phát triển xã một cách hiệu quả, hợp lý. Với thực trạng hội; vừa là động lực cho tăng trưởng vì vậy khoảng cách thu nhập giữa các nhóm thu Việt Nam cần có lộ trình tăng trưởng toàn nhập ngày càng nghiêm trọng thì Nhà nước diện (Hoàng Thị Minh Hà, 2022). cần thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều 2.3. Các giải pháp hạn chế tình trạng ở tất cả các khu vực, tuy nhiên ưu tiên trọng bất bình đẳng thu nhập của Việt Nam điểm là các vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao. Sử trong thời gian tới dụng linh hoạt các công cụ hỗ trợ miễn phí Đứng trước những cơ hội và thách thức sang hỗ trợ có điều kiện như tín dụng ưu đãi, trong năm 2022, Việt Nam cần có những giải hỗ trợ sản xuất để tạo động lực cho người pháp có tính đột phá để có thể thực hiện thành dân vươn lên thoát nghèo, nâng cao thu nhập. công các mục tiêu phát triển theo hướng đảm Đồng thời, thiết kế hệ thống thuế sao cho bảo công bằng thu nhập mà Việt Nam đã đề không triệt tiêu động lực làm giàu của những ra như sau: người giàu; tăng đầu tư công vào những khu vực kém phát triển; đồng thời, nâng cao chất Thứ nhất, Nhà nước cần ban hành các lượng quản lý đầu tư công cũng như cải thiện chính sách giúp ngăn ngừa, kiểm soát bệnh chất lượng các dịch vụ công, để các kết quả dịch, tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp và đầu tư đến với người dân, đặc biệt là nhóm người lao động tháo gỡ khó khăn, đảm bảo người dân nghèo. an sinh xã hội, đồng thời đưa ra các gói hỗ trợ để giúp cho những người lao động có thêm Thứ tư, tăng cường biện pháp hỗ trợ thu nhập trong giai đoạn bị nghỉ việc, giãn đối tượng “yếu thế”. Thực tế đã cho thấy việc do dịch bệnh Covid-19. Trước những nhóm người nghèo và người nghèo là những 71
  7. Trường Đại học Kinh tế Nghệ An đối tượng rất dễ bị tổn thương, nguy cơ tái dải thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, tức là nghèo rất dễ xảy ra. Vì vậy, Nhà nước cần nhìn vào giá trị của hệ số GINI, chúng ta biết tăng cường biện pháp hỗ trợ các đối tượng được thu nhập của nền kinh tế được dải đều này như hỗ trợ về tài chính cho hộ gia đình hay không đều cho các nhóm dân cư trong nghèo, giảm bớt các chi phí cho giáo dục để xã hội, nhưng nó chưa cho biết mức độ trầm đảm bảo cơ hội tiếp cận giáo dục cho người trọng hay không trầm trọng về sự bất bình lao động nghèo; cung cấp các dịch vụ y tế, đẳng thu nhập giữa các tầng lớp dân cư tức giáo dục miễn phí; đào tạo nghề miễn phí là mức độ phân biệt về thu nhập giữa hai đầu cho lao động; cho vay vốn để mở rộng sản giàu nhất và nghèo nhất. Do đó, đối với Việt xuất; từng bước cải thiện và nâng cao đời Nam nói riêng và các nước đang phát triển sống vật chất, tinh thần của hộ nghèo, hộ cận nói chung, cần xây dựng các công cụ đánh nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, góp phần vào giá bất bình đẳng để có thể dễ dàng tính toán sự phát triển ổn định, bền vững. cũng như công bằng trong quá trình so sánh. Thứ năm, cần bổ sung thêm công cụ 3. KẾT LUẬN đánh giá. Mặc dù hệ số GINI đã khắc phục Trong những năm qua, với những quyết được những hạn chế của đường cong Lorenz sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, cũng là nó lượng hóa được mức độ bất bình đẳng như các cấp, các ngành nền kinh tế Việt Nam trong phân phối thu nhập. Tuy vậy, cũng sẽ có đã gặt hái được rất nhiều thành công, tạo ra một hạn chế nảy sinh, đó là trường hợp, sau được nhiều dấu ấn quan trọng. Tuy nhiên, khi tính toán, hệ số GINI của 2 nước nhận giá bất bình đẳng trong thu nhập vẫn là một hạn trị bằng nhau, tức là diện tích hình A của hai chế cố hữu trong quá trình tiến tới mục tiêu đường Lorenz là bằng nhau, nhưng độ phân phát triển bền vững của Việt Nam. Đồng bổ các nhóm dân cư có mức thu nhập khác thời, trước những tác động tiêu cực của đại nhau không giống nhau, điều này chỉ xẩy dịch Covid 19 đối với kinh tế lẫn con người ra khi hai đường Lorenz trùng nhau. Trong trong thời gian tới, thì đòi hỏi, Việt Nam cần trường hợp này hệ số GINI không giúp ích phải có những chính sách đúng đắn và bước cho việc so sánh mức độ bất bình đẳng trong đi tích cực hơn để thực hiện thành công các phân phối thu nhập của hai nước. Một bất mục tiêu về bình đẳng thu nhập mà Việt Nam cập nữa của hệ số GINI là nó chỉ đo độ phân đã đề ra. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đại hội Đảng lần thứ XIII (2021). Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, Đảng cộng sản Việt Nam. 2. Hoàng Thị Minh Hà (2022). Định vị Việt Nam trong lộ trình tăng trưởng toàn diện, Viện chiến lược và chính sách tài chính. 3. Lê Quốc Việt (2020). Covid-19 đã ảnh hưởng đến việc làm như thế nào, https:// congthuong.vn/. 72
  8. Tạp chí Khoa học, Tập 1, Số 1/2022 4. Lê Thị Mỹ Tâm & Bành Thị Vũ Hằng (2018). Giáo trình kinh tế phát triển, Trường Đại học Kinh tế Nghệ An. 5. Quốc Huy (2021). Thành tựu kinh tế giai đoạn 2016 - 2020: Cơ đồ mới, tiềm lực mới, Thông tấn xã Việt Nam. 6. Tổ chức lao động quốc tế (2021). Chậm phục hồi việc làm và gia tăng bất bình đẳng có nguy cơ để lại vết sẹo COVID-19 lâu dài, ILO. 7. Tổ chức Liên hiệp quốc (2020). Báo cáo xã hội thế giới 2020. 8. Tổng cục thống kê (2021). Kết quả khảo sát mức sống dân cư năm 2020. 9. Tổng cục thống kê (2021). Xu hướng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ở Việt Nam giai đoạn 2016-2020. SUMMARY INCOME INEQUALITY IN VIETNAM - REALITY AND SOLUTION Banh Thi Vu Hang1 1 Nghe An University of Economics Income inequality is a large disparity in income distribution, with most of the total income in an economy concentrated in the hands of a small percentage of the population. When countries experience income inequality, it will negatively affect development in general, damage social cohesion such as adversely affect people’s quality of life, make increasing poverty rate, hindering health-education progress in general. The article “Income inequality in Vietnam - current situation and solutions” has the goal of clarifying the current situation of income inequality in Vietnam, thereby proposing some basic solutions to help improve income inequality in the coming period. Keywords: Income inequality, Improve income inequality. 73
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2