
BỆNH HỌC THỰC HÀNH
TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO
(Accidents vasculaires cérébraux - Cerebral vascular accidents)
Bệnh mạch máu não cấp cũng gọi là tai biến mạch máu não là một
chứng bệnh cấp tính thường gặp ở người trung niên và cao tuổi. Đặc điểm
lâm sàng chủ yếu của bệnh là: Phát bệnh đột ngột, hôn mê và bán thân bất
toại. Bệnh có thể chia làm 2 loại: Xuất huyết não (Hémorragie cérébrale) và
Nhũn não (Ramollissement cérébral). Xuất huyết não bao gồm chảy máu
não và chảy máu dưới màng cứng. Nhũn não bao gồm sự hình thành huyết
khối và sự tắc nghẽn mạch não. Trừ thể xuất huyết dưới màng cứng, sách Y
học cổ truyền Đông phương gọi một tên chung là chứng ‘Trúng Phong’.
Đông y đã có nhận thức sớm về chứng tai biến mạch máu não. Cách
đây hơn hai nghìn năm, trong sách ‘Linh Khu’ đã ghi các chứng: ‘Kích
Bộc’, ‘Thiên Khô', ‘Phong Phì’, có các triệu chứng ghi như: Đột nhiên hôn
bộc, một nửa người không cử động tự chủ. Và chứng ‘đại quyết’ trong sách
Tố Vấn ghi vềø cơ chế bệnh là do khí huyết cùng thượng nghịch, và nói đến

tiên lượng bệnh là: ‘Khí hồi phục (phản phục) được là sống, còn không phản
phục được là chết. Sách ‘Kim Quỹ Yếu Lược’ gọi là chứng ‘trúng phong’ và
mô tả các triệu chứng của trúng phong như sau: Bán thân bất toại, miệng
méo, nói khó, nặng thì bất tỉnh nhân sự. Sách vở đời nhà Đường (701 - 704)
và đời Tống (973 - 1098) nhận thức về nguyên nhân bệnh là do hư tồn, các
thời đại sau bổ sung thêm nhiều luận thuyết, về nguyên nhân như Lưu
HàGian cho là do ‘hỏa’, Lý Đông Viên cho là do ‘khí hư’, Chu Đan Khê cho
là ‘đờm nhiệt’. Các học giả sau này như Trương Cảnh Nhạc (đời nhà Minh),
Diệp Thiên Sĩ (đời nhà Thanh) đều cho rằng bệnh là do ‘nội thương’, ‘tích
tổn’ mà thành chứ không phải do phong tà bên ngoài xâm nhập cơ thể. Về
tạng phủ mắc bệnh, các học giả Đông y đều cho rằng sách ‘Nội kinh’ viết
rằng: ‘Giận dữ nhiều thì hình khí bị tuyệt mà huyết tràn lên trên’, và ‘huyết
khí cùng thượng nghịch’, phía trên là chỉ về não, một trong những phủ kỳ
hằng, là bể của tủy, khí của não, có liên hệ thông với thận. Không chỉ nhận
định rằng bệnh do não, Đông y cũng cho rằng bệnh có liên hệ đến nhiều tạng
phủ khác như Can, Thận, Tâm, Tỳ, Vị v.v...
Việc phân loại ‘trúng kinh lạc’ và 'trúng tạng phủ’ chủ yếu dựa vào
triệu chứng lâm sàng: nặng nhẹ mà phân loại: Nhẹ là trúng kinh lạc, nặng là
trúng tạng phủ. Triệu chứng trúng kinh lạc thường là: Chân tay tê dại, miệng
méo, hoặc nói khó, bán thân bất toại nhưng không có hôn mê. Triệu chứng

trúng tạng phủ thì bệnh nặng mê man hoặc hôn mê bất tỉnh các triệu chứng
lâm sàng nặng hơn.
Kết hợp với nhận thức của y học hiện đại, trước tiên cần xác định là
chứng trúng phong do xuất huyết não hay do nhũn não. Nếu do xuất huyết
não thì dùng phép thanh nhiệt, thông phủ, bình Can, tức phong, hoạt huyết,
chỉ huyết là chính. Nếu là nhũn não phép chữa chủ yếu là ích khí, hóa ứ,
dưỡng âm, hoạt huyết là chính.
Đông y còn cho rằng ‘trúng phong' là chứng bệnh dẫn đầu trong 4 loại
bệnh lớn nội khoa và gắn triệu chứng bệnh với các tạng phủ cùng tiên lượng
bệnh như sau: ‘Miệng há, tay buông thông là tỳ tuyệt; Mắt nhắm là Can
tuyệt; Hôn mê bất tỉnh, mũi phập phồng là Phế tuyệt; đái dầm là Thận tuyệt;
Lưỡi ngắn không nói được là Tâm tuyệt; Nấc cụt không dứùt là Vị khí tuyệt.
Những nghiên cứu gần đây cho thấy số người bị tai biến mạch máu
não ở tuổi trung niên khá đông. Điều này cho thấy thể chất con người trên 40
tuổi thường chuyển từ thịnh sang suy và bệnh tai biến mạch máu não thường
liên quan đến các bệnh mà người trên 40 tuổi hay mắc như xơ mỡ mạch
máu, cao huyết áp, bệnh tim, tiểu đường, bệnh béo phì... mà các bệnh này
thường là ‘hư chứng’ hoặc trong hư kiêm thực chứng, phù hợp với nhâïn

thức của Y học cổ truyền đã ghi trong sách ‘Nội Kinh’: ‘Người ta 40 tuổi là
khí âm còn một nửa, đứng ngồi yếu'.
Do đó càng thấy rõ tai biến mạch máu não là bệnh nội thương mà bản
chất bệnh là hư chứng. Những tác động bên ngoài như thời tiết thay đổi đột
ngột hoặc những kích động tâm thần đột ngột làm cho can phong nội động,
khí huyết nghịch loạn, hoặc uống rượu nhiều, ăn nhiều chất béo mỡ gây tích
trệ tại tỳ vị tích cũng hóa nhiệt cũng gây ra phong động, cho thấy bệnh bản
chất là hư nhưng thường kèm phong, đờm, nhiệt, ứ là vì vậy.
Nói chung, tai biến mạch máu não thường có 2 thể bệnh: Xuất huyết
não và Nhũn não có nguyên nhân và cơ chế bệnh khác nhau, triệu chứng lâm
sàng có những đặc điểm riêng. Xuất huyết não thường khởi phát đột ngột,
phần lớn hôn mê, bệnh cảnh lâm sàng nặng dễ dẫn đến tử vong (hôn mê
càng sâu càng kéo dài tử vong càng cao). Nhũn não thường phát bệnh từ từ
hơn, có những tiền triệu chứùng ít có hôn mê, tinh thần phần lớn là tỉnh táo,
chỉ có liệt nửùa người, nói khó, bệnh chứng trên lâm sàng nhẹ hơn dễ hồi
phục hơn. Nhưng cũng có những trường hợp nhất là những trường hợp mà
huyết khí từ các nơi khác di chuyển đến não làm tắc nghẽn mạch não thì
phát bệnh cũng đột ngột và cũng có nhữøng trường hợp hôn mê nặng, cần
được lưu ý lúc chẩn đoán.

(Xem thêm chi tiết trong bài ‘Xuất Huyết Não’ và ‘Nhũn Não’).
Kết hợp điều trị bằng phương pháp y học hiện đại: Chủ yếu ở giai
đoạn bệnh nhân hôn mê. Bệnh nhân cần được:
- Bảo đảm thông khí đường hô hấp: Hút đờm dãi, thở oxy.
- Bảo đảm đủ chất dinh dưỡng: Mỗi ngày ít nhất 1500 ca lo. Truyền
dung dịch ngọt ưu trương xen kẽ với dung dịch ngọt và dung dịch mặn đẳng
trương.
Theo dõi và xử trí kịp thời các biến chứng tán mạch như thiếu máu cơ
tim, nhồi máu cơ tim...
- Chống loét (cần thay đổi tư thếâ) và chống nhiễm khuẩn.
- Cân bằng nước, điện giải... ổn định huyết áp.
Đối với bệnh nhân không hôn mê, huyết áp ổn định, thực hiện điều trị
phục hồi càng sớm càng tốt.
Một Số Bài Thuốc Kinh Nghiệm
Một Số Bài Thuốc Trị Tai Biến Mạch Máu Não: (theo sách Trung
Quốc Trung Y Bí Phương Đại Toàn).

