
HƯỚNG DẪN CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ MỘT SỐ BỆNH TRUYỀN NHIỄM 33
BỆNH SỐT RÉT KHÁNG THUỐC
1. ĐẠI CƯƠNG
Sốt rét kháng thuốc (Resistance malaria - theo định nghĩa của WHO 2011 -
Global plan for Artemisinin resistance containment - GPARC) là khả năng một chủng
ký sinh trùng sốt rét vẫn tồn tại và/hoặc nhân lên khi sử dụng thuốc sốt rét đủ liều hoặc
với liều cao hơn liều khuyến cáo và khả năng hấp thu thuốc và dung nạp thuốc của
người bệnh tốt. Cơ chế do đột biến tự nhiên tại 1 hoặc vài vị trí trên genome của ký sinh
trùng sốt rét.
Cần phải phân biệt giữa sốt rét kháng thuốc thật sự với thất bại điều trị: sốt rét
kháng thuốc chắc chắn dẫn tới thất bại điều trị, trong khi đó thất bại điều trị không chỉ
do kháng thuốc mà còn có nhiều yếu tố khác như: dùng thuốc không đủ liều, không đủ
thời gian, thuốc kém chất lượng, tương tác với thuốc khác làm giảm hiệu lực thuốc sốt
rét, kém hoặc rối loạn hấp thu, chẩn đoán nhầm...
Số trường hợp sốt rét thất bại điều trị trong vòng 10 năm qua đã xuất hiện tại trên
50% trong số 43 nước có lưu hành bệnh sốt rét, chủ yếu ở châu Phi và tiểu vùng sông
Mê kông. Plasmodium falciparum đã kháng lại với nhiều loại thuốc sốt rét và đặc biệt
nghiêm trọng là kháng với artemisinin.
2. NGUYÊN NHÂN
2.1. Đơn trị liệu
2.2. Dùng thuốc không đủ liều lượng và thời gian
2.3. Chưa rõ cơ chế sốt rét kháng lại artemisinin, giả thuyết về cơ chế đột biến trên
một hoặc nhiều đoạn genome của ký sinh trùng sốt rét
3. CHẨN ĐOÁN
3.1. Lâm sàng
a. Sốt
Có triệu chứng điển hình của cơn sốt rét với 3 giai đoạn: rét run, sốt nóng và ra
mồ hôi.
Hoặc có triệu chứng không điển hình của cơn sốt rét: sốt không thành cơn (người
bệnh thấy ớn lạnh, gai rét, nhiệt độ nách 37,50C) hoặc sốt cao liên tục, sốt dao động.
Đang ở hoặc qua lại vùng sốt rét lưu hành, có tiền sử mắc sốt rét trong 2 năm gần đây.
Thiếu máu.
Gan to, lách to.