
BỆNH DO TRYPANOSOMA
( Trypanosomiasis )
1. ĐẠI CƯƠNG:
Bệnh do Trypanosoma (Trypanosomiasis) là bệnh do ký sinh trùng đơn bào
(Protozoa), lớp trùng roi (Flagellata) gây ra. Bệnh được chia thành hai nhóm bệnh
chính là:
- Bệnh do Trypanosoma Châu Mỹ (American Trypanosomiasis), còn gọi là bệnh
Chagas là bệnh lây từ động vật sang người do T. cruzi gây ra. Thể cấp của bệnh
thường nhẹ, có sốt. Thể mạn tính có nồng độ kháng thể kháng T. cruzi cao và
không có triệu trứng lâm sàng. Một số ít bệnh nhân mạn tính có tổn thương tim, hệ
tiêu hoá, thậm chí tử vong.
- Bệnh do Trypanosoma Châu Phi (African Trypanosomiasis), còn gọi bệnh ngủ
(sleeping sickness), do các chủng của T. brucei gây ra, lây truyền qua các vết cắn
của ruồi Glossina bị nhiễm bệnh. Bệnh có biểu hiện lâm sàng sớm là các nốt

"săng" đặc hiệu, sốt, viêm hạch lympho..., muộn gây bệnh ngủ do viêm não-màng
não dẫn đến tử vong.
2. BỆNH DO TRYPANOSOMA CHÂU MỸ - BỆNH CHAGAS: 2.1. Mầm
bệnh :
Là Trypanosoma cruzi, trong cơ thể người T. cruzi tồn tại dưới 2 dạng : ở máu có
roi và trong các mô không có roi. T. cruzi sinh sản theo phương thức vô tính,
phân chia theo chiều dọc, ký sinh ở máu, các tế bào võng nội mô(lách, hạch bạch
huyết), cơ tim.
2.2. Dịch tễ học: 2.2.1. Nguồn bệnh: là động vật (trên 150 loài động vật nuôi và
hoang dã: chó, mèo, chuột, các loài gậm nhấm, động vật ăn thịt...) và người.
2.2.2. Lây truyền: - T. cruzi được lây truyền giữa các động vật có vú thông qua
môi giới truyền bệnh là các loài hút máu (rận, rệp). Tuy nhiên, rận, rệp không
truyền thẳng mầm bệnh vào người và động vật khi hút máu mà T. cruzi (có ở
trong phân của rận, rệp) sẽ xâm nhập vào cơ thể người qua vết đốt hoặc vết xước ở
da (do ngứa gãi) hoặc qua kết mạc.
- T. cruzi còn có thể được lây truyền do truyền máu có sẵn mầm bệnh, hoặc ghép
tổ chức.
- Mẹ truyền cho con (nhiễm bẩm sinh) do Trypanosomia qua được nhau thai. Rất
ít khả năng lây truyền qua sữa mẹ khi cho con bú.

2.2.3. Đặc điểm dịch tễ học : - T. cruzi chỉ được phát hiện ở châu Mỹ (cả Bắc,
Trung và Nam Mỹ). Theo ước tính gần đây có khoảng 16 triệu người trên thế giới
bị bệnh mạn tính, trong đó hơn 1/3 là ở Brazil. Bệnh Chagas mạn tính là nguyên
nhân gây bệnh và tử vong chính ở nhiều nước Mỹ la tinh, kể cả Mehico.
- Mọi người đều có thể bị bệnh, nhưng bệnh thường diễn biến nặng hơn ở người
trẻ tuổi. Những người suy giảm miễn dịch (bệnh nhân AIDS) thường bị biến
chứng nặng.
2.3. Lâm sàng: 2.3.1. Bệnh Chagas cấp tính - Thời kỳ nung bệnh : 1-2 tuần từ
khi bị rận, rệp đốt. 30-40 ngày sau truyền máu.
- Khi ký sinh trùng xâm nhập qua da, tại chỗ xâm nhập xuất hiện cục cứng đỏ
sẫm, nề và hồng ban (Chagoma) kèm theo sưng đau các hạch bạch huyết. Nếu ký
sinh trùng qua niêm mạc mắt, có dấu hiệu Romana (dấu hiệu kinh điển của bệnh
Chagas cấp) : phù nề một bên mi mắt và quanh hốc mắt. Dấu hiệu này có thể tồn
tại 2 tháng.
- Các triệu chứng toàn thân : mệt mỏi, khó chịu, sốt cao, phù nề vùng mặt và tay
chân. Gan, lách, hạch to. Hiếm gặp là viêm cơ tim, nhưng hầu hết các trường hợp
tử vong đều do suy tim. Triệu chứng thần kinh có thể thấy viêm não, màng não.
- Tiến triển: phần lớn các bệnh nhân cấp tính sau đều trở thành ngưòi mang mầm
bệnh không triệu chứng hoặc mạn tính.

2.3.2. Bệnh Chagas mạn tính: Bệnh có thể kéo dài hàng năm, thậm chí hàng chục
năm. Biểu hiện lâm sàng thường gặp ở tim và não.
- Biểu hiện thường gặp là loạn nhịp tim, viêm cơ tim và nghẽn tắc mạch. Trên
điện tim đồ có hình ảnh block nhánh, block nhĩ thất, loạn nhịp tim. Viêm cơ tim là
nguyên nhân gây suy tim phải hoặc suy tim toàn bộ.
- Nghẽn tắc mạch não có thể gặp, nhất là ở bệnh nhân AIDS có thể tổn thương
nhiều ổ và viêm não-màng não lan toả có hoại tử và xuất huyết.
- Thực quản thường bị dãn to, đau. Bệnh nhân đau ngực, khó nuốt và nôn.
- Hay gặp khó thở khi hít vào, đặc biệt là trong khi ngủ. Hay có biểu hiện viêm
phổi.
- Bệnh nhân gầy yếu suy nhược, sút cân, dễ bội nhiễm và có thể dẫn tới tử vong.
Một số nguyên nhân khác gây tử vong có thể là do tắc hoặc thủng ruột, nhiễm
khuẩn huyết...
2.4. Chẩn đoán: Chẩn đoán xác định bệnh Chagas chủ yếu dựa vào các xét
nhiệm ký sinh trùng:
- Nhuộm Giêmsa, soi tìm ký sinh trùng ở các bệnh phẩm là máu, hạch lympho,
các mảnh mô hoặc các chất dịch cơ thể. Dàn tiêu bản giọt dày và mỏng.
- Cấy máu trên môi trường đặc biệt.

- Gần đây người ta tiến hành kỹ thuật nuôi dưỡng rệp bằng máu của bệnh nhân
nghi bị bệnh Chagas. Sau 30 ngày nuôi, tiến hành mổ rệp và tìm ký sinh trùng
trong ruột của chúng. Bằng kỹ thuật này đã phát hiện được ký sính trùng (+) trong
hầu hết các bệnh nhân bị bệnh cấp tính và khoảng 50 % bệnh mạn tính.
- Để chẩn đoán bệnh Chagas mạn tính người ta còn phát hiện kháng thể kháng T.
cruzi bằng phương pháp cố định bổ thể, miễn dịch huỳnh quang và ELISA. Tuy
nhiên, có thể gặp phản ứng dương tính giả, đặc biệt là với Leishmaniasis. Phương
pháp khuếch tán miễn dịch có độ nhậy và độ đặc hiệu cao, tránh được dương tính
giả.
- Kỹ thuật PCR (polymerase chain reaction) cũng được sử dụng, nhưng chưa
được phổ biến.
2.5. ĐIều trị:
Chưa chắc chắn, tốt nhất là các dẫn suất của Nitrofuran.
- Nifurtimox là thuốc được sử dụng phổ biến hiện nay ở Mỹ. Đối với bệnh
Chagas cấp, Nifurtimox làm giảm các triệu chứng lâm sàng và thời gian tồn tại của
ký sinh trùng trong máu, hạ thấp tỷ lệ tử vong. Tuy nhiên thuốc không có khả
năng làm mất hoàn toàn ký sinh trùng, vẫn phát hiện được ký sinh trùng sau một
thời gian điều trị. Do đó việc dùng thuốc càng sớm càng có hiệu quả. Đối với bệnh
chagas mạn tính, tác dụng của Nirfurtimox chưa rõ ràng nên không có chỉ định.

